Thuyết phân tâm học và vận dụng vào hoạt động công tác xã hội với trẻ em

Phân tâm học là học thuyết nghiên cứu về thế giới bên trong con người, thông

qua các hành vi được biểu hiện ra bên ngoài, từ đó có thể tìm ra giải pháp để điều chỉnh

những hành vi “lệch chuẩn”. Ngày nay, trước những biến động trong cuộc sống hiện đại,

nhiều vấn đề cần đặt ra để giải quyết về mặt tâm lý - xã hội, đặc biệt là đối tượng trẻ em có

nguy cơ mắc vào các tệ nạn xã hội như: nghiện game, bạo lực học đường, xâm hại tình dục,

sử dụng chất kích thích. đang có xu hướng gia tăng. Việc vận dụng phương pháp phân tích

giấc mơ dựa trên học thuyết phân tâm học của S. Freud là một nội dung quan trọng và cần

thiết trong hoạt động công tác xã hội (CTXH) với trẻ em, nhằm giúp nhân viên CTXH can

thiệp, trị liệu, từng bước xây dựng tiến trình CTXH phù hợp, linh hoạt với trẻ để đạt được

hiệu quả tích cực nhất. Đó cũng chính là nội dung mà bài viết đề cập tới.

Thuyết phân tâm học và vận dụng vào hoạt động công tác xã hội với trẻ em trang 1

Trang 1

Thuyết phân tâm học và vận dụng vào hoạt động công tác xã hội với trẻ em trang 2

Trang 2

Thuyết phân tâm học và vận dụng vào hoạt động công tác xã hội với trẻ em trang 3

Trang 3

Thuyết phân tâm học và vận dụng vào hoạt động công tác xã hội với trẻ em trang 4

Trang 4

Thuyết phân tâm học và vận dụng vào hoạt động công tác xã hội với trẻ em trang 5

Trang 5

Thuyết phân tâm học và vận dụng vào hoạt động công tác xã hội với trẻ em trang 6

Trang 6

Thuyết phân tâm học và vận dụng vào hoạt động công tác xã hội với trẻ em trang 7

Trang 7

Thuyết phân tâm học và vận dụng vào hoạt động công tác xã hội với trẻ em trang 8

Trang 8

pdf 8 trang minhkhanh 38941
Bạn đang xem tài liệu "Thuyết phân tâm học và vận dụng vào hoạt động công tác xã hội với trẻ em", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Thuyết phân tâm học và vận dụng vào hoạt động công tác xã hội với trẻ em

