Quan niệm về hình mẫu nhân tài thời Vãn Trần Phong thơ văn Trần Nguyên Đán
Trần Nguyên Đán (1325-1390) là một nhà thơ lớn, nhà trí thức dân tộc, nhà tư
tưởng tiêu biểu của đất nước thời Vãn Trần. Trong suốt cuộc đời hoạt động chính trị và
sáng tác của mình, ông luôn chủ trương ủng hộ, động viên nhân tài cống hiến tài năng;
khích lệ nhân tài chăm lo phát triển nền giáo dục, đào tạo ra thật nhiều nhân tài cho đất
nước; lấy tài “thực học”, lòng “hiếu, trung” làm chuẩn mực đạo đức cho kẻ sĩ, trí thức;
khẳng định vị thế quan trọng của kẻ sĩ, nhà nho với sự phát triển ổn định của xã hội, quốc
gia và dân tộc. Bài viết tập trung phân tích quan niệm về hình mẫu, vai trò và trách
nhiệm của nhân tài qua thơ văn Trần Nguyên Đán, từ đó, có thể khẳng định tầm vóc,
những đóng góp của Băng Hồ cho lịch sử tư tưởng và văn chương dân tộc.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Tóm tắt nội dung tài liệu: Quan niệm về hình mẫu nhân tài thời Vãn Trần Phong thơ văn Trần Nguyên Đán
TP CH KHOA HC − S 11/2016 17 QUAN NI%M V HNH M&U NHN T I TH'I V(N TR)N TRONG TH VN TR)N NGUYN N Vũ Văn Long1 Trung tâm GDTX Thanh Miện, Hải Dương Tóm tắt: Trần Nguyên Đán (1325-1390) là một nhà thơ lớn, nhà trí thức dân tộc, nhà tư tưởng tiêu biểu của đất nước thời Vãn Trần. Trong suốt cuộc đời hoạt động chính trị và sáng tác của mình, ông luôn chủ trương ủng hộ, động viên nhân tài cống hiến tài năng; khích lệ nhân tài chăm lo phát triển nền giáo dục, đào tạo ra thật nhiều nhân tài cho đất nước; lấy tài “thực học”, lòng “hiếu, trung” làm chuẩn mực đạo đức cho kẻ sĩ, trí thức; khẳng định vị thế quan trọng của kẻ sĩ, nhà nho với sự phát triển ổn định của xã hội, quốc gia và dân tộc. Bài viết tập trung phân tích quan niệm về hình mẫu, vai trò và trách nhiệm của nhân tài qua thơ văn Trần Nguyên Đán, từ đó, có thể khẳng định tầm vóc, những đóng góp của Băng Hồ cho lịch sử tư tưởng và văn chương dân tộc. Từ khóa: Trần Nguyên Đán, quan niệm, hình mẫu nhân tài. 1. MỞ ĐẦU Sau một giai đoạn dài phát triển cường thịnh, bước sang nửa cuối thế kỷ XIV, Đại Việt dưới sự chèo lái của các vị vua thời Vãn Trần lâm vào tình trạng khủng hoảng, suy thoái trầm trọng, đe dọa cuộc sống của bách tính muôn dân, tác động tiêu cực đến nền độc lập tự chủ của đất nước. Trước yêu cầu của lịch sử, các trí thức nhà nho tiến bộ đương thời nhận thấy họ cần phải nắm lấy cơ hội và có trách nhiệm tham gia vào sự nghiệp củng cố, phát triển đất nước. Tuy xuất thân từ tầng lớp quý tộc, nhưng Trần Nguyên Đán đã sớm bộc lộ tư tưởng của một nhà nho, nhà trí thức dân tộc có vốn học vấn Nho học uyên bác; có tầm đón nhận các vấn đề chính trị, xã hội nhạy bén và sâu sắc; có nhiệt tâm cống hiến tài năng cho dân tộc và đất nước. Vì thế trong suốt hơn 40 năm làm quan và hoạt động chính trị, ông luôn quan tâm đề xuất các ý kiến chăm lo phát triển, đào tạo nhân tài; động viên, thúc đẩy họ cống hiến tài năng cho đất nước. Nghiên cứu, tìm hiểu thơ văn Trần Nguyên Đán đã được