Thơ Nguyễn Vỹ trong tiếp nhận của phê bình văn học ở miền Nam giai đoạn 1954 – 1975

Nguyễn Vỹ, một trong không nhiều gương mặt tiêu biểu của phong trào Thơ mới 1932 - 1945

vẫn còn tiếp tục sáng tác và hoạt động văn học ở miền Nam giai đoạn 1954 – 1975. Vì vậy, Nguyễn

Vỹ và thơ của ông luôn được các nhà phê bình văn học quan tâm nghiên cứu. Bài viết Thơ Nguyễn

Vỹ trong tiếp nhận của phê bình văn học ở miền Nam 1954 - 1975, đề cập đến hai vấn đề mà các

nhà phê bình văn học ở miền Nam tập trung luận giải đó là: Nguyễn Vỹ - nhà thơ với những khát

khao đổi mới và cách tân và Nguyễn Vỹ - nhà thơ với ý thức phản kháng và một cá tính sáng tạo.

Đây cũng là những phẩm tính làm nên vũ trụ thơ Nguyễn Vỹ

Thơ Nguyễn Vỹ trong tiếp nhận của phê bình văn học ở miền Nam giai đoạn 1954 – 1975 trang 1

Trang 1

Thơ Nguyễn Vỹ trong tiếp nhận của phê bình văn học ở miền Nam giai đoạn 1954 – 1975 trang 2

Trang 2

Thơ Nguyễn Vỹ trong tiếp nhận của phê bình văn học ở miền Nam giai đoạn 1954 – 1975 trang 3

Trang 3

Thơ Nguyễn Vỹ trong tiếp nhận của phê bình văn học ở miền Nam giai đoạn 1954 – 1975 trang 4

Trang 4

Thơ Nguyễn Vỹ trong tiếp nhận của phê bình văn học ở miền Nam giai đoạn 1954 – 1975 trang 5

Trang 5

Thơ Nguyễn Vỹ trong tiếp nhận của phê bình văn học ở miền Nam giai đoạn 1954 – 1975 trang 6

Trang 6

Thơ Nguyễn Vỹ trong tiếp nhận của phê bình văn học ở miền Nam giai đoạn 1954 – 1975 trang 7

Trang 7

pdf 7 trang minhkhanh 5540
Bạn đang xem tài liệu "Thơ Nguyễn Vỹ trong tiếp nhận của phê bình văn học ở miền Nam giai đoạn 1954 – 1975", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Thơ Nguyễn Vỹ trong tiếp nhận của phê bình văn học ở miền Nam giai đoạn 1954 – 1975