Thuyết phân tâm học và vận dụng vào hoạt động công tác xã hội với trẻ em
QUẢN LÝ - ĐÀO TẠO 
5 
THUYẾT PHÂN TÂM HỌC VÀ VẬN DỤNG VÀO HOẠT ĐỘNG 
CÔNG TÁC XÃ HỘI VỚI TRẺ EM 
ThS. Mai Thúy An
1
Tóm tắt: Phân tâm học là học thuyết nghiên cứu về thế giới bên trong con người, thông 
qua các hành vi được biểu hiện ra bên ngoài, từ đó có thể tìm ra giải pháp để điều chỉnh 
những hành vi “lệch chuẩn”. Ngày nay, trước những biến động trong cuộc sống hiện đại, 
nhiều vấn đề cần đặt ra để giải quyết về mặt tâm lý - xã hội, đặc biệt là đối tượng trẻ em có 
nguy cơ mắc vào các tệ nạn xã hội như: nghiện game, bạo lực học đường, xâm hại tình dục, 
sử dụng chất kích thích... đang có xu hướng gia tăng. Việc vận dụng phương pháp phân tích 
giấc mơ dựa trên học thuyết phân tâm học của S. Freud là một nội dung quan trọng và cần 
thiết trong hoạt động công tác xã hội (CTXH) với trẻ em, nhằm giúp nhân viên CTXH can 
thiệp, trị liệu, từng bước xây dựng tiến trình CTXH phù hợp, linh hoạt với trẻ để đạt được 
hiệu quả tích cực nhất. Đó cũng chính là nội dung mà bài viết đề cập tới. 
Từ khóa: Phân tâm học; công tác xã hội; trẻ em; S.Freud. 
1. Đặt vấn đề 
Thuyết Phân tâm học ra đời đã cung cấp một ý tưởng khoa học đúng đắn cho sự phát 
triển của nhân loại nói chung, ngành khoa học, đặc biệt là khoa học nghiên cứu về tâm lý con 
người nói riêng. Thuyết Phân tâm học có sự liên kết giữa y học và triết học, để từ đó hiểu rõ 
hơn về những suy nghĩ của cá nhân tức là sự nhận thức của cá nhân đối với các giá trị đạo đức 
và xã hội nói chung. Từ sự hiểu rõ bản chất suy nghĩ của cá nhân, chúng ta có thể tìm ra 
những giải pháp để kiềm chế những xung đột của cá nhân do có sự nhận thức không đúng đắn 
về các giá trị đạo đức và xã hội mà xâm hại đến những giá trị sống, đưa cá nhân đó trở lại 
trạng thái ổn định, phát triển bình thường. 
Trên cơ sở nghiên cứu các lý thuyết trong hệ thống học thuyết Phân tâm của S. Freud, 
tác giả bài viết lựa chọn tập trung nghiên cứu phương pháp trị liệu “Phân tích giấc mơ”. Từ 
đó, đưa ra cách tiếp cận và chỉ ra những khả năng ứng dụng trong tiến trình làm việc với trẻ 
em của nhân viên CTXH. 
Thuyết Nhân cách học của S. Freud chỉ ra rằng, khi sự căng thẳng thần kinh xảy ra sẽ 
dẫn đến tình trạng lo âu hoặc xung đột nội tâm ở con người. Mặc dù, xã hội vẫn tồn tại những 
định kiến cho rằng trẻ em không có khả năng xung đột dẫn đến căng thẳng thần kinh nhưng 
trong trường hợp này, trẻ em không phải là trường hợp ngoại lệ. Nguyên nhân là do tình trạng 
mâu thuẫn giữa yếu tố bản năng và siêu ngã của con người. Bản năng xung đột với sự nỗ lực 
để làm thoả mãn bản năng và các nhu cầu chính yếu của con người mà cụ thể ở đây là trẻ em. 
Từ đó, có thể dẫn tới những hành vi không được chấp nhận của cá nhân khi tương tác với xã 
hội. Công việc của nhân viên CTXH là dùng các kỹ thuật đặc trưng của thuyết Phân tâm nhằm 
1
 Khoa Văn hóa - Thông tin, Trường Đại học Văn hóa, Thể thao và Du lịch Thanh Hóa 
QUẢN LÝ - ĐÀO TẠO 
6 
giúp trẻ em thấu hiểu bản chất của những hiện tượng tâm lý, trong quá trình hình thành và phát 
triển nhân cách có được sức mạnh bản ngã để đạt tới sự cân bằng ở nội tâm bên trong [3]. 
2. Nội dung 
2.1. Giới thiệu khái quát thuyết Phân tâm học của S. Freud 
Thuyết Phân tâm học ra đời vào cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX. Một trường phái tâm lý 