một số tác giả quan tâm. Tuy nhiên với mục đích tiếp cận khác nhau, nên chưa có nhà nghiên cứu nào đi sâu phân tích 1 Nhận bài ngày 5.11.2016; gửi phản biện và duyệt đăng ngày 25.12.2016 Liên hệ tác giả: Vũ Văn Long; Email: longgdtxthanhmien@gmail.com 18 TRNG I HC TH H NI làm rõ được quan niệm của ông về hình mẫu nhân tài và vai trò của nhân tài với đất nước. Việc nghiên cứu thơ văn Trần Nguyên Đán, để tìm hiểu quan niệm về hình mẫu nhân tài, vai trò của nhân tài sẽ góp phần vào việc tìm hiểu, giải thích thấu đáo xu thế vận động của xã hội, văn hóa, tư tưởng... cuối đời Trần. 2. NỘI DUNG Trần Nguyên Đán, hiệu là Băng Hồ, nhà quý tộc Nho giáo hóa tiêu biểu cuối đời Trần, người am hiểu sâu sắc hệ thống tri thức sách vở Trung Hoa. Song song với hình mẫu “đế vương” Nho giáo, trong thơ văn, Trần Nguyên Đán luôn đặc biệt chú trọng đến xây dựng các quan niệm về hình mẫu “nhân tài”, lực lượng cấu thành của mô hình nhà nước quân chủ quan liêu thời phong kiến. Với hình mẫu này, Băng Hồ xem họ là những trí thức nhà nho học rộng, tài cao; có khát vọng nhập thế hành đạo, giúp đời, lập thân lập nghiệp làm rạng danh non sông đất nước. Nhân tài Nho học trong thơ văn của ông trở thành hình mẫu trung tâm, gắn với sự nghiệp của các bậc đế vương, trở thành cặp đôi “vua sáng - tôi hiền”, niềm mơ ước về một mô hình xã hội lí tưởng thời phong kiến. 2.1. Hình mẫu nhân tài, bậc thầy của thiên hạ Dấu ấn khởi đầu cho sự nghiệp thơ văn của mình, Trần Nguyên Đán luôn dành sự chú ý sâu sắc đến lớp người học sách thánh hiền, thông kinh bác sử, người nắm giữ kho tri thức của nhân loại, bậc danh nho, bậc thầy của thời đại. Ngay từ khi mới được bổ chức Ngự sử đại phu, một chức quan nhỏ làm việc ở Đài ngự sử, cơ quan trọng yếu của triều đình dưới thời Trần Dụ Tông (1341-1369), dù chưa có được vị thế lớn và kinh nghiệm phong phú chốn quan trường, Trần Nguyên Đán vẫn cho thấy ở ông tầm nhìn của một nhà tư tưởng, với việc nhận định và nắm bắt chính xác các bước chuyển mình của đất nước. Ông tỏ ra rất vui mừng và phấn khởi khi biết Thượng hoàng Trần Minh Tông cho mời thầy Chu Văn An về kinh thành giao nhậm chức Tư nghiệp Quốc tử giám, đặt trọng trách chăm lo đào tạo, phát triển đội ngũ nhân tài của đất nước cho trí thức nhà nho. Tinh thần này được Băng Hồ bày tỏ sâu sắc trong bài thơ Hạ Tiều Ẩn Chu tiên sinh bái Quốc Tử tư nghiệp (Mừng ông Chu Tiều Ẩn được bổ chức Tư nghiệp ở Quốc tử giám): “Học hải hồi lan tục tái thuần,/ Thượng tường Sơn Đẩu đắc tư nhân./ Cùng kinh bác sử công phu đại,/ Kính Lão sùng Nho chính hoá tân./ Bố miệt mang hài qui vĩnh nhật,/ Thanh đầu bạch phát dục Nghi xuân./ Huân Hoa chỉ thị thuỳ thường trị,/ Tranh đắc Sào, Do tác nội thần!” (Xoay làn sóng biển học làm cho phong tục lại được thuần hậu/ Nhà trường đã được bậc đạo đức như Thái Sơn, Bắc Đẩu đến dạy/ Đọc hết kinh, xem rộng sử, công phu rất lớn/ Kính đạo Lão, sùng đạo Nho, chính sự và giáo hoá được đổi mới/ Ngày ông mang tất vải giày cỏ, vừa đi vừa hát