Tác động của thu nhập ngoài lãi đến khả năng sinh lời của các ngân hàng thương mại Việt Nam
Đề án Cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng (TCTD) theo Quyết định số 254/QĐ-
TTg năm 2012 và Quyết định số 986/QĐ-TTg năm 2018 về Chiến lược phát triển
Ngành Ngân hàng có nội dung liên quan đến đa dạng hóa thu nhập là từng bước
chuyển dịch mô hình kinh doanh của các ngân hàng theo hướng giảm bớt sự phụ
thuộc vào hoạt động tín dụng và tăng thu nhập từ hoạt động dịch vụ phi tín dụng
tức dịch vụ ngoài lãi. Bài viết này nhằm nghiên cứu tác động của thu nhập các dịch
vụ ngoài lãi đến khả năng sinh lợi của ngân hàng với các chỉ tiêu
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Bạn đang xem tài liệu "Tác động của thu nhập ngoài lãi đến khả năng sinh lời của các ngân hàng thương mại Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Tác động của thu nhập ngoài lãi đến khả năng sinh lời của các ngân hàng thương mại Việt Nam
70 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng Số 224+225- Tháng 1&2. 2021 © Học viện Ngân hàng ISSN 1859 - 011X Tác động của thu nhập ngoài lãi đến khả năng sinh lời của các ngân hàng thương mại Việt Nam Huỳnh Thị Hương Thảo Trường Đại học Công nghiệp Thực phẩm TP.HCM Phạm Thị Kim Ánh Trường Đại học Công nghiệp Thực phẩm TP.HCM Ngô Minh Phương Trường Đại học Công nghiệp Thực phẩm TP.HCM Ngày nhận: 27/10/2020 Ngày nhận bản sửa: 23/11/2020 Ngày duyệt đăng: 21/12/2020 Đề án Cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng (TCTD) theo Quyết định số 254/QĐ- TTg năm 2012 và Quyết định số 986/QĐ-TTg năm 2018 về Chiến lược phát triển Ngành Ngân hàng có nội dung liên quan đến đa dạng hóa thu nhập là từng bước chuyển dịch mô hình kinh doanh của các ngân hàng theo hướng giảm bớt sự phụ thuộc vào hoạt động tín dụng và tăng thu nhập từ hoạt động dịch vụ phi tín dụng tức dịch vụ ngoài lãi. Bài viết này nhằm nghiên cứu tác động của thu nhập các dịch vụ ngoài lãi đến khả năng sinh lợi của ngân hàng với các chỉ tiêu: Lợi nhuận sau thuế trên tổng tài sản bình quân (ROAA); lợi nhuận sau thuế trên vốn chủ sở hữu The impact of non-interest income on profitability of Vietnamese commercial banks Abstract: Decision No. 254/QD-TTg in 2012 on restructuring the system of credit institutions and Decision No. 986/QD-TTg in 2018 on development strategies of the banking industry related to diversity income, gradual transformation of banks’ business models in the direction of reducing dependence on credit activities and increasing income from non-credit services. This article aims to study the impact of non-interest income on the bank’s profitability with the following criteria: profit after tax on assets average (ROAA), profit after tax on equity average (ROEA), net interest margin (NIM) through regression models Pooled OLS, FEM, REM, GMM. The research’s results show that non- interest income has a positive impact on ROAA and ROEA but