Thơ Nguyễn Vỹ trong tiếp nhận của phê bình văn học ở miền Nam giai đoạn 1954 – 1975
 TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN HIẾN TẬP 6 SỐ 3 
49 
THƠ NGUYỄN VỸ TRONG TIẾP NHẬN CỦA PHÊ BÌNH VĂN HỌC 
Ở MIỀN NAM GIAI ĐOẠN 1954 – 1975 
Trần Hoài Anh 
Trường Đại học Văn hóa Thành phố Hồ Chí Minh 
anhhoai1108@gmail.com 
Ngày nhận bài: 6/4/2018; Ngày duyệt đăng: 17/12/2018 
Tóm tắt 
Nguyễn Vỹ, một trong không nhiều gương mặt tiêu biểu của phong trào Thơ mới 1932 - 1945 
vẫn còn tiếp tục sáng tác và hoạt động văn học ở miền Nam giai đoạn 1954 – 1975. Vì vậy, Nguyễn 
Vỹ và thơ của ông luôn được các nhà phê bình văn học quan tâm nghiên cứu. Bài viết Thơ Nguyễn 
Vỹ trong tiếp nhận của phê bình văn học ở miền Nam 1954 - 1975, đề cập đến hai vấn đề mà các 
nhà phê bình văn học ở miền Nam tập trung luận giải đó là: Nguyễn Vỹ - nhà thơ với những khát 
khao đổi mới và cách tân và Nguyễn Vỹ - nhà thơ với ý thức phản kháng và một cá tính sáng tạo. 
Đây cũng là những phẩm tính làm nên vũ trụ thơ Nguyễn Vỹ. 
Từ khóa: Nguyễn Vỹ, phê bình văn học miền Nam, giai đoạn 1954-1975, đổi mới và cách tân, 
Cá tính sáng tạo 
Nguyen Vy’s poem in the reception of literary criticism 
in South Vietnam the period 1954-1975 
Abstract 
Nguyen Vy, one of many typical faces of the new poetry movement from 1932 to 1945, continued 
writing and literary activities in South Vietnam the period 1954-1975. Therefore, Nguyen Vy and 
his poetry are always interested in literary critics. The Poems of Nguyen Vy in the reception of 
literary criticism in South Vietnam of 1954-1975, refers to two issues that southern literary critics 
have argued: Nguyen Vy - the poet with desire for innovation and innovation and Nguyen Vy - a 
poet with a sense of protest and a creative personality. These are the qualities that make up the poet 
Nguyen Vy. 
Keywords: Nguyen Vy, literary criticism of the South, the period 1954-1975, innovation and 
innovation, Creative personalily 
1. Mở đầu 
Nguyễn Vỹ không chỉ là một trong những 
gương mặt thi ca tiêu biểu của phong trào Thơ 
mới những năm 1932-1945 mà còn là một trong 
những nhà thơ, nhà văn, nhà báo để lại những 
dấu ấn khá sâu sắc trong văn học miền Nam giai 
đoạn 1954-1975. Nghiên cứu về Nguyễn Vỹ, đã 
có nhiều công trình đề cập đến như: Thi nhân 
Việt Nam của Hoài Thanh – Hoài Chân (2003); 
Những khuynh hướng trong thi ca Việt Nam của 
Minh Huy (1962); Văn thi sĩ hiện đại của Bàng 
Bá Lân (1962); Việt Nam thi nhân tiền chiến, 
Nguyễn Tấn Long (1972); Lược sử văn nghệ 
Việt Nam của Thế Phong (1957) Nhưng 
nghiên cứu về sự tiếp nhận thơ Nguyễn Vỹ trong 
phê bình văn học ở miền Nam giai đoạn 1954-
1975 từ điểm nhìn của lý thuyết tiếp nhận văn 
học thì đây là bài viết đầu tiên. 
Là một hiện tượng văn học khá phức tạp, khi 
nghiên cứu về sự tiếp nhận thơ Nguyễn Vỹ, 