mà về/ Người trẻ, người già cùng TP CH KHOA HC − S 11/2016 19 tắm trong mùa xuân sông Nghi/ Các vua Phóng Huân và Trùng Hoa chỉ ngồi rủ xiêm trị nước/ Bởi có được ông Sào, ông Do làm bề tôi trong triều). Bài thơ cho thấy niềm vui mừng khôn xiết của tác giả về việc triều đình và đất nước có được một bậc thầy nỗi lạc đương thời ra phò giúp. Với tất cả ý nghĩa của những ngôn từ tràn đầy tinh thần phấn khởi, ngợi ca, tác giả đã cho thấy nỗi niềm mong ước và khát vọng lớn về tương lai tươi sáng của dân tộc, khi có những người xuất sắc như thầy Chu Văn An ra phò giúp. Theo tác giả, nhân tài trong trường hợp này trước hết phải là người học rộng tài cao, am hiểu sâu sắc sách vở thánh hiền, thông kinh bác sử, nắm hệ thống tri thức, có thể làm xoay chuyển thời cuộc, tạo ra bước đột phá lớn cho nền giáo dục, đào tạo của nước nhà. Bằng tri thức, tài năng và tinh thần cống hiến của họ, nhân dân sẽ được giáo hóa, văn hóa ... ỳ thân” (Khi nghèo cùng, mình ở ẩn mà tu thiện lấy mình) để ra góp sức cho đất nước: “đạt, tắc kiêm thiện thiên hạ” (khi hiển đạt, mình giúp cho thiên hạ đều trở nên lương thiện) (Mạnh Tử, Tận tâm, thượng, 9) [3, tr.223]. Đúng như lời của Tử Lộ nói: “Bất sĩ vô nghĩa... Quân tử chi sĩ dã, hành kỳ nghĩa dã” (Không ra làm quan là vô nghĩa... Người quân tử ra làm quan là việc nghĩa vậy) (Luận ngữ: Vi tử, XVIII) [2, tr.17]. Với tất cả niềm mong đợi, kỳ vọng và thỉnh cầu như thế, Trần Nguyên Đán chắc chắn sẽ thuyết phục được thầy Chu Văn An lại ra giúp nước. Nhưng tiếc thay, vì tuổi già sức yếu, thầy Chu đã qua đời ngay sau chuyến trở về kinh thành Thăng Long chúc mừng Trần Nghệ Tông dẹp loạn Dương Nhật Lễ, lên ngôi hoàng đế năm 1370 không lâu. Niềm mong ước được tiếp tục cống hiến cho đất nước của Chu Văn An đành phải trao gửi lại cho thế hệ sau, lớp người như Trần Nguyên Đán và các trí thức nhà nho ưu tú đương thời. Chu Văn An chính là bậc thầy của đất nước, nhân tài xuất sắc và ưu tú của thời đại. Ngưỡng mộ và kì vọng ở thầy, phải chăng Trần Nguyên Đán đã từng quan niệm chỉ có người tài mới có khả năng phát hiện, bồi dưỡng và đào tạo ra được những người tài cho đất nước. Quan niệm này sẽ là cơ sở để nhà tư tưởng của dân tộc thời Vãn Trần hướng đến hình mẫu nhân tài là các học trò, lớp nho sĩ tiến bộ, lực lượng trí thức mới của thời đại. Họ đang trở thành một lực lượng lớn mạnh, ngày càng tham gia tích cực và hiệu quả vào các lĩnh vực hoạt động của xã hội và đất nước. 2.2. Hình mẫu nhân tài nho sĩ, lực lượng trí thức mới của thời đại Nho sĩ trong sáng tác của Trần Nguyên Đán hầu hết là người trẻ tuổi, xuất thân “cửa Khổng sân Trình”, có tài năng và hoài bão lớn. Họ có thể vẫn là các học trò hay đã là các nhà nho đỗ đạt, đã ra làm quan. Bối cảnh xã hội cuối đời Trần sẽ là cơ hội để họ ra sức học tập và thi thố tài năng. Nên bất cứ khi nào, họ cũng xuất hiện với tư thế của những con người khát khao nhập cuộc, được ra sức hành đạo phò vua giúp nước, cứu đời. Lớp người mới này trong thơ văn