has a negative impact on NIM, thereby proposing solutions to diversify non-interest business activities to improve profitability of Vietnamese commercial banks. Keywords: Vietnamese commercial banks, profitability, non-interest income. Thao Thi Huong Huynh Email: thaohth@hufi.edu.vn Anh Thi Kim Pham Email: anhptk@hufi.edu.vn Phuong Minh Ngo Email: phuongnm@hufi.edu.vn Organization of all: University of Food Industry Ho Chi Minh City HUỲNH THỊ HƯƠNG THẢO - PHẠM THỊ KIM ÁNH - NGÔ MINH PHƯƠNG 71Số 224+225- Tháng 1&2. 2021- Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng bình quân (ROEA); thu nhập lãi cận biên (NIM) qua mô hình hồi quy Pooled OLS, FEM, REM, GMM. Kết quả nghiên cứu cho thấy thu nhập ngoài lãi có tác động cùng chiều đến ROAA, ROEA nhưng tác động ngược chiều đến NIM, từ đó đề xuất giải pháp nhằm đa dạng hóa các hoạt động kinh doanh ngoài lãi để nâng cao khả năng sinh lợi của các ngân hàng thương mại (NHTM) Việt Nam. Từ khóa: Ngân hàng thương mại Việt Nam, khả năng sinh lời, thu nhập ngoài lãi. 1. Giới thiệu Nền kinh tế thị trường phát triển, các doanh nghiệp đa dạng hóa hoạt động kinh doanh và nhu cầu về các dịch vụ tài chính ngân hàng ngày càng phong phú đa dạng, đòi hỏi các ngân hàng thực hiện đa dạng hóa loại hình dịch vụ ngân hàng nhằm cung cấp được nhiều sản phẩm ngân hàng một cách nhanh chóng, linh hoạt, có chất lượng cho khách hàng và nền kinh tế. Khi mở rộng hoạt động ở mảng dịch vụ hoa hồng, phí, đầu tư, kinh doanh, các ngân hàng (NH) tiết kiệm được nguồn chi phí về nhân lực công nghệ (Baele và cộng sự, 2007). Đồng thời, các NH có thể thu thập được nhiều thông tin hơn nên tạo điều kiện để bán chéo sản phẩm hiện có với các khách hàng và phát triển các hoạt động khác, tận dụng được mối quan hệ với khách hàng để tiếp thị thêm sản phẩm hiện có nhằm gia tăng thị phần, tăng doanh thu và lợi nhuận. Hoạt động kinh doanh ngoài lãi phát triển sẽ đẩy mạnh nguồn thu phí dịch vụ như: phí chuyển tiền, phí thanh toán séc, phí ủy thác và tư vấn, phí dịch vụ thẻ, phí quản lý tài khoản, phí sử dụng dịch vụ ngân hàng điện tử và các loại thu nhập khác. Bên cạnh đó, với lợi thế phục vụ số đông khách hàng, các hoạt động phi tín dụng còn đóng vai trò bổ sung và hỗ trợ cho các hoạt động khác nên gián tiếp tạo ra lợi nhuận từ các hoạt động này như thu hút việc duy trì tài khoản tiền gửi thanh toán của các tổ chức thông qua dịch vụ trả lương cán bộ, phát hành thẻ thanh toán. Mục tiêu cuối cùng cho các quyết định lựa chọn là làm gia tăng doanh thu, giảm thiểu tối đa chi phí, ngày càng đạt nhiều lợi nhuận, thu hút càng nhiều khách hàng và đảm bảo cho NH tồn tại, phát triển ổn định, bền vững. Một trong các chỉ tiêu để phản ánh thành quả đó là khả năng sinh lời của NH tăng lên (Lepetit và cộng sự, 2008; Lâm Chí Dũng và cộng sự, 2015). Do đó, đa dạng hóa các hoạt động tạo nguồn thu nhập ngoài lãi (TNNL) được xem là phương thức tốt nhất phản ánh kết quả trong quá