học khách quan đi sâu nghiên cứu hiện tượng vô thức trong con người, coi vô thức là mặt chủ 
đạo, là đối tượng thực sự của tâm lý học. Người sáng lập ra thuyết Phân tâm học là Sigmund 
Freud (1856 - 1939), bác sĩ thần kinh và tâm thần người Áo gốc Do Thái, sinh ra ở Tiệp Khắc. 
Ông đã theo học Trường Đại học Y khoa thành Vienna và tốt nghiệp năm 1881. Sau đó, ông 
sang Pháp và cùng làm việc với nhà bệnh lý học và thần kinh học nổi tiếng Jean Charcot. Tại 
đây lần đầu tiên ông được tiếp xúc với phương pháp thôi miên để điều trị bệnh loạn thần kinh. 
Thuyết Phân tâm học ra đời chịu nhiều chi phối từ các điều kiện, quan điểm khác nhau. 
S. Freud đã tiếp thu có sáng tạo các quan điểm học thuyết của các nhà triết học, khoa học tự 
nhiên để vực dậy sự khủng hoảng tâm lý học trong xã hội châu Âu lúc đó. Đồng thời, cũng 
xuất phát từ hoàn cảnh đời sống tinh thần mà S. Freud đang sống, đó là thái độ của xã hội với 
vấn đề tình dục. Trong bối cảnh chứng kiến sự bùng nổ mạnh mẽ chống đè nén tính dục trong 
xã hội cũng như tiếp cận với hàng loạt nghiên cứu về tính dục và ảnh hưởng của những dồn 
nén ham muốn tính dục đến sức khỏe tinh thần, thể chất trẻ em đã ảnh hưởng rất lớn đến quan 
điểm của S. Freud vào việc hình thành phương pháp lý luận trong phân tâm học. 
Nội dung cơ bản thuyết Phân tâm học của S. Freud là việc xác định cấu trúc của bộ máy 
tâm thần con người (bản chất của tâm hồn, tâm lý con người). Theo đó, nội dung của Phân 
tâm học được ông làm rõ ở các khía cạnh: Cấu trúc nhân cách; Động cơ hệ; Sự phát triển nhân 
cách; Tâm bệnh học; Sức khỏe tâm lý; Sự thay đổi nhân cách dưới tác dụng của biện pháp 
tâm lý. 
Thứ nhất, cấu trúc nhân cách: theo S. Freud quan niệm gồm 3 thành tố: “(1) cái nó hay 
chính là bản năng (id), (2) cái tôi hay bản ngã (ego), (3) cái siêu tôi hay siêu bản ngã 
(superego) gọi là bộ máy tâm thần” [3]. 
 - Bản năng: là phần khởi nguyên của nhân cách, là phần con người có chung với loài 
vật, là nơi của những bản năng tồn tại và hoạt động trên nguyên tắc khoái lạc (hay nguyên tắc 
thỏa mãn). Trong đó, S. Freud cho rằng, bản năng tình dục giữ vị trí trung tâm, cung cấp 
nguồn năng lượng, chi phối toàn bộ hoạt động đời sống tâm thần của con người. Các hành 
động đều tuân theo nguyên lý khoái cảm và có nguồn gốc sâu xa từ sự khoái lạc vô thức. 
- Bản ngã: được thể hiện trong những hoạt động ý thức: tri giác, ngôn ngữ và những 
thao tác trí tuệ cho phép kiểm soát, kiềm chế hành vi cá nhân trong quan hệ với môi trường 
ngoại cảnh, vượt khỏi sự thống nhất sinh vật của thân xác để đạt tới một sự thống nhất cao 
hơn là sự tự chủ. 
- Siêu ngã: là yếu tố hình thành giá trị cá nhân, là nhân tố lương tâm, đạo đức trong 
nhân cách ba ... g tự làm phát sinh ra 
bệnh khi nó còn nằm trong lĩnh vực ý thức, chỉ khi nào bị đẩy khỏi đây và trở thành vô thức 
thì khi đó mới tạo ra sự mất cân bằng trong đời sống tinh thần của con người [5]. Trong trị 
QUẢN LÝ - ĐÀO TẠO 
8 
liệu tâm lý, phương pháp phân tích tâm lý của S. Freud được tiến hành theo hai giai đoạn: thu 
thập thông tin bằng quan sát lâm sàng và giai đoạn phân tích tâm lý. Một điểm quan trọng 
trong phương pháp trị liệu của Phân tâm học là phân tích giấc mơ. 
2.2. Vận dụng phương pháp Phân tích giấc mơ của thuyết Phân tâm học vào hoạt 
động công tác xã hội với trẻ em 