Trần Nguyên Đán luôn được thể hiện bằng niềm tin tưởng và sự kỳ vọng lớn lao. Các cụm từ: “tuấn sĩ”, “tuấn anh”, “anh tài”, “chí sĩ”, “người hiền”... hay được Trần Nguyên Đán sử dụng để ngợi ca cho thấy sự thay đổi trong quan TP CH KHOA HC − S 11/2016 21 niệm của giới quý tộc phong kiến đương thời về vai trò của nho sinh, các trí thức, lớp nhân tài tương lai của đất nước. Tuy nhiên, khác với bậc thầy Chu Văn An, người đã quá nổi tiếng từ khi chưa bước vào triều nhậm chức Tư nghiệp Quốc tử giám, học trò đỗ đạt của ông đã rải khắp kinh thành, không ít người nắm các chức vị cao trong triều như Phạm Sư Mạnh, Lê Quát...; thì trong đám học trò, nho sĩ không phải ai cũng được Băng Hồ xem là nhân tài, là người hiền. Trần Nguyên Đán hiểu rằng: “Hiền ngu cùng đạt vận nan tề” (Người hiền, người ngu, lúc cùng lúc đạt, nhân vật khó đều), nhưng ông vẫn thể hiện rõ thái độ và ý thức phân biệt nhân tài. Việc ông hay sử dụng trong thơ văn của mình các hình ảnh so sánh, ẩn dụ: “ngọc – đá”, “phượng – gà”... đã cho thấy rõ điều đó. Người hiền tài có phẩm chất cao quý rạng ngời của “ngọc”, có sức mạnh bay cao, vươn xa của loài “phượng”; còn kẻ “ngu” như “đá”, “gà” chỉ dùng cho những việc tầm thường: “Ngọc thạch tối nghi khu biện biệt,/ Loan kê nhẫn sử tịnh phỉ tường” (Ngọc hay đá phải phân biệt cho rõ/ Đừng để phượng với gà bay chung với nhau) (Dụng Hồng Châu Đồng uý Phạm công vận phụng trình khảo thí chư công). Theo quan niệm Nho gia, “ngọc” được cho là “đức độ” của người quân tử, bao gồm các phẩm chất: nhân, nghĩa, lễ, trí, tín. Vì thế nên Kinh Thi mới có câu: “Nhớ mãi người quân tử (có tính cách) ôn nhuận như ngọc vậy. Cho nên quân tử quý ngọc là vậy” [4, tr.381]. Loài chim “phượng” cũng vậy! Nó biểu trưng cho vẻ đẹp và sức mạnh cao quý, thể hiện phẩm chất phi thường của người quân tử. Với Trần Nguyên Đán, chỉ có loài chim phượng mới có thể bay cao lên tận chín tầng mây: “Thánh chủ cầu hiền tịch lễ vi,/ Hân chiêm quần phượng cửu tiêu phi” (Vua thánh cầu người hiền nên mở khoa thi/ Mừng được xem bầy chim phượng bay lên đến chín tầng mây) (Tứ tiến sĩ). Xuất phát từ quan niệm trên, khi xây dựng các cặp đối lập, tương phản trong thơ, Băng Hồ luôn so sánh nhân tài với phẩm chất cao quý, trong sáng của “ngọc”, ở họ phải có tài “thực học”, có lòng “trung hiếu”, tinh thần trách nhiệm, tận tâm phụng sự triều đình, đất nước. Đó là những yêu cầu cốt yếu nhất về nhân tài. Nếu các nho sĩ chỉ có “thực học”, thiếu lòng “trung hiếu”, tinh thần phụng sự hết mình vì đất nước thì không được xem là nhân tài, chẳng khác gì bọn Doãn Định, Nguyễn Như Vi làm tới chức Giám sát Ngự sử đài, đời vua Trần Minh Tông, cậy mình nhiều chữ, am hiểu thi thư, dám bắt bẻ và cho rằng “vua không được vào Ngự sử đài”, họ đã sai lại còn cố sức làm càn, nhà vua khuyên mấy lần không được “đành phải bãi chức cả” [1, tr.160]. Nên trong bài thơ Dụng Hồng Châu Đồng úy Phạm Công vận phụng trình khảo thí công (Dùng vần thơ của quan Đồng úy ở Hồng Châu là