chúng ta cũng gặp rất nhiều những sự tiếp nhận 
xuất phát từ những tầm đón đợi khác nhau, thậm 
chí mâu thuẩn nhau ngay trong một chủ thể tiếp 
nhận. Vì thế, đọc thơ Nguyễn Vỹ, nghĩ về thơ 
Nguyễn Vỹ, tiếp nhận thơ Nguyễn Vỹ, có lẽ, 
chúng ta nên xuất phát từ điểm nhìn này, mới có 
thể cảm thông, chia sẻ với thi nhân về những gì 
mà ông đã lựa chọn như một tâm thức hiện sinh 
 VAN HIEN UNIVERSITY JOURNAL OF SCIENCE VOLUME 6 NUMBER 3 
50 
trong những tháng năm hiện hữu của mình trên 
“cõi nhân gian hư ảo” này. Nếu chúng ta không 
có tấm lòng độ lượng biết “trông đến sáu cõi, 
nghĩ đến nghìn đời” e rằng, chúng ta sẽ khó thấu 
hiểu được con người thi sĩ. Bởi thế, Hoài Thanh 
trong Thi nhân Việt Nam tuy rất khắt khe với 
Nguyễn Vỹ, đã phê phán ông với những lời khá 
mai mỉa, chua chát khi cho rằng: “Nguyễn Vỹ 
đã đến giữa làng thơ với chiêng trống xập xoèng 
inh cả tai. Chúng ta đổ nhau ra xem. Nhưng 
chúng ta lại chưng hửng trở vào vì ngoài cái lối 
ăn mặc và những điệu bộ lố lăng lúc đầu ta thấy 
con người ấy không có gì” (Hoài Thanh, Hoài 
Chân, 2003). Nhưng rồi, cũng chính Hoài 
Thanh, lại ngợi ca thi tài của Nguyễn Vỹ khi xác 
quyết: “Một bài như bài Sương rơi rất được 
nhiều người thích. Người ta thấy Nguyễn Vỹ đã 
sáng tạo ra một nhạc điệu riêng để tả một cái gì 
đang rơi. Cái gì đó có thể là những giọt sương 
cũng có thể là những giọt lệ hay những giọt gì 
vẫn rơi đều đều, chậm chậm trong lòng ta mỗi 
lúc vẩn vơ buồn ta đứng một mình trong lặng 
lẽ.” (Trần Hoài Anh, 2017) Còn với bài “Gửi 
Trương Tửu” thì Hoài Thanh cho rằng đó “mới 
thực là kiệt tác” và ông luận giải: “Nguyễn Vỹ 
đã làm bài thơ này trong một lúc vô cùng buồn 
giận vì cái nghiệp văn chương. Những ai cùng 
một cảnh huống xem thơ tưởng có thể khóc lên 
được” (Hoài Thanh và Hoài Chân, 2003). 
Dẫn các ý kiến của nhà phê bình Hoài Thanh 
về Nguyễn Vỹ trong phần mở đầu bài viết, 
chúng tôi chỉ muốn khẳng định rằng, việc khen 
chê khi đánh giá một hiện tượng văn học là điều 
bình thường của quá trình tiếp nhận. Bài viết về 
tiếp nhận Thơ Nguyễn Vỹ trong tiếp nhận của 
phê bình văn học ở miền Nam 1954 - 1975 cũng 
không nằm ngoài quy luật của trường tiếp nhận 
này, thể hiện qua các bình diện sau. 
2. Nguyễn Vỹ - nhà thơ với những khát 
khao đổi mới và cách tân 
Một trong những căn tính của người nghệ sĩ 
là sự khát khao sáng tạo. Bởi, là nghệ sĩ mà thiếu 
sáng tạo thì không thể tồn tại được và cái giá 
phải trả, đó là sự lãng quên trong tâm thức người 
tiếp nhận. Phải chăng, vì ý thức được điều hệ 
trọng và thiêng liêng này, nên Nguyễn Vỹ luôn 
hướng đến sự đổi mới và cách tân trong thơ ca, 
cho dẫu sự cách tân ấy có thể thành công hay 
thất bại, có được người đọc chấp nhận hay 
không!? Và cái “chí lớn” của Nguyễn Vỹ với tư 
cách là một thi sĩ có lẽ là cái khát khao đổi mới 
và cách tân này. Đây cũng là một phẩm tính của 