CTXH với trẻ em là một phần trong các lĩnh vực chuyên biệt của ngành CTXH với mục 
tiêu đem lại sự hỗ trợ cho trẻ em, giúp bảo vệ trẻ em, góp phần vào nền an sinh cho trẻ em [1]. 
Theo Beatrice Pompy, nhân viên CTXH có trách nhiệm xác định những rối loạn của trẻ, đánh 
giá khả năng và hạn chế của trẻ, sau đó, bằng quan sát cá nhân, trực giác, kinh nghiệm và đạo 
đức nghề nghiệp để đưa ra tiến trình hỗ trợ trẻ [2]. Nhân viên CTXH khi can thiệp giúp đỡ trẻ 
có vấn đề thường mang theo thời thơ ấu, cảm xúc riêng tư của mình bên cạnh những kỹ năng 
chuyên nghiệp. Vì thế, CTXH nói chung và CTXH với trẻ em nói riêng là một hoạt động vô 
cùng khó khăn, một công tác đòi hỏi phải luôn được đào tạo trước khi tiếp xúc với đối tượng 
và rút kinh nghiệm cho những lần làm việc tiếp theo. CTXH với trẻ em bao gồm: Các chức 
năng của CTXH với các nhu cầu đặc biệt của trẻ em: trị liệu, hỗ trợ, phục hồi, bảo vệ liên 
quan đến trẻ em có nhu cầu đặc biệt; Các lĩnh vực thực hiện CTXH với trẻ em: cộng đồng, 
trường học, bệnh viện, các cơ sở xã hội. 
Theo lý thuyết của S. Freud, khi con người không còn đủ khả năng kiểm soát hữu hiệu 
một số tình huống của cuộc sống, những cơ chế tự vệ sẽ là chiến lược cho phép bản ngã bù 
trừ sự bất lực của mình một cách vô thức, bằng cách làm giảm thiểu căng thẳng và sự lo âu 
kèm theo. Các nhân viên CTXH trong quá trình làm việc với trẻ em cần nhận biết rằng: trẻ em 
cũng có những giai đoạn “khủng hoảng” do sự thay đổi tâm sinh lý ở các độ tuổi tạo nên 
những căng thẳng hay những tổn thương do hoàn cảnh sống mang đến. Khi sự căng thẳng 
thần kinh xảy ra sẽ gây nên những lo âu hoặc xung đột nội tâm ở trẻ. Bản năng xung đột với 
sự cố gắng để làm thỏa mãn bản năng có thể dẫn tới những hành vi tiêu cực như trẻ em lạm 
dụng chất kích thích hay trẻ em vi phạm pháp luật. Vai trò của bản ngã ở đây là tạo ra sự cân 
bằng giữa các mặt đối lập tồn tại bên trong mỗi trẻ em. Lúc này, bản ngã và siêu ngã làm việc 
với nhau trong sự hợp tác. Nhân viên CTXH dùng các phương pháp đặc trưng của phân tâm 
học nhằm giúp trẻ em đạt được sức mạnh bản ngã để có thể đạt tới sự cân bằng này. 
S. Freud nhấn mạnh những điểm cần lưu ý về giấc mơ của trẻ con: (1) Để hiểu những 
giấc mơ của trẻ không cần phân tích mà cũng chẳng cần kỹ thuật gì cả, không nên hỏi trẻ em 
trong lúc nó kể lại giấc mơ, chỉ cần bổ túc những điều trẻ nói bằng những tài liệu có liên quan. 
(2) Giấc mơ của trẻ con không phải là không có ý nghĩa. (3) Những giấc mơ trẻ con không bị 
biến dạng nên không cần giải thích. (4) Giấc mơ trẻ con là phản ứng của một biến cố trong 
ngày làm cho đứa trẻ có điều gì tiếc rẻ, buồn rầu, không thoải mái. Giấc mơ mang đến cho 
đứa trẻ sự thỏa mãn khi thực hiện được mong muốn đó. (5) Lòng ham muốn chính là sự kích 
động của giấc mơ [5], [6]. 
S. Freud khẳng định rằng tất cả giấc mơ (trẻ con hay người lớn) đều có ý nghĩa, chứ 
không đơn thuần chỉ là một trạng thái có thể xảy ra trong khi ngủ. Cái mà chúng ta nhớ lại từ 
giấc mơ là nội dung biểu hiện của nó; cái gây ra giấc mơ là nội dung tiềm ẩn, hoặc bị dồn nén 
QUẢN LÝ - ĐÀO TẠO 
9 
vào vô thức của nó [5]. Những gì trong giấc mơ của chúng ta có liên quan đến sự thực hiện 
những mong ước, đó là sự biểu diễn lại suy nghĩ, động cơ và những khao khát của vô thức. S. 
Freud tin rằng bản năng tính dục được đàn áp bởi ý thức xuất hiện trong giấc mơ của chúng 