Phạm công để đưa trình các ông đang chấm thi), Trần Nguyên Đán đã đặt ra yêu cầu cho việc tuyển chọn nhân tài rất nghiêm ngặt: “Thiên chiếu đinh ninh dung bác thủ,/ Yếu tiên trung đảng hậu từ chương” (Chiếu vua cặn kẽ cho phép lấy rộng/ Trước phải xem phần trung chính, sau hãy xét đến văn chương). Hay trong bài thơ Canh thí cục chư sinh xướng thù giai vận (Họa vần thơ xướng họa của các thí sinh ở trường thi), tác giả còn 22 TRNG I HC TH H NI khẳng định triều đình luôn mong chờ tuyển chọn được nhân tài có “thực học” và lòng “trung hiếu” để làm việc: “Hà tự thánh triều cầu thực học,/... Nguyện văn trung hiếu Trạng nguyên danh.” (Sao giống thánh triều ta chỉ cầu thực học/... Mong được nghe tên vị Trạng nguyên trung, hiếu), chứ không cần những người có chữ nghĩa, giỏi văn chương mà đức độ và phẩm hạnh chẳng ra gì. Từ thực tiễn và yêu cầu của xã hội thời Vãn Trần, chúng ta có thể hiểu được nỗi niềm trăn trở và khát vọng của Trần Nguyên Đán về việc cần thiết phải đào tạo và tuyển chọn được một đội ngũ trí thức nhà nho, những người có đủ tài đức, có khát vọng nhập thế hành đạo giúp đời, quyết tâm cùng các bậc đế vương khắc phục tình trạng suy thoái, khủng hoảng hiện thời, đưa đất nước hưng thịnh trở lại. Như thế, nhân tài theo Băng Hồ, chỉ có “thực học”, có tài văn chương chữ nghĩa thôi vẫn là chưa đủ, trong “mười nghĩa” về thuộc tính xã hội của nhà nho [4, tr.10], Trần Nguyên Đán quan tâm đến tấm lòng “trung nghĩa”. Sự kết hợp của tài năng, đức độ, cùng tinh thần cống hiến hết mình của nhân tài sẽ là cái gốc lớn để mở nền thái bình, thịnh trị lâu dài cho đất nước và dân tộc. 2.3. Hình mẫu nhân tài “văn võ kiêm toàn” Bước sang giai đoạn Vãn Trần, dưới thời trị vì của các vua Trần Dụ Tông, Trần Nghệ Tông, Trần Duệ Tông... đất nước lâm vào tình trạng khủng hoảng, giặc ngoại xâm lăm le bờ cõi, khởi nghĩa nông dân nô tỳ liên tiếp nổi lên khắp nơi. Kinh đô Thăng Long nhiều lần bị đốt phá, ngôi vua nhà Trần bị đe dọa, việc phế lập diễn ra thường xuyên trong mấy chục năm cuối thế kỷ XIV. Là nhà tư tưởng của tôn thất họ Trần, đứng trước những nguy cơ của dòng tộc, vương triều và đất nước, Trần Nguyên Đán không khỏi thao thức trăn trở. Nỗi niềm đó được thể hiện bằng khát vọng và mong muốn trong việc xây dựng hình mẫu nhân tài “văn võ kiêm toàn”. Theo Trần Nguyên Đán, hình mẫu nhân tài “văn võ kiêm toàn” phải được thể hiện được một số yêu cầu sau: Khi làm quan trong triều, trên vừa có thể giúp vua trị nước, dưới vừa có thể vỗ về, giúp dân chúng an cư lạc nghiệp; gặp lúc đất nước có giặc giã, biên cương rối loạn, vừa có thể là bậc quân sư mưu lược, lại vừa là vị dũng tướng cưỡi ngựa múa kiếm, chỉ huy ba quân xông pha trận mạc, giết giặc lập công, khiến kẻ thù phải khiếp đảm, lân bang các nước xa gần nể phục... Niềm mong đợi này được ông thể hiện không ít lần trong sáng tác của mình. Chẳng hạn trong lần tiễn Lê Công (Hồ Quý Ly) nhận mệnh của triều đình cầm quân tiễu trừ giặc Chiêm Thành ở biên giới phía nam, Băng