thơ Nguyễn Vỹ được các nhà phê bình văn học 
ở miền Nam giai đoạn 1954-1975 chia sẻ, khi 
tiếp nhận thơ ông. 
Trong tác phẩm Hồn thơ nước Việt thế kỷ XX, 
Lam Giang và Vũ Tiến Phúc (1970), khi nhận xét 
về hình thức thể hiện trong thơ Nguyễn Vỹ cho 
rằng Nguyễn Vỹ thuộc trường phái “náo nức cầu 
tân” tức là luôn có khát khao đổi mới hình  ... i đang hồi 
phát triển mạnh mẽ. Trong giai đoạn này, phần 
đông thi sĩ thường đem khung cảnh lãng mạn 
vào thi ca lấy chuyện tình ái làm đề tài, hay nói 
cách khác, đa số thi nhân đều lấy tình yêu làm 
bối cảnh và động lực chính cho đường hướng 
sáng tác của mình (.. .) thì một Nguyễn Vỹ làm 
thơ với một tâm hồn phức tạp, kết tinh bằng 
những gì uất ức, căm hờn chua chát... Có thế nói 
Nguyễn Vỹ là nhà thơ không lấy tình yêu làm 
đối tượng, vì thế Nguyễn Vỹ có đường nét độc 
đáo riêng biệt. 
Đọc Nguyễn Vỹ người ta cảm nhận điều gì 
mỉa mai chua chát hơn là ca tụng cảnh trời cao, 
biển rộng sông dài. Tiếng thơ của Nguyễn Vỹ là 
sự tức tối như muốn phá vỡ cái gì trong hiện tại 
đang bị dồn ép, uất ức để nói lên nỗi thống khổ 
của kiếp người.” Chính vì nhận thức được sự 
“dồn ép, uất ức” và “để nói lên nỗi thống khổ 
của kiếp người” nên trong thơ Nguyễn Vỹ ta còn 
thấy thể hiện ý thức phản kháng và nổi loạn” của 
một thi nhân mang đậm cá tính sáng tạo. Đây 
cũng là vấn đề được các nhà phê bình văn học ở 
miền Nam trước 1975 nói đến trong quá trình 
tiếp nhận thơ Nguyễn Vỹ. 
3. Nguyễn Vỹ - nhà thơ với ý thức phản 
kháng và một cá tính sáng tạo 
Có thể nói, thơ Nguyễn Vỹ không chỉ chất 
chứa trong đó khát khao đổi mới và cách tân mà 
còn thể hiện một ý thức phản kháng và “nổi 
loạn” của một tâm thức hiện sinh. Ý thức phản 
kháng và nổi loạn này chính là hệ quả của khát 
khao đổi mới cách tân trong thơ Nguyễn Vỹ. Vì 
thế, giá trị của thơ Nguyễn Vỹ trong cái nhìn của 
Nguyễn Tấn Long, không chỉ thể hiện ở khát 
vọng đổi mới và cách tân thơ Việt để vượt thoát 
những gì khuôn sáo, khắc nghiệt, gò bó của thơ 
ca trung đại mà còn chứa chất trong đó tinh thần 
phản kháng trước những bất công của cường 
quyền và bạo lực đối với chế độ xã hội đương 
thời trước những bi trạng của đất nước, quê 
hương. Và theo Nguyễn Tấn Long (1972): 
“Trong những ngày lao lung, Nguyễn Vỹ tạo 
nên những vần thơ tha thiết, chân thành của một 
con người khao khát ánh sáng vằng vặc của đêm 
trăng, thèm thuồng vùng vẫy trong khoảng 
không gian rộng lớn nhưng than ôi! Thực tế quá 
đắng cay: Có Tự do là có Thần tiên/ Không có 
nó trần duyên là ngục thẳm!/ Tù Trà Khê say mê 
trong giấc đắm,/ Trên giường tù ai lệ đẩm trong 
đêm!” Chính vì vậy, khi nói về ý kiến của Hoài 
Thanh cũng như Thế Lữ phê phán thơ Nguyễn 
Vỹ tác giả Việt Nam thi nhân tiền chiến cho 
rằng: “Từ Hoài Thanh - Hoài Chân cho đến Thế 
Lữ (bút hiệu Lê Ta) đều phê bình theo lối riêng 
của mình mà không cần biết những cái hay của 