ta. Trong cuốn sách của S. Freud “Sự giải thích những giấc mơ” (The interpretation of 
Dreams), Freud đã chia giấc mơ thành hai thành phần: 
Một là, nội dung hiển nhiên (Manifest content) - Những suy nghĩ thực tế, nội dung và 
những hình ảnh trong giấc mơ là hiển nhiên và rõ ràng. 
Hai là, nội dung tiềm ẩn (Latent content) - Ý nghĩa tâm lý trong giấc mơ kín đáo và 
được ẩn giấu. 
Để hiểu được ý nghĩa đằng sau những giấc mơ, S. Freud đã tách giấc mơ thành năm 
phần riêng biệt: cô đặc (sự ngưng tụ), di chuyển, kịch hóa, tượng trưng hóa, chế biến lần thứ 
hai (sự xem xét lại) [6]. 
Phần cô đặc (Condensation): Khi rất nhiều thông tin được nén vào một hình ảnh hay tư 
tưởng tạo nên những ý nghĩa rất khó để giải mã. “Giấc mơ thường ngắn ngủi, nghèo nàn, vắn 
tắt, so với sự rộng lớn và phong phú của những ý nghĩ về giấc mơ”. Điều đó có nghĩa là trong 
giấc mơ biểu hiện một ý tưởng hoặc rất nhiều liên tưởng tự do, những liên tưởng tự do này sẽ 
dẫn tới những ý tưởng hoàn toàn khác, dù rằng chúng thường đan xen nhau trong nội dung 
tiềm ẩn. 
Phần dịch chuyển (Displacement): Đây là một quá trình mà cảm xúc được tách khỏi đối 
tượng chính hoặc tách khỏi hiện thực để chuyển sang một đối tượng khác hay một hoàn cảnh 
khác. Sự thay thế được xem là một quá trình tâm lý thúc đẩy một số yếu kém về thân thể hoặc 
tâm trí của cá nhân, sẽ vượt lên ở một cái khác. 
Phần kịch hóa (dramatization): Nếu quan sát tổng quan, hầu hết các giấc mơ của chúng 
ta nhớ được đều là bằng những hình ảnh thị giác đầy sống động. Nhưng tư duy khái niệm 
thường không xuất hiện, chỉ có thể kể lại giấc mơ nếu người nằm mơ có diễn đạt nó bằng lời. 
Phần tượng trưng hóa (Symbolization): Khi những ham muốn và khao khát bị dồn nén 
lại và ẩn dụ qua những giấc mơ. Ví dụ, trong giấc mơ trẻ thường mơ thấy hình ảnh một ngôi 
sao, một con quái vật, ngọn lửa, hang động Cũng có thể là một khung cảnh được lặp đi, lặp 
lại như: bị nhốt trong phòng kín, bị rơi từ trên cao xuống. Ý nghĩa sâu xa của giấc mơ được ẩn 
chứa đằng sau những biểu tượng này. 
Phần sự xem xét lại (Secondary Revision): Là giai đoạn cuối của giấc mơ, nơi các yếu 
tố rời rạc được tổ chức lại để trở thành một giấc mơ dễ hiểu. Hiểu những cơ chế chế biến của 
giấc mơ là điều dễ dàng nhất. Đây chỉ là do thiên hướng tự nhiên của người nằm mơ, khi tỉnh 
dậy, muốn đem lại một ý nghĩa nào đó cho ký ức trong giấc mơ của mình. Phần lớn chúng ta, 
khi nhớ lại, hay nhất là khi kể lại những giấc mơ của mình, đều hiểu rằng mình buộc phải thực 
hiện sự xem xét lại ở một mức độ nào đó nhằm có thể diễn đạt được những giấc mơ ấy thành 
lời, chưa nói tới việc làm cho chúng có sức truyền cảm để có thể thỏa mãn được ý thích của 
chúng ta về lối kể chuyện, về trật tự và ý nghĩa [6], [7]. 
S. Freud khẳng định tất cả các giấc mơ đều là sự thực hiện những ham muốn; phần lớn 
những giấc mơ của trẻ con là sự thực hiện những ham muốn một cách trực tiếp, hoặc là sự bù 
QUẢN LÝ - ĐÀO TẠO 
10 
đắp những ham muốn bị ngăn chặn, hẫng hụt, không thực hiện được hay phải để lại sau này 
mới thực hiện. Thông qua những nghiên cứu của cá nhân, tác giả nhận thấy, sự trải nghiệm 
trong cuộc sống của mỗi cá nhân ảnh hưởng đến việc diễn đạt lại giấc mơ. Thân chủ (đối 
tượng của hoạt động CTXH) thường xâu chuỗi giấc mơ thành một câu chuyện sau khi họ tỉnh 