Hồ tiên sinh thổ lộ: “Tiền mâu chiếu nhật chiếm chưng sa,/ Viễn lược giao Tiêm dịch Qua Oa./ Vạn lý pháo tồi hùng hổ luỹ,/ Cửu nguy thuyền xúc bột minh ba.” (Ngọn cờ đi trước rọi bóng mặt trời phất phơ trên cát nóng/ Mưu lược xa là giao hảo với Tiêm La và khống chế Qua Oa/ Muôn dặm súng lớn, bắn tan lũy gấu cọp/ Chín cột buồm giong, lướt qua sóng biển khơi), (Phụng tiễn Xu phủ Tây chinh hành quân Đô tổng quản Lê Công). Hay trong TP CH KHOA HC − S 11/2016 23 cuộc xướng họa thơ văn cùng với Phạm Sư Mạnh, ông đặc biệt đề cao vai trò của người chí sĩ “văn võ kiêm toàn” với tư thế mạnh mẽ của một bậc nam nhi, sẵn sàng vượt qua mọi thử thách khó khăn để hoàn thành trọng trách, dưới có thể giúp nhân dân có cuộc sống yên ổn, trên có thể đền đáp được niềm tin tưởng, kỳ vọng của đức minh quân: “Chí sĩ ninh từ đạo hải nguy,/ Cao ca tràng khiếu nhậm thiên nghê./ Sương soa thử lạp thù minh chúa,/ Hổ lạc xà khu uý viễn lê.” (Người chí sĩ đâu chịu chối từ cái nguy vượt biển/ Cất cao tiếng hát với tất cả lòng mình/ Mang tơi sương, đội nón nắng, đền đáp minh chúa/ Vào hang hùm, tới ổ rắn, yên ủi dân xa), (Canh Tân Bình an phủ Phạm công Sư Mạnh “Tân Bình thư sự” vận). Hình mẫu nhân tài, những cá nhân kiệt xuất “văn võ kiêm toàn” không chỉ được nhà thơ xây dựng, thể hiện niềm ước vọng mong mỏi, mà phần nào còn là sự nỗ lực phấn đấu của chính bản thân ông. Vì trên thực tế, Trần Nguyên Đán không chỉ giữ chức Đại tư đồ, quyền ngang Tể tướng từ năm 1371 mà đến năm 1375, ông còn được triều đình giao kiêm thêm chức quản quân ở trấn Quảng Oai, một chức võ quan đảm trách nhiệm vụ bảo vệ trị an cho vùng phên dậu phía tây nam của kinh thành Thăng Long. Ông từng ghi lại công việc của mình trong thơ, chẳng hạn như: “Thao qua trì bút phiến vân thân,/ Khuất chỉ từ gia cáp thập tuần.” (Mang gươm, cầm bút, thân như đám mây/ Bấm đốt ngón tay, xa nhà vừa đúng mười tuần), (Quân trung hữu cảm). Hay: “Khứ niên nhung sự tại trần nê,/ Ngâm bút kim thu qui cựu đề.” (Năm ngoái vì việc quân phải ở nơi bụi lầy/ Bút thơ thu nay lại trở về đề cũ), (Thanh Hóa phủ đạo trung). Không giống với khi viết về mọi người, Trần Nguyên Đán luôn cho thấy một con người khiêm nhường, tự biết mình, thái độ thường thấy ở các nhà nho hành đạo đương thời. Dường như Băng Hồ có sở trường cầm bút hơn cầm gươm, một quân sư hơn một võ tướng. Chính ông từ đầu vốn đã giữ một chức quan văn, đến khi phò trợ Trần Nghệ Tông dẹp loạn (1370) cũng với vai trò của người vạch kế sách, chứ không phải là người cầm quân xông pha trận mạc. Tuy nhiên, thời thế đã đổi thay, con người phải nỗ lực, linh hoạt để hoàn thành tốt mọi trọng trách và nghĩa vụ, bởi thế, rất cần những cá nhân xuất sắc, “văn võ kiêm toàn”, đầy đủ nhân cách và trí lực: “Cơ Hành bính bính Đại thôi khôi,/ Cảnh ngưỡng dân qui Hữu nhị đài./ Thành vật công thâm phù thái vận,/ Kình thiên lực đại đĩnh lương tài.” (Sáng rực như sao Bắc Đẩu, cao vòi vọi, như núi Thái Sơn/ Dân đều ngưỡng mộ Hữu nhị đài/ Việc đã