trình hoạt động của NH và là xu thế phát triển tất yếu của các NHTM Việt Nam. Hiện nay, có nhiều nghiên cứu về mối quan hệ giữa thu nhập hoạt động kinh doanh ngoài lãi thông qua chỉ số đa dạng hóa thu nhập và khả năng sinh lợi của NH thông qua chỉ tiêu lợi nhuận sau thuế trên tổng tài sản (ROA - Return on Assets), lợi nhuận sau thuế trên vốn chủ sở hữu (ROE - Return on Equity). Tuy nhiên, những nghiên cứu về riêng về TNNL tác động đến khả năng sinh lợi theo ba chỉ số tài chính: ROAA (Return on Assets Average), ROEA (Return on Equity Average) và thu nhập lãi cận biên (NIM - Net Interest Margin) của các NHTM Việt Nam giai đoạn 2008 - 2019 chưa được tìm thấy trong những nghiên cứu trước đây. Vì vậy, việc nghiên cứu chuyên sâu về ảnh hưởng của TNNL đến khả năng sinh lợi của các NHTM Việt Nam là có giá trị nhằm đa dạng hóa hoạt động kinh doanh để nâng cao khả năng sinh lợi của các NHTM Việt Nam. Tác động của thu nhập ngoài lãi đến khả năng s ... 3333***(0,000) -0,2164448*** (0,002) 0,030917*** (0,000) QMTS 0,1319852***(0,000) 1,430332*** (0,000) 0,0763166 (0,234) CV 0,0015367(0,348) 0,1065283*** (0,000) 0,0293775*** (0,000) NX -0,0049324(0,355) 0,0209992 (0,849) -0,0365686*** (0,000) CVHD 0,0014445(0,150) 0,0064703 (0,561) 0,0043768 (0,130) HQQL -0,0347524***(0,000) -0,339029*** (0,000) -0,0036298*** (0,001) TTKT -0,0060676(0,403) 0,2859975** (0,018) -0,000823 (0,978) LP -0,0072716***(0,000) 0,00684 (0,778) 0,059572*** (0,000) CONS 0,3064121(0,362) 0,022492 (0,997) -1,28634 (0,251) Các kiểm định F-test Prob > F = 0,0000 Prob > F = 0,0000 Prob > F = 0,0000 Hausman test Prob > chi2 = 0,2858 Prob > chi2 = 0,7859 Prob > chi2 = 0,8973 Breusch-Pagan Lagrangian test Prob > chi2 = 0,0000 Prob > chi2 = 0,0000 Prob > chi2 = 0,0000 Wooldridge test Prob > F = 0,0014 Prob > F = 0,0000 Prob > F = 0,0000 Arellano-Bond test Prob > z = 0,6146 Prob > z = 0,1000 Prob > z = 0,4015 Sargan test Prob > chi2 = 0,9999 Prob > chi2 = 0,9999 Prob > chi2 = 0,9982 (***), (**) và (*) thể hiện ở mức ý nghĩa 1%, 5% và 10% Nguồn: Tổng hợp kết quả với dữ liệu của 32 NHTM khảo sát Tác động của thu nhập ngoài lãi đến khả năng sinh lời của các ngân hàng thương mại Việt Nam 76 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 224+225- Tháng 1&2. 2021 quan thuận chiều giữa tỷ lệ cho vay và ROE, NIM của NH. Biến NX có tác động ngược chiều đến NIM cho thấy, NH có nợ xấu cao dẫn đến nhiều hoạt động bị rủi ro và làm giảm NIM. Kết quả chứng tỏ, NH có khả năng kiểm soát tốt nợ xấu hay kiểm soát tốt chi phí kinh doanh thì tỷ lệ nợ xấu giảm là NH có suất sinh lời cao. Kết quả nghiên cứu Ongore và Kusa (2013) cũng đi đến kết luận tỷ lệ nợ xấu tác động ngược chiều đến NIM. Biến HQQL có tác động âm đến biến ROAA, ROEA, NIM đều ở mức ý nghĩa 1%, chỉ tiêu HQQL phản ánh tỷ lệ tổng chi phí trên tổng thu nhập, khi chi phí tăng nhanh hơn so với thu nhập từ hoạt động sẽ làm giảm khả năng sinh lợi của ngân hàng (Lepetit và cộng sự, 2008; Hồ Thị Hồng Minh và Nguyễn Thị Cành, 2015). Như vậy, có thể thấy lợi nhuận và chi phí luôn có mối quan hệ nghịch biến với nhau, với một NH hoạt động với trị số HQQL cao thì lợi nhuận của ngân hàng đó sẽ giảm, tức NH muốn gia tăng ROAA, ROEA, NIM thì cần kiểm soát tốt chi phí hoạt động của mình, đặc biệt là chi phí nhân viên để sử dụng nguồn nhân lực có hiệu quả. Biến HQQL có tác động âm đến biến ROAA, ROEA, NIM đều ở mức ý nghĩa 1% chứng tỏ trị số HQQL càng cao thì khả năng sinh lời càng thấp. Như vậy, HQQL của NH được cải thiện thì khả năng sinh lời của NH cũng gia tăng tức NH muốn gia tăng ROAA, ROEA, NIM thì cần kiểm soát tốt chi phí hoạt động của mình, đặc biệt là chi phí nhân viên để sử dụng nguồn nhân lực có hiệu quả. Kết quả ước lượng này thống nhất với hầu hết với các nghiên cứu Trujillo ‐ Ponce (2013), Ameur và cộng sự (2013), Hồ Thị Hồng Minh và Nguyễn Thị Cành (2015). Biến TTKT có ảnh hưởng cùng chiều đến ROEA với mức ý nghĩa 5%. Mối tương quan dương cho thấy, khi nền kinh tế có tăng trưởng tốt thì khả năng huy động vốn từ nền kinh tế của các NH tăng làm cho năng lực tài chính của các NH tăng, khi đó chỉ số ROEA của các NH tăng. Kết quả nghiên cứu Gul và cộng sự (2011), Trujillo ‐ Ponce (2013) cũng cho thấy mối tương quan dương giữa TTKT và ROE. Biến LP có ảnh hưởng ngược chiều đến ROAA nhưng ảnh hưởng cùng chiều đến NIM ở mức ý nghĩa 1% chứng tỏ khi nền kinh tế có lạm phát tăng cao sẽ làm thay đổi mức giá chung làm cho tình hình hoạt động kinh doanh của NH gặp nhiều biến động, ảnh hưởng đến mức độ ổn định ngân hàng. Một số nghiên cứu thực nghiệm cũng tìm thấy mối quan hệ ngược chiều giữa lạm phát và ROA của NH như: Ongore và Kusa (2013), Ameur và cộng sự (2013). Riêng nghiên cứu Gul và cộng sự (2011) đưa ra kết luận: lạm phát có tác động tích cực đến NIM. 4. Kết luận và hàm ý chính sách Theo kết quả nghiên cứu, biến TNNL có tác động tích cực đến ROAA, ROEA; mặc dù có tác động ngược chiều đến biến NIM nhưng điều này thể hiện tỷ lệ TNNL tăng lên và thu nhập từ lãi giảm xuống trong những năm gần đây, kết quả này hàm ý rằng các NH cần có những biện pháp nhằm đa dạng hoạt động kinh doanh để tìm kiếm các nguồn thu nhập ngoài lãi mang lại hiệu quả kinh tế và gia tăng khả năng sinh lời cho NH, từ đó giúp cho NH hoạt động ổn định và bền vững hơn. Vì vậy, nghiên cứu này đưa ra một số hàm ý chính sách nhằm đa dạng hóa các hoạt động kinh doanh ngoài lãi, nâng cao khả năng sinh lợi tại các NHTM Việt Nam như sau: - Phát triển, mở rộng và đa dạng hóa các sản phẩm dịch vụ: Do liên tục phải đối mặt với sự cạnh tranh gay gắt của các NH trong nước và nước ngoài, với nhu cầu ngày càng cao của khách hàng và với những tiến bộ trong công nghệ nên phát triển sản phẩm mới là HUỲNH THỊ HƯƠNG THẢO - PHẠM THỊ KIM ÁNH - NGÔ MINH PHƯƠNG 77Số 224+225- Tháng 1&2. 