Giáo trình Lý thuyết tài chính tiền tệ - Chương 1: Tiền tệ trong nền kinh tế thị trường

Trong thời kỳ đầu của chế độ công xã nguyên thuỷ, với công cụ lao động thô sơ,

con người tự cung cấp cho nhau số sản phẩm ít ỏi kiếm được từ săn bắn, hái lượm. Khi

đời sống cộng đồng ngày càng phát triển, ý thức phân công lao động được hình thành và

lượng sản phẩm dư thừa đã làm nảy sinh quan hệ trao đổi giữa các thị tộc.

Cùng với sự chuyên môn hoá lao động phát triển và quá trình phân công lao động

xã hội ngày một sâu hơn, nhu cầu trao đổi hàng hoá ngày càng nhiều và mở rộng, việc

trao đổi trực tiếp gây khó khăn cho việc lưu thông hàng hoá đòi hỏi phải có một “vật

ngang giá chung” làm trung gian trao đổi. Ban đầu, vật trung gian được lựa chọn từ

những hàng hoá mang nét đặc trưng phổ biến của vùng, lãnh thổ Khi kinh tế phát triển,

nhu cầu trao đổi ngày càng mở rộng không chỉ diễn ra trong phạm vi vùng, lãnh thổ mà

còn vượt ra khỏi vùng, lãnh thổ đó thì quá trình trao đổi gặp khó khăn khi mỗi địa

phương có một vật trung gian khác nhau. Để khắc phục tình trạng này, cần có một vật

ngang giá chung duy nhất làm trung gian cho quá trình trao đổi - đó chính là tiền tệ.

Trong thời kỳ đầu khoảng 2.000 năm trước công nguyên, vật trung gian trao đổi

thường được chọn từ một hàng hoá có giá trị sử dụng cần thiết chung cho nhiều người,

có tính chất phổ biến, đặc trưng cho địa phương, khu vực nơi diễn ra quan hệ trao đổi.

(Hy Lạp dùng gia súc; Tây Tạng, Mông Cổ dùng chè; ở Bắc Mỹ dùng thuốc lá, ở Trung

Quốc có vùng dùng vải, có vùng dùng vỏ trai hoặc da ) Việc sử dụng tiền tệ dưới dạng

hàng hoá, còn gọi là hoá tệ, có nhiều bất lợi. Khó chia nhỏ trong trao đổi, khó bảo quản

và vận chuyển. Vì thế, các loại hàng hoá thông thường được dùng làm tiền tệ dần bị đào

thải nhường chỗ cho thời kỳ sử dụng tiền kim loại.

Giáo trình Lý thuyết tài chính tiền tệ - Chương 1: Tiền tệ trong nền kinh tế thị trường trang 1

Trang 1

Giáo trình Lý thuyết tài chính tiền tệ - Chương 1: Tiền tệ trong nền kinh tế thị trường trang 2

Trang 2

Giáo trình Lý thuyết tài chính tiền tệ - Chương 1: Tiền tệ trong nền kinh tế thị trường trang 3

Trang 3

Giáo trình Lý thuyết tài chính tiền tệ - Chương 1: Tiền tệ trong nền kinh tế thị trường trang 4

Trang 4

Giáo trình Lý thuyết tài chính tiền tệ - Chương 1: Tiền tệ trong nền kinh tế thị trường trang 5

Trang 5

Giáo trình Lý thuyết tài chính tiền tệ - Chương 1: Tiền tệ trong nền kinh tế thị trường trang 6

Trang 6

Giáo trình Lý thuyết tài chính tiền tệ - Chương 1: Tiền tệ trong nền kinh tế thị trường trang 7

Trang 7

Giáo trình Lý thuyết tài chính tiền tệ - Chương 1: Tiền tệ trong nền kinh tế thị trường trang 8

Trang 8

Giáo trình Lý thuyết tài chính tiền tệ - Chương 1: Tiền tệ trong nền kinh tế thị trường trang 9

Trang 9

Giáo trình Lý thuyết tài chính tiền tệ - Chương 1: Tiền tệ trong nền kinh tế thị trường trang 10

Trang 10

Tải về để xem bản đầy đủ

pdf 64 trang minhkhanh 4960
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Giáo trình Lý thuyết tài chính tiền tệ - Chương 1: Tiền tệ trong nền kinh tế thị trường", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Giáo trình Lý thuyết tài chính tiền tệ - Chương 1: Tiền tệ trong nền kinh tế thị trường