thành, công càng sâu, giúp cho vận hội thái hoà/ Chống nổi trời, sức thật lớn, rõ bậc tài năng đĩnh đạc), (Hạ Giới Hiên công trừ nhiếp Hữu bộc xạ). Với tài năng, tâm huyết, tấm lòng với đất nước và muôn dân, trong cuộc đời làm quan và hoạt động thực tiễn của mình, nhà thơ, nhà trí thức dân tộc Trần Nguyên Đán đã dành nhiều thời gian, tâm huyết, quan tâm, chăm lo đến việc phát triển, đào tạo và trọng dụng lớp lớp những nhân tài cho đất nước. Trong sáng tác của mình, không chỉ có những danh Nho - bậc thầy của thiên hạ, lớp học trò - nho sĩ ngấp nghé quan trường hay những cá nhân 24 TRNG I HC TH H NI xuất sắc “văn võ kiêm toàn”, mà ông còn dành sự quan tâm, động viên, định hướng cho lớp nhân tài, người có số phận kém may mắn, trắc trở trên con đường công danh như Nguyễn Phi Khanh, Nguyễn Hán Anh... Song với tất cả những điều chúng ta tìm hiểu, phân tích kể trên thiết nghĩ người đọc đã có được một cái nhìn tích cực, khách quan, chân xác và công bằng khi đánh giá về tài năng, nhân cách và những đóng góp về mặt tư tưởng của Trần Nguyên Đán cho đất nước, cho văn học trung đại Việt Nam thời Vãn Trần. 3. KẾT LUẬN Phần lớn cuộc đời Trần Nguyên Đán gắn bó với vận mệnh của vương triều Trần và đất nước. Quan niệm của Trần Nguyên Đán về hình mẫu nhân tài của thời đại, tuy không thể tránh khỏi những hạn chế nhất định, nhưng trong bối cảnh khủng hoảng cuối đời Trần, với tư duy của một nhà quý tộc, tư tưởng này được xem là một điểm sáng, có giá trị tích cực góp phần thúc đẩy nhận thức về vai trò của nhân tài, đội ngũ trí thức nhà nho với xã hội và yêu cầu về trách nhiệm, ý thức công dân của họ đối với quốc gia, dân tộc. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Ngô Sĩ Liên (2009), Đại Việt sử ký toàn thư, tập 2, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội. 2. Trần Trọng Kim (2003), Nho giáo, Nxb Văn học, Hà Nội. 3. Tứ thư (2001) (Đoàn Trung Còn dịch), Nxb Thuận Hóa. 4. Khổng Tử (1999), (Nguyễn Tôn Nhan biên dịch, chú giải), Kinh Lễ, Nxb Văn học, Hà Nội. 5. Đào Phương Bình, Phạm Đức Duật, Trần Nghĩa... (1978), Thơ văn Lý – Trần, tập III, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội. CONCEPTION AND MODEL OF TALENT IN TRAN NGUYEN DAN POETRY AT THE VAN TRAN STAGE Abstract: Tran Nguyen Đan (1325-1390) was a great poet, intellectuals, and thinker of the country at the Van Tran stage. During his political life and composing career, he always advocated, tried to encourage talents of the country, trained a lot of talent for the country; affirmed important position of the scholars with the stable development of society, nation and people. The paper focuses on analyzing the conception of model, the role and responsibility of talents through poetry of Tran Nguyen Dan, and affirming Bang Ho's contributions to the history of ideas and literature of the nation. Keywords: Tran Nguyen Dan, conception, model talent
File đính kèm:
- quan_niem_ve_hinh_mau_nhan_tai_thoi_van_tran_phong_tho_van_t.pdf