2021- Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng cần thiết trong hoạt động của các NH. Đẩy mạnh phát triển sản phẩm thẻ tín dụng, dịch vụ ngân hàng bán lẻ tạo sự khác biệt hóa trong cạnh tranh. Bên cạnh việc phát triển sản phẩm dịch vụ mới thì nâng cao chất lượng sản phẩm dịch vụ truyền thống là vô cùng cần thiết vì đây là mảng mang lại lợi nhuận chủ yếu và ổn định cho NH. - Các ngân hàng nên có chiến lược đa dạng hóa hoạt động kinh doanh ngoài lãi cụ thể: Mặc dù đa dạng hóa hoạt động kinh doanh ngoài lãi mang lại kết quả tích cực cho hoạt động ngân hàng nhưng cho vay và huy động vốn vẫn là hoạt động chính của NH. Các NH cần xây dựng một tỷ trọng thu nhập ngoài lãi hợp lý trong tổng thu nhập theo xu hướng giảm bớt phụ thuộc vào hoạt động truyền thống. Trong thu nhập ngoài lãi, NH cũng nên có tỷ trọng cho từng loại như thu nhập từ dịch vụ, kinh doanh ngoại hối, kinh doanh chứng khoán ... để có những biện pháp đẩy mạnh phù hợp. - Xây dựng hệ thống đào tạo nghiệp vụ: Do dịch vụ ngoài lãi hiện đại có sử dụng các công nghệ cao, nên đòi hỏi người cung cấp dịch vụ phải có trình độ hiểu biết và làm chủ công nghệ. Nguồn nhân lực chất lượng cao giúp ứng dụng sản phẩm, dịch vụ tới khách hàng nhanh chóng và hiệu quả hơn, nâng cao mức độ hài lòng và sự thỏa mãn của khách hàng với đội ngũ bán hàng chuyên nghiệp. Ngoài ra cần nâng cao chất lượng công tác quản trị điều hành và kiểm tra, kiểm soát nội bộ. Công tác này phải thường xuyên được nâng lên ngang tầm với trình độ hiện đại của công nghệ. - Áp dụng công nghệ hiện đại: Hiện nay, xu hướng số hóa trong hoạt động ngân hàng đang phát triển rất mạnh. Việc phát triển công nghệ sẽ giúp NH dễ dàng trong việc phát triển sản phẩm mới cũng như nâng cấp các sản phẩm hiện có. Đầu tư công nghệ hiện đại sẽ giúp NH đưa sản phẩm đến khách hàng nhanh chóng hơn và cắt giảm chi phí hoạt động từ chi phí lương và mặt bằng. - Mở rộng mạng lưới kinh doanh và phát triển thương hiệu: Việc mở rộng các điểm giao dịch, hệ thống ATM, POS, dịch vụ 24/24, mở thêm chi nhánh cùng với việc xây dựng thương hiệu giúp NH tăng khả năng cạnh tranh. NH có mạng lưới kinh doanh rộng sẽ dễ dàng cung ứng dịch vụ đến khách hàng hơn nhưng đòi hỏi NH phải chấp nhận chi phí cao cho chính sách này. Hiện nay, NH có kênh phân phối mới vừa tiện lợi, thông minh và giảm chi phí là ngân hàng điện tử vừa mang lại lợi ích cho khách hàng, vừa đáp ứng được nhu cầu muốn đa dạng hóa thu nhập của NH. - Nâng cao sức mạnh tài chính: Biến VCSH và QMTS có tác động cùng chiều đến ROAA, ROEA, NIM theo như kết quả nghiên cứu. Để tiếp cận dần đáp ứng yêu cầu của Basel III, các NHTMVN cần phải thực hiện sớm việc tăng sức mạnh tài chính của NH mình để đảm bảo tỷ lệ an toàn vốn, trước mắt nhằm tăng khả năng thanh khoản, chất lượng tài sản và đảm bảo cho các NH phát triển ổn định, dần dần tăng thị phần góp phần cải thiện được khả năng sinh lợi, tăng khả năng cạnh tranh và gia tăng lợi nhuận kinh doanh. - Mở rộng hoạt động cho vay: Kết quả hồi quy tác động của yếu