Giáo trình Lý thuyết tài chính tiền tệ - Chương 1: Tiền tệ trong nền kinh tế thị trường
Giáo trình Lý thuyết tài chính tiền tệ - Lưu hành nội bộ - Khoa Kinh tế - Trường Cao Đẳng Nghề Đà Lạt 
 Trang 9 
CHƯƠNG 1: TIỀN TỆ TRONG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG 
1.1.Nguồn gốc ra đời, bản chất, chức năng và vai trò của tiền tệ. 
1.1.1. Nguồn gốc ra đời và quá trình phát triển của tiền tệ. 
Trong thời kỳ đầu của chế độ công xã nguyên thuỷ, với công cụ lao động thô sơ, 
con người tự cung cấp cho nhau số sản phẩm ít ỏi kiếm được từ săn bắn, hái lượm. Khi 
đời sống cộng đồng ngày càng phát triển, ý thức phân công lao động được hình thành và 
lượng sản phẩm dư thừa đã làm nảy sinh quan hệ trao đổi giữa các thị tộc. 
Cùng với sự chuyên môn hoá lao động phát triển và quá trình phân công lao động 
xã hội ngày một sâu hơn, nhu cầu trao đổi hàng hoá ngày càng nhiều và mở rộng, việc 
trao đổi trực tiếp gây khó khăn cho việc lưu thông hàng hoá đòi hỏi phải có một “vật 
ngang giá chung” làm trung gian trao đổi. Ban đầu, vật trung gian được lựa chọn từ 
những hàng hoá mang nét đặc trưng phổ biến của vùng, lãnh thổ Khi kinh tế phát triển, 
nhu cầu trao đổi ngày càng mở rộng không chỉ diễn ra trong phạm vi vùng, lãnh thổ mà 
còn vượt ra khỏi vùng, lãnh thổ đó thì quá trình trao đổi gặp khó khăn khi mỗi địa 
phương có một vật trung gian khác nhau. Để khắc phục tình trạng này, cần có một vật 
ngang giá chung duy nhất làm trung gian cho quá trình trao đổi - đó chính là tiền tệ. 
Trong thời kỳ đầu khoảng 2.000 năm trước công nguyên, vật trung gian trao đổi 
thường được chọn từ một hàng hoá có giá trị sử dụng cần thiết chung cho nhiều người, 
có tính chất phổ biến, đặc trưng cho địa phương, khu vực nơi diễn ra quan hệ trao đổi. 
(Hy Lạp dùng gia súc; Tây Tạng, Mông Cổ dùng chè; ở Bắc Mỹ dùng thuốc lá, ở Trung 
Quốc có vùng dùng vải, có vùng dùng vỏ trai hoặc da) Việc sử dụng tiền tệ dưới dạng 
hàng hoá, còn gọi là hoá tệ, có nhiều bất lợi. Khó chia nhỏ trong trao đổi, khó bảo quản 
và vận chuyển. Vì thế, các loại hàng hoá thông thường được dùng làm tiền tệ dần bị đào 
thải nhường chỗ cho thời kỳ sử dụng tiền kim loại. 
Từ thế kỷ thứ 7 trước công nguyên, tiền kim loại đã bắt đầu được sử dụng và phát 
triển rộng rãi trong suốt thời kỳ phong kiến. Tuy nhiên, trong các kim loại được chọn làm 
vật ngang giá chung là sắt, kẽm, thiếc, đồng, bạc và vàng cũng trải qua quá trình tự đào 
thải dần dần để cuối cùng còn lại ở kim loại quý là vàng. Cuối thế kỷ XIX, vàng độc 
quyền đóng vai trò là vật ngang giá chung, còn gọi là kim loại tiền tệ. Việc sử dụng tiền 
kim loại tuy có những ưu điểm hơn so với hoá tệ không kim loại nhưng cũng có những 
hạn chế như cồng kềnh, khó chuyên chở. Mặt khác, khi quy mô sản xuất và trao đổi hàng 
hoá ngày càng phát triển đòi hỏi sự gia tăng của phương tiện trao đổi trong khi nguồn 
Giáo trình Lý thuyết tài chính tiền tệ - Lưu hành nội bộ - Khoa Kinh tế - Trường Cao Đẳng Nghề Đà Lạt 
 Trang 10 
vàng dự trữ không đủ đáp ứng. Do đó, thay vì dùng vàng trực tiếp làm phương tiện trao 