người, hay nói cách khác đó là lối phê bình một 
chiều.” (Nguyễn Tấn Long, 1972) 
Và cũng trong trường tiếp nhận này, với cái 
nhìn tỉnh táo và khách quan, công bằng, tôn 
trọng tính khoa học và thực tiễn, Nguyễn Tấn 
Long đã phản biện ý kiến của nhà nghiên cứu 
Thế Phong (1957) trong tác phẩm Lược sử văn 
nghệ Việt Nam, khi Thế Phong cho rằng: “Sự 
nghiệp của ông Nguyễn Vỹ chỉ được một câu 
thơ trong bài Gửi Trương Tửu khiến cho người 
đời còn nhắc đến tên ông “Thi sĩ Việt Nam khổ 
như chó”. Nguyễn Tấn Long (1972) phản đối ý 
kiến này của Thế Phong bằng cách đặt vấn đề 
hết sức thuyết phục, trên cơ sở những chứng từ 
sáng tác của Nguyễn Vỹ khi xác quyết: “Các 
bạn sẽ hiểu ý nghĩa gì về câu nói của ông Thế 
Phong khi Nguyễn Vỹ đã viết: “Nhà văn An 
Nam khổ như chó” để trình bày một thực trạng 
lúc bấy giờ. () 
 TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN HIẾN TẬP 6 SỐ 3 
53 
Nếu quả thật Nguyễn Vỹ là con số không hay 
con số một khi bàn đến lược sử Văn nghệ Việt 
Nam thì hãy gạt hẳn Nguyễn Vỹ ra ngoài rìa văn 
giới nhưng đấy chỉ là ý kiến cá nhân, còn đối với 
công luận quần chúng, người ta vẫn không thể 
phủ nhận sự hiện diện của Nguyễn Vỹ trong văn 
học Sẽ có người cho rằng chúng tôi vì 
Nguyễn Vỹ mà bênh vực. Thật ra, trong khi 
tham khảo những tài liệu thời tiền chiến, chúng 
tôi đã thấy và hiểu, rồi cố lấy tinh thần khách 
quan để làm sáng tỏ một vấn đề với mục đích 
đem trả lại một sự thật cho một sự thật.” 
Có lẽ vì cái tinh thần khách quan để “làm 
sáng tỏ một sự thật” mà Nguyễn Tấn Long đã 
đặt vấn đề tranh luận với Thế Phong về những 
điều đã đánh giá thiếu khách quan, thiếu thực tế 
về Nguyễn Vỹ trong công trình Lược khảo văn 
nghệ Việt Nam (Thế Phong, 1957). Đây cũng là 
tâm nguyện của nhiều nhà văn, nhà phê bình văn 
học ở miền Nam trước 1975 và cũng là điều mà 
công chúng tiếp nhận thơ Nguyễn Vỹ hướng 
đến. Vì vậy, trong tác phẩm Việt Nam thi nhân 
tiền chiến, để làm rõ chân tài về sự sáng tạo 
trong thơ của Nguyễn Vỹ, Nguyễn Tấn Long 
cũng luận bàn về tập thơ Hoang Vu1, qua việc 
trích dẫn ý kiến bình luận của nhà văn Thiết Mai 
trong tác phẩm Sáng dội miền Nam mà theo 
Nguyễn Tấn Long (1972) là “tương hợp phần 
lớn với khuynh hướng thi ca của Nguyễn Vỹ 
() Tài làm thơ của Nguyễn Vỹ đã biểu lộ cho 
ta thấy trong sự cấu tạo dễ dàng, không gò ép và 
tính cách lưu loát của câu thơ, sự tiếp diễn liên 
tục của ý thơ, tài gieo vần và nhất là ý tứ thâm 
trầm, mỉa mai sâu sắc, hay ý nhị, đa tình của 
những câu thơ.” 
Để chỉ rõ cơ sở văn hóa và tư tưởng triết mỹ 
tác động đến quá trình sáng tạo nhằm hình thành 
phong cách thơ Nguyễn Vỹ với tư cách là một thi 
nhân luôn khát khao đổi mới, cách tân, hướng 
đến một “cuộc cách mạng thi ca” như Hoài 
Thanh đã nói đến ở bài tiểu luận: “Một thời đại 
mới trong thi ca”, trong Thi nhân Việt Nam, Thiết 
Mai cho rằng: “Nguyễn Vỹ chịu ảnh hưởng hai 