tố CV có tác động cùng chiều đến biến ROEA và NIM khẳng định NH cho vay nhiều hơn sẽ là tín hiệu tốt cho NH. Hoạt động cho vay mang lại thu nhập cho NH nhưng liên hệ thực tế cho thấy hầu hết các NH đều có khoản nợ xấu khó thu hồi làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến an ninh tiền tệ trong nước. Do đó, NH cần xem xét lại chất lượng tín dụng của các khoản vay. - Hạn chế nợ xấu: Theo kết quả nghiên cứu, biến NX có tác động tiêu cực NIM, kết quả này hàm ý rằng các NH cần có những biện pháp nhằm điều chỉnh tỷ lệ nợ xấu để hạn chế những tác động tiêu cực của nợ xấu Tác động của thu nhập ngoài lãi đến khả năng sinh lời của các ngân hàng thương mại Việt Nam 78 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 224+225- Tháng 1&2. 2021 đến NIM. Chính vì vậy, các NHTMVN cần thực hiện tốt quy trình quản lý tín dụng, thẩm định tín dụng chặt chẽ, sử dụng các công cụ bảo hiểm và bảo đảm tiền vay, phát triển thị trường mua bán nợ. - Nâng cao hiệu quả quản lý: Hiệu quả quản lý được thể hiện qua tỷ lệ tổng chi phí so với tổng thu nhập của NH, chỉ tiêu này có tác động ngược chiều đến tất cả các biến phản ánh khả năng sinh lợi là ROAA, ROEA, NIM; đều này hàm ý là NH cần có giải pháp để quản lý tốt chi phí hoạt động. Vì vậy, NH cần có chiến lược huy động vốn phù hợp để tiết kiệm chi phí và tăng hiệu quả kinh doanh, tuyển dụng nhân sự với vị trí phù hợp tránh trùng lắp, dư thừa để chi phí nhân viên ở mức hợp lý. Bài viết này chỉ tìm hiểu về tác động một chiều của TNNL đến khả năng sinh lời của NH nên chưa nghiên cứu thêm mối quan hệ hai chiều. Mặt khác, do dữ liệu thu thập có những hạn chế nhất định nên nghiên cứu chỉ mới đề cập đến hai biến vĩ mô là tốc độ tăng trưởng kinh tế và lạm phát, mẫu nghiên cứu chỉ bao gồm các NHTM Việt Nam. Để khắc phục hạn chế này, hướng nghiên cứu tiếp theo có thể xem xét tác động của các yếu tố ảnh hưởng đến TNNL và bổ sung thêm mẫu nghiên cứu gồm cả NH nước ngoài, NH liên doanh, lựa chọn thêm các biến vĩ mô phù hợp là biến kiểm soát của mô hình.1 ■ 1 Lời cảm ơn: Nghiên cứu này được tài trợ bởi Đại học Công nghiệp Thực phẩm TPHCM trong khuôn khổ đề tài mã số: 69/HĐ-DCT ngày 03/09/2019 Tài liệu tham khảo Alper, D., Anbar A. (2011). “Bank specific and macroeconomic determinants of commercial bank profitability: empirical evidence froTm Turkey”. Business and Economics Research Journal. 2 (2), 139-152. Ameur, I. G. B., Mhiri, S. M. (2013). “Explanatory factors of bank performance evidence from Tunisia”. International Journal of Economics, Finance and Management. 2 (1), 143-152. Arellano, M., Bond, S. (1991). “Some tests of specification for panel data: Monte Carlo evidence and an application to employment equations”. The Review of Economic Studies. 58 (2), 277-297. Aremu, M. A., Ekpo, I. C., Mustapha, A. M. (2013). “Determinants of banks’ profitability in a developing economy: evidence from Nigerian banking industry”. Institute of Interdisciplinary Business Research. 