dậy. Vì thế, nhân viên CTXH trước khi tiến hành Phân tích giấc mơ, cần có được những 
thông tin về hoàn cảnh sống của thân chủ. Trong quá trình làm việc với trẻ em, nhân viên 
CTXH cần lập kế hoạch tiếp cận và nói chuyện về giấc mơ. Như đã trình bày ở trên, giấc mơ 
thường rời rạc và không có kết cấu, nhân viên CTXH cần khơi gợi để các em chỉ tập trung kể 
lại, miêu tả những hình ảnh xuất hiện trong giấc mơ thay vì tạo nên tâm lý cố gắng hiểu vì sao 
giấc mơ đó lại xuất hiện, ý nghĩa của giấc mơ là gì? Nhân viên CTXH cần có sự lắng nghe, 
ghi chép và sử dụng các kỹ năng đặc trưng của nghề để tạo cho trẻ cảm giác an toàn, thoải 
mái khi kể về giấc mơ. Vì thực tế, trong giấc mơ tồn tại nhiều hành vi không phù hợp với quy 
chuẩn xã hội. Khi sử dụng các kỹ thuật của Phân tâm học để phân tích cần cẩn trọng, tránh 
trường hợp phán đoán, suy diễn dựa trên quan điểm cá nhân làm ảnh hưởng đến tiến trình và 
kết quả hoạt động CTXH với trẻ em. 
Đặc trưng của phương pháp tiếp cận phân tâm nói chung và phân tích giấc mơ nói riêng 
là thực hiện tiến trình CTXH bằng đàm thoại - trò chuyện. Phương pháp tiếp cận phân tâm coi 
vấn đề của thân chủ phát sinh do những căng thẳng tâm lý giữa những ham muốn vô thức 
hướng tới những hành động nào đó và những điều ép buộc trong hoàn cảnh sống của cá nhân 
trong quá khứ dồn nén lại. S. Freud đã nhiều lần khẳng định rằng người ta mắc bệnh là do 
những xung đột giữa những yêu cầu của cuộc sống bản năng với sự chống cự xuất hiện bên 
trong con người chống lại yêu cầu đó. Mục đích của phương pháp tiếp cận phân tâm là giúp 
con người tìm lại những cội rễ vô thức của các vấn đề của mình nảy sinh những xung đột bị 
dồn nén, bằng cách là sau khi giải phóng những cảm xúc có liên quan, bản thân con người sẽ 
cấu trúc lại nhân cách của mình trên những cơ sở mới. 
Nhân viên CTXH phải hiểu rõ sự vận hành của các cơ chế này, một mặt để phá vỡ cơ 
chế phòng vệ với thân chủ (lúc này là trẻ em), mặt khác để cho bản thân không phòng vệ với 
thân chủ, tạo được mối quan hệ thấu cảm - tiền đề cho quá trình tham vấn hiệu quả diễn ra sau 
đó. S. Freud cho rằng dù các cơ chế phòng vệ diễn ra trong hành vi bình thường của con 
người thì chúng cũng ngăn trở khả năng của con người ứng phó với việc giải quyết các vấn đề 
vô thức. Vì thế, nhân viên CTXH phải biết những cách thức (cụ thể ở đây là bản chất của giấc 
mơ và quá trình phân tích giấc mơ) giải quyết các cơ chế ngăn trở thân chủ ứng phó trực tiếp 
với các vấn đề của mình, phá bỏ chúng. Từng bước xây dựng tiến trình CTXH linh hoạt với 
trẻ, có sự điều chỉnh trong mỗi trường hợp cụ thể nhằm đạt được hiệu quả tốt nhất. 
3. Kết luận 
Nội dung của thuyết Phân tâm học là đi sâu tìm hiểu về đời sống nội tâm con người, 
nhằm hiểu rõ những suy nghĩ của con người được hiện thực bằng hành vi, đằng sau hành vi 
đó thì cái thuộc về bên trong con người sẽ như thế nào. Thuyết Phân tâm học của S.Freud, có 
một hệ thống lý thuyết và nhiều biện pháp trị liệu được đưa ra. Tuy nhiên, phương pháp trị 
liệu Phân tích giấc mơ với những ưu điểm vượt trội và sự phù hợp đã chứng minh được khả 
QUẢN LÝ - ĐÀO TẠO 
11 
năng ứng dụng trong tiến trình CTXH với trẻ em. Thuyết Phân tâm học hoàn toàn có thể được 
nghiên cứu và ứng dụng vào hoạt động CTXH với trẻ em, bởi lẽ Phân tâm học với vai trò là 
phương pháp nghiên cứu có hướng đi gần nhất đến bản chất vấn đề, sẽ là mảnh đất màu mỡ 