đổi, các nước đã có xu hướng chuyển sang sử dụng tiền dấu hiệu ngày càng phổ biến. 
Từ thế kỷ thứ XIV, các ngân hàng cho ra đời các chứng chỉ tiền gửi do ngân hàng 
phát hành để huy động tiền gửi của xã hội, được sử dụng làm phương tiện thanh toán ở 
các nước Châu Âu. Đến thế kỷ XVI-XVII, nó được thay thế bằng giấy bạc của ngân hàng 
phát hành, loại giấy bạc này được đảm bảo bằng vàng và được lưu hành song song với 
tiền đúc bằng vàng của nhà nước. Đến đầu thế kỷ XX, giấy bạc ngân hàng thay thế hoàn 
toàn cho các kim loại quý như bạc và vàng. Ngày nay, tiền giấy được sử dụng làm 
phương tiện trao đổi ngày càng phổ biến vì những tiện lợi như dễ mang theo trong người, 
dễ cất trữ. Tuy nhiên việc lưu thông tiền giấy dễ rơi vào tình trạng bất ổn vì việc điều 
chỉnh cho nó phù hợp với nhu cầu trao đổi hàng hoá là cả một nghệ thuật phức tạp. Cùng 
với việc phát triển mạnh mẽ của ngân hàng, quá trình thanh toán của nền kinh tế được tập 
trung phần lớn qua hệ thống ngân hàng thông qua các bút toán chuyển khoản hoặc thanh 
toán bù trừ trên tài khoản ký thác. Sự ra đời của tiền ghi sổ, còn gọi là bút tệ, cùng với 
các chứng từ thanh toán như séc, giấy nhờ thuđã làm đa dạng các phương tiện thanh 
toán bên cạnh các hình thức thanh toán bằng tiền mặt, đồng thời còn tạo điều kiện giảm 
bớt những chi phí lưu hành tiền giấy như in ấn, bảo quản, kiểm đếm, vận chuyển. Vì vậy, 
việc sử dụng tiền qua ngân hàng được coi là xu hướng phát triển tất yếu của nền kinh tế 
phát triển. Hơn nữa, trong thời đại mà những tiến bộ khoa học kỹ thuật ngày càng đi sâu 
vào đời sống kinh tế xã hội thì việc sử dụng những loại thẻ thanh toán trở nên được ưa 
chuộng vì người ta có thể thanh toán ngay, giảm thiểu thời gian luân chuyển chứng từ 
qua ngân hàng hoặc ghi chép chứng từ thanh toán. 
Tóm lại, lịch sử ra đời và phát triển của tiền tệ luôn gắn liền với sự phát triển và 
lưu thông hàng hoá. Điều này đã được chứng minh qua quá trình hoàn thiện các hình thức 
tiền tệ, từ hình thức sơ khai ban đầu là hoá tệ không kim loại cho đến tiền điện tử ngày 
nay. Tuy nhiên cần xác định rằng, các thời kỳ phát triển này không phủ định lẫn nhau, 
nghĩa là các loại tiền tệ vẫn tồn tại đan xen nhau trong quá trình lưu thông. 
1.1.2. Bản chất của tiền tệ. 
Các nhà kinh tế học thế kỷ XVI mà đại diện là Thomas-Men (1576-1641) đã 
khẳng định: vàng, bạc là tiền tệ, là của cải xã hội chính thống. Trường phái này cho rằng 
chỉ có kim loại quý mới thực hiện các chức năng của tiền tệ. Đến đầu thế kỷ XX, khi các 
loại tiền dấu hiệu như tiền giấy, tiền tín dụng ra đời nhưng vẫn thực hiện chức năng trao 
đổi và lưu thông hàng hoá thì các nhà kinh tế lại đề cao tiền dấu hiệu. Họ cho rằng: tiền tệ 
chỉ là công cụ kỹ thuật để phục vụ cho việc trao đổi hàng hoá thuận tiện, chỉ là đơn vị 
Giáo trình Lý thuyết tài chính tiền tệ - Lưu hành nội bộ - Khoa Kinh tế - Trường Cao Đẳng Nghề Đà Lạt 
 Trang 11 
tính toán trừu tượng, nên bản thân tiền tệ không cần có giá trị nội tại mà Nhà nước hoàn 
toàn có thể phát hành ...  nước cho các cơ quan 
nhà nước và các tổ chức này có nhiệm vụ sử dụng vốn đúng quy định của nhà nước. 