4 (9), 155-181. Ayaydın, H., Karakaya, A. (2014). “The effect of bank capital on profitability and risk in Turkish banking”. International Journal of Business and Social Science. 5, 252-271. Baele, L., Jonghe, D. O., Vennet, V. G. (2007). “Does the stock market value bank diversification?”. Journal of Banking and Finance. 31, 1999-2023. Chiorazzo, V., Milani C., Salvini, F. (2008). “Income diversification and bank performance: Evidence from Italian banks”. Journal of Financial Services Research. 33 (3), 181-203. Gul, S., Irshad, F., Zaman, K. (2011). “Factors affecting bank profitability in Pakistan”. The Romanian Economic Journal. 39, 60-87. Hồ Thị Hồng Minh và Nguyễn Thị Cành (2015). “Đa dạng hóa thu nhập và các yếu tố tác động đến khả năng sinh lời của các ngân hàng thương mại Việt Nam”. Tạp chí Công nghệ Ngân hàng. 106+107, 13-24. Lâm Chí Dũng và cộng sự (2015). “Nghiên cứu tác động của thu nhập từ các hoạt động phi tín dụng đến khả năng sinh lời của các ngân hàng thương mại Việt Nam”. Tạp chí Phát triển Kinh tế. 26 (6), 23-39. Lepetit, L., Nys, E., Rous, P., Tarazi, A. (2008). “Bank income structure and risk: An empirical analysis of European banks”. Journal of Banking and Finance. 32, 1452-1467. Nisar, S., Peng, K., Wang. S., Ashraf, N. B. (2018). “Revenue diversification on bank ofitability and stability: Empirical evidence from South Asian countries”. InternationalJournal of Financial Studies. 6 (2), 1-25. Nguyễn Minh Sáng và Nguyễn Thị Thùy Trang (2018). “Tác động của thu nhập ngoài lãi đến rủi ro và khả năng sinh lời của các ngân hàng thương mại Việt Nam”. Tạp chí Khoa học Đại học Đà Lạt. 8, 118-132. Ongore, V. O., Kusa, G. B. (2013). “Determinants of financial performance of commercial banks in Kenya”. International Journal of Economics and Financial Issues. 3 (1), 237-252. Stiroh, J. K. (2004). “Diversification in banking: Is noninterest income the answer?”. Journal of Money, Credit and Banking. 36 (5), 853-882. Sufian, F. (2011). “Profit of Korean banking sector: Panel evidence on bank specific and macroeconomic HUỲNH THỊ HƯƠNG THẢO - PHẠM THỊ KIM ÁNH - NGÔ MINH PHƯƠNG 79Số 224+225- Tháng 1&2. 2021- Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng determinants”. Journal of Economics and Management. 7, 43-72. Sufian, F., Chong, R. R. (2008). “Determinants of bank profitability in a developing economy: empirical evidences from the Philippines”. Asian Academy of Management Journal of Accounting and Finance. 4 (2), 91-112. Trujillo‐Ponce, A. (2013). “What determines the profitability of banks? Evidence from Spain”. Accounting and Finance. 53 (2), 561-586. Võ Xuân Vinh và Trần Thị Phương Mai (2015). “Lợi nhuận và rủi ro từ đa dạng hóa thu nhập của ngân hàng thương mại Việt Nam”. Tạp chí Phát triển Kinh tế. 26 (8), 54-70.
File đính kèm:
- tac_dong_cua_thu_nhap_ngoai_lai_den_kha_nang_sinh_loi_cua_ca.pdf