văn hóa, hai làn tư tưởng Đông và Tây nên 
1 Nguyễn Vỹ (1962). Hoang Vu. Phổ thông Tùng thư ấn 
Nguyễn Vỹ đã làm được cả các lối thơ Đường, 
thơ cổ điển và thơ mới. Trong loại sau này, điều 
đáng chú ý là Vỹ như muốn đưa những thể mới, 
có tác dụng xúc cảm, có âm điệu du dương, hợp 
tình để gợi tình và tả chân mạnh hơn. Thể mới ấy 
được thấy trong các bài thơ: Sương rơi, Mưa rào, 
Tiếng chuông chùa v.v (...) 
Về ý thơ, Nguyễn Vỹ quả thật đã có nhiều ý 
tưởng, nhiều câu văn rất táo bạo (Hai người 
điên, Hai con chó, Trăng, Chó, Tù, Đêm trinh 
v,v...). Nhưng theo ý riêng tôi những ý tưởng, 
những câu văn táo bạo ấy vẫn là những lời độc 
đáo đưa Nguyễn Vỹ ra khỏi lối thường tình và 
cổ điển của các nhà thơ và cũng tỏ cho ta thấy 
rằng Vỹ là con người có nội tâm cứng rắn, thành 
thật, dám biểu lộ tâm tư mình bằng những hình 
ảnh thiết thực do lòng mình suy tưởng” 
(Nguyễn Tấn Long, 1972). 
Với một tầm đón đợi riêng có của nhà nghiên 
cứu phê bình văn học, sự đồng cảm giữa Nguyễn 
Tấn Long và Thiết Mai khi nhìn nhận giá trị thơ 
Nguyễn Vỹ, không chỉ thể hiện ở sự viện dẫn 
những ý kiến của Thiết Mai trong phần tiểu luận 
viết về Nguyễn Vỹ trong công trình nghiên cứu 
khá công phu Việt Nam thi nhân tiền chiến mà 
còn thể hiện ở những nhận định của Nguyễn Tấn 
Long về nội dung tư tưởng và nghệ thuật thơ 
Nguyễn Vỹ qua diễn ngôn: “với ý thơ trở nên 
thâm trầm, tình thơ thiên nặng về quê hương, đất 
nước; đôi bài len lỏi vào địa hạt tôn giáo, tư 
tưởng bắt đầu ngấm mùi đạo.” mà theo Nguyễn 
Tấn Long trong sự nghiệp thơ ca của Nguyễn 
Vỹ “Ngoài những bài thơ trào phúng về thế sự 
còn mang tính chất mỉa đời (trong tập Thơ lên 
ruột), chúng tôi nhận thấy trong Hoang vu tiếng 
thơ của Nguyễn Vỹ những lúc sau này như trút 
bớt đi nỗi căm hờn, phẫn uất, giọng thơ không 
còn gay gắt, ý thơ trở nên thâm trầm, tình thơ 
thiên nặng về quê hương, đất nước; đôi bài len lỏi 
vào địa hạt tôn giáo tư tưởng bắt đầu ngấm mùi 
đạo. Phải chăng đây là cái tâm lý chung của 
người đời hay dọn sẵn một khoảng đất trống cho 
tâm linh khi cái thân xác vật chất của mình sắp bị 
hủy diệt. Nguyễn Vỹ nói: Nếu ta biết một khu trời 
hành, Sài Gòn. 
 VAN HIEN UNIVERSITY JOURNAL OF SCIENCE VOLUME 6 NUMBER 3 
54 
Vạn hạnh/ Trăng không tàn mà hoa cũng không 
trôi (Đêm sầu về)” (Nguyễn Tấn Long, 1972) 
Và khi kết thúc phần phê bình về sự nghiệp 
văn chương của Nguyễn Vỹ trong tiểu luận này, 
Nguyễn Tấn Long hơn một lần đã khẳng định 
văn tài và nhân cách của Nguyễn Vỹ khi ông xác 
quyết: “Chúng ta thấy Nguyễn Vỹ là một nhà 
thơ có thực tài. Ông dám trình bày một cách 
trung thực tư tưởng của mình, nói lên nỗi uất ức, 
bất công của kiếp người. Nguyễn Vỹ có cái nhìn 
thường xuyên vào thực trạng xã hội, theo dõi 
những màu sắc biến đổi của nhịp sống dân tộc 
đã chịu nhiều thảm họa, hòa lẫn vào đấy tình yêu 