cần được khai thác và phát huy. 
Phân tâm học là một hệ thống các lý thuyết trừu tượng và cách thức tiến hành ứng dụng 
cũng không hề đơn giản; cần phải có một đội ngũ nhân viên CTXH có khả năng tiếp thu tốt 
nhất, hấp thu được đầy đủ các kiến thức và kỹ năng của Phân tâm học để ứng dụng thực tiễn. 
Với điều kiện của Việt Nam hiện nay, những đòi hỏi đó vẫn chưa thể đáp ứng được, nếu có 
cũng chỉ ở một mức độ nhỏ. Chúng ta vẫn chưa có cách tiếp cận nào tốt nhất để đưa Phân tâm 
học vào ứng dụng trên các lĩnh vực CTXH. Bài viết này là bước đầu tiếp cận nghiên cứu ứng 
dụng thuyết Phân tâm học vào hoạt động CTXH với trẻ em nói chung. Từ đó, có những đánh 
giá để tác giả tiếp tục nghiên cứu sâu hơn, cụ thể hơn về những hoạt động CTXH với trẻ em 
tại Việt Nam hiện nay như: giảng dạy về tâm lý trong các trường học, các viện nghiên cứu 
được mở ra, trong các bệnh viện có các khoa tâm thần sử dụng biện pháp trị liệu tâm lý, các 
trung tâm nghiên cứu về tiềm năng con người... Với những gì đã đạt được, Phân tâm học 
chứng minh thuyết phục với chúng ta về sự tồn tại hợp lý và giá trị của nó, điều đó cho chúng 
ta thấy rằng, Phân tâm học vẫn sẽ tiếp tục được tiếp nhận và ứng dụng để đạt được nhiều 
thành tựu hơn nữa trên các lĩnh vực khác nhau, bao gồm cả hoạt động CTXH nói chung và 
CTXH với trẻ em nói riêng. 
Tài liệu tham khảo 
[1]. Bùi Thị Xuân Mai (2010), Giáo trình nhập môn công tác xã hội, Nxb Lao động - 
Xã hội, Hà Nội. 
[2]. Marian Brandon, Gillian Schofiel, Liz Trinder, Nigel Stone (2011), Công tác xã hội 
với trẻ em, Nxb Đại học Mở Bán công TP. Hồ Chí Minh. 
[3]. Sigmund Freud (2015), Cái tôi và cái nó, Nxb Tri thức. 
[4]. Sigmund Freud (2015), Sâu xa hơn nguyên tắc không đổi, Nxb Tri thức. 
[5]. Singmund Freud (2002), Nguyễn Xuân Hiến (dịch), Phân tâm học nhập môn, Nxb 
Đại học Quốc gia Hà Nội. 
[6]. Cổng tin tức tổng hợp (2018), Tâm lý trẻ em hiểu theo phân tâm học tâm lý trị liệu. 
Truy cập từ http: congtintuctonghop.com (truy cập ngày 12 tháng 11 năm 2018). 
[7]. Trang inpsychology.net (2016), giấc mơ. Truy cập từ  
(truy cập ngày 14 tháng 10 năm 2016). 
PSYCHOANALYSIS AND ITS APPLICATION IN SOCIAL WORK 
WITH THE CHILDREN 
 Mai Thuy An, M.A 
Abstract: Psychoanalysis is a research theory on the inner world of people through 
outwardly expressed behaviors, from which we can find solutions to correct social norms 
QUẢN LÝ - ĐÀO TẠO 
12 
deviance behaviour (referred to as deviance behaviour). At present, facing the fluctuations in 
a modern life, many issues need to be posed to address the psycho-social affairs especially 
related to children who are at risk of social evils such as: addiction games, school violence, 
sexual abuse, drug abuse The application of dream analysis method based on 
psychoanalytic theory of S. Freud is an important and necessary content in social activities 
with children. As a result, social workers can take intervention and treatment materials and 
step by step build appropriate social work processes with children to achieve the most 
positive effect. 
 Keywords: Psychoanalysis, social work, children, S.Freud 
Người phản biện: TS. Đoàn Văn Trường (ngày nhận bài 18/7/2019; ngày gửi phản biện 
19/7/2019; ngày duyệt đăng 30/9/2019). 

File đính kèm:

  • pdfthuyet_phan_tam_hoc_va_van_dung_vao_hoat_dong_cong_tac_xa_ho.pdf