thương đồng loại, tiếng thơ của Nguyễn Vỹ là 
tiếng nói chân thành phát xuất tự con nguời còn 
nghĩ đến quê hương” (Nguyễn Tấn Long, 1972). 
Những điều Nguyễn Tấn Long đã khẳng 
định về Nguyễn Vỹ trong công trình Việt Nam 
thi nhân tiền chiến cũng được Tuần Lý Huỳnh 
Khắc Dụng xác quyết khi trình bày những suy 
cảm của mình trước sự ra đi đột ngột của 
Nguyễn Vỹ: “Một nhân tài đã ra đi! Trời Nam 
Việt một ngôi sao đã tắt! Nguyễn Vỹ ơi còn đâu 
những câu thơ nhí nhảnh của Diệu Huyền mà 
Tuần Lý này đã từng cợt gọi “nữ sĩ tóc đuôi gà”. 
Gọi anh Vỹ là một nhân tài, không có chi là quá 
đáng. Thật vậy tôi chưa hề đọc một bài thơ mới 
nào hay bằng những bài thơ trong quyển “Hoang 
Vu” mà Nguyễn Vỹ đã từng nhờ tôi và giáo sư 
Cổn bên Pháp dịch ra thơ Tây. Nguyễn Vỹ là 
một thi hào khả ái, viết gọn, có duyên, dí dỏm” 
(Tuần Lý Huỳnh Khắc Dụng, 1972). Và cũng đề 
cập đến nhũng thành công về tập thơ Hoang Vu 
của Nguyễn Vỹ từ sự tiếp nhận của một người 
đọc, Ngọa Long trên Nhật báo Đuốc Nhà Nam 
số 905 ra ngày chủ nhật 19-12-1971 cho rằng 
điều thú vị và bất ngờ của ông khi khám phá thi 
giới trong tập thơ Hoang Vu của Nguyễn Vỹ mà 
theo ông “Nếu Hàn Mặc Tử là nhà thơ của 
TRĂNG thì Nguyễn Vỹ là nhà thơ của ĐÊM, 
của những đêm dài buồn từ trong tâm khảm. 
Tập thơ có 50 bài mà hầu hết là những bài 
tức cảnh về “ĐÊM” như Tiếng Sáo Đêm Khuya, 
Đêm Mùa Xuân Về, Hương Giang Dạ Khúc, Sài 
Gòn Đêm Khuya, Tiếng Súng Đêm, Đêm Sầu về, 
Xuân Dạ, Đêm Trinh... Đó là không kể các bài 
thơ khác như Tiếng Chuông Chùa, Sương Rơi, 
Đôi Bóng, Duyên Trăng, Mưa Rào, Cô Đơn 
tác giả đều lấy cảm hứng trong cảnh tối” (Ngọa 
Long, 1972). Phải chăng, đây chính là một hệ 
giá trị để cuộc đời và văn nghiệp của Nguyễn 
Vỹ sống lâu bền trong tâm thức của mọi thế hệ 
người đọc cho dù cuộc sống có trải qua bao biển 
cải của cảnh “thương hải biến vi tang điền”. 
Thơ Nguyễn Vỹ, vì vậy không phải là thơ chỉ 
để thể hiện những xúc cảm trước thiên nhiên của 
một thi nhân dấu mình trong chốn “điền viên” để 
vui thú mà thơ ông luôn mạng nặng một nỗi “sầu 
vạn cổ” với những ưu lo, khắc khoải của một 
người nghệ sĩ trước cõi nhân sinh. Chính vì vậy, 
cho dù trong quá trình tiếp nhận thơ Nguyễn Vỹ, 
vẫn còn có những ý kiến khác nhau nhưng thơ 
ông vẫn có một chỗ đứng xứng đáng trong lịch 
sử văn học nước nhà và luôn được người đọc trân 
quý, yêu mến. Đó chẳng phải là niềm hạnh phúc 
và vinh hạnh cho thi nhân đó sao? 
4. Kết luận 
Cuộc đời của con nguời là hữu hạn, không ai 
có thể vượt qua sự hữu hạn đó cho dẫu là thiên 
tài nhưng những gì thuộc về nhân cách văn hóa, 
tấm lòng đối với con người, với dân tộc, với đất 
nước quê hương được thể hiện qua những sáng 
tạo của người nghệ sĩ, sống dấn thân, dám đấu 
tranh chống lại bạo lực, cường quyền - nơi cội 
nguồn sinh ra cái ác, cái xấu, cái bất công, cái 
thấp hèn, cái đê tiện thì sẽ đi vào cõi bất tử, cho 
dù có thể trải qua những chìm nổi trong giông 
bão cuộc đời. Phải chăng, đây cũng là một khao 
khát mà mọi nghệ sĩ chân chính đều hướng tới 
trong đó có nhà thơ Nguyễn Vỹ. 
Nguyễn Vỹ xuất hiện trên văn đàn không 
phải chỉ với tư cách nhà thơ mà còn với tư cách 
nhà biên khảo, dịch thuật, nhà báo, nhà hoạt 
động xã hội mà ở lĩnh vực nào ông cũng có 
những đóng góp nhất định cho nước nhà. Nhưng 
có lẽ cái còn lại trong tâm thức và tâm cảm của 
người đọc khi đến với Nguyễn Vỹ chính là thơ 
ca vì ở đó thể hiện rõ khát vọng cách tân và đổi 
mới của ông trong việc góp phần hiện đại hóa 
nển văn học dân tộc. Không những thế, Nguyễn 
Vỹ còn là một nhà thơ có cá tính sáng tạo độc 
đáo luôn bứt phá và vượt lên chính mình, không 
 TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN HIẾN TẬP 6 SỐ 3 
55 
bao giờ muốn đóng khung trong một cái khuôn 
có sẵn. Vì vậy, trong quá trình tiếp nhận thơ ông 
luôn tồn tại những ý kiến khác nhau, thậm chí 
đối lập nhau. Song, đây là điều bình thường 
trong tiếp nhận văn học. Bởi khi tầm đón đợi của 
người đọc khác nhau, tồn tại trong những trường 
tiếp nhận khác nhau thì việc có những ý kiến 
khác nhau đối với một hiện tượng văn học là 
điều tất yếu. Và điều này đã thể hiện rõ trong 
quan điểm của các nhà phê bình văn học ở miền 
Nam giai đoạn 1954-1975 khi tiếp nhận thơ 
Nguyễn Vỹ mà bài viết này là một minh chứng. 
Hiểu được điều này chúng ta sẽ bình tâm hơn 
trong việc tiếp nhận các hiện tượng văn học, 
nhất là các hiện tượng văn học có những ý kiến 
trái chiều và đây cũng là những hệ giá trị mà mỹ 
học tiếp nhận hiện đại mang đến cho đời sống lý 
luận phê bình văn học. Bởi, theo quan điểm của 
mỹ học tiếp nhận, lịch sử văn học chính là lịch 
sử của tiếp nhận văn học. Nghiên cứu về quá 
trình tiếp nhận thơ Nguyễn Vỹ trong phê bình 
văn học ở miền Nam giai đoạn 1954-1975 cũng 
là để giúp chúng ta thấy rõ hơn giá trị riêng có 
của thơ Nguyễn Vỹ cũng như vị trí của thi nhân 
trong lịch sử văn học nước nhà. 
Tài liệu tham khảo 
Tuần Lý Huỳnh Khắc Dụng (1972). Số đặc biệt 
tưởng niệm cố thi sĩ Nguyễn Vỹ. Tạp chí 
Thằng Bờm, 86, tr.2. 
 Lam Giang và Vũ Tiến Phúc (1970). Hồn thơ nước 
Việt thế kỷ XX. Sài Gòn, Sơn Quang xuất bản, 
tr.152-157. 
Minh Huy (1962). Những Khuynh hướng trong thi ca 
Việt Nam. Sài Gòn, Khai Trí xuất bản, tr. 133-
134. 
Bàng Bá Lân (1962). Văn thi sĩ hiện đại. Sài Gòn, 
Nxb. Xây Dựng, tr.143-151. 
Nguyễn Tấn Long (1972). Việt Nam thi nhân tiền 
chiến, Quyển thượng. Sài Gòn, Sống Mới 
Xuất bản. 
Ngọa Long (1972). Số đặc biệt tưởng niệm cố thi sĩ 
Nguyễn Vỹ. Tạp chí Thằng Bờm, 86, tr.16. 
Thế Phong (1957). Lược sử văn nghệ Việt Nam. Sài Gòn. 
Hoài Thanh, Hoài Chân (2003). Thi nhân Việt Nam. 
Hà Nội, Nxb. Văn học, tr.106-108. 

File đính kèm:

  • pdftho_nguyen_vy_trong_tiep_nhan_cua_phe_binh_van_hoc_o_mien_na.pdf