4.2.2.3. Quan hệ giữa nhà nước với các cơ quan nhà nước và các tầng lớp dân cư. 
- Bắt buộc đóng góp vào NSNN 
- Tự nguyện đóng góp vào NSNN. 
- Tín dụng. 
- Cấp kinh phí hỗ trợ. 
Giáo trình Lý thuyết tài chính tiền tệ - Lưu hành nội bộ - Khoa Kinh tế - Trường Cao Đẳng Nghề Đà Lạt 
 Trang 65 
- Xây dựng cơ sở kỹ thuật hạ tầng. 
4.2.2.4. Quan hệ giữa các tổ chức kinh tế. 
- Hợp tác làm ăn. 
- Thanh toán trả nợ. 
4.2.2.5. Quan hệ giữa các tổ chức kinh tế và các thành viên hay cá nhân thuộc tổ 
chức đó. 
- Phân chia lợi ích kinh tế: trả lương, trả lãi trên vốn góp. 
- Bảo đảm quá trình sản xuất. 
** Tổng kết: Tài chính phản ánh hoạt động chuyển giao tiền tệ để thoả mãn các nhu cầu 
của các chủ thể kinh tế, gắn liền với việc phân phối tổng sản phẩm quốc dân và các 
nguồn tiền tệ khác trong quá trình hình thành và sử dụng các quỹ tiền tệ để thực hiện mục 
tiêu kinh tế xã hội đã định. 
4.3. Chức năng của tài chính. 
4.3.1. Chức năng phân phối. 
Có 2 quan hệ cơ bản là khâu trung gian giữa sản xuất với sản xuất, giữa sản xuất 
với tiêu dùng. 
Trong thực tế, chức năng phân phối của tài chính diễn ra như sau: 
- Về nội dung: Phân phối của tài chính là phân phối tổng sản phẩm của xã hội, được sáng 
tạo ra trong nền kinh tế quốc dân trong một thời gian nhất định. 
- Về hình thức: Phân phối của tài chính được diễn ra dưới hình thức giá trị và thông qua 
hoạt động của các quỹ tiền tệ. 
- Về phạm vi: Phân phối của tài chính là phân phối kết quả của hoạt động SXKD nhằm 
phục vụ cho nhu cầu sản xuất và nhu cầu tiêu dùng của xã hội. 
- Về mục đích: Phân phối của tài chính nhằm đảm bảo cho quá trình sản xuất diễn ra một 
cách bình thường đó là giải quyết một cách thoả đáng mối quan hệ giữa tích luỹ và tiêu 
dùng nhằm xác lập một cơ cấu kinh tế xã hội hợp lý. 
Quá trình phân phối tổng sản phẩm xã hội hình thành nên 2 quỹ: Quỹ tích luỹ và 
quỹ tiêu dùng của xã hội. 
Theo sơ đồ của Mark, có thể chia thành 2 loại: phân phối lần đầu và phân phối lại. 
- Phân phối lần đầu: là sự phân phối giữa các thành viên có trực tiếp tham gia vào quá 
trình sản xuất của cải vật chất. Nếu phân phối dừng ở đây thì không đảm bảo thoả mãn 
Giáo trình Lý thuyết tài chính tiền tệ - Lưu hành nội bộ - Khoa Kinh tế - Trường Cao Đẳng Nghề Đà Lạt 
 Trang 66 
các nhu cầu khác của xã hội như: giáo dục, y tế... Vì vậy cần phải có một quá trình phân 
phối lại. 
- Phân phối lại: là sự tiếp tục phân phối thu nhập cơ bản đã được phân phối lần đầu nhằm 
điều tiết thu nhập của phân phối lần đầu. Từ chức năng phân phối, nhà nước đã biến đổi 
và sử dụng tài chính bằng các công cụ để định hướng kích thích và điều tiết nền kinh tế. 
4.3.2. Chức năng giám đốc. 
- Nội dung: Giám đốc của tài chính là giám sát các hoạt động kinh tế xã hội thông qua sự 
vận động của vốn tiền tệ nhằm phục vụ cho các hoạt động một cách hiệu quả nhất. 
+ Giám đốc trước: Là giám sát từ khâu lập kế hoạch và dự toán hay các dự án và các 
chương trình tài chính để kiểm tra tính đứng đắn và hợp lý. 
+ Giám đốc trong: Là giám đốc trong khi dự toán tài chính. 
+ Giám đốc sau: Là sau khi thực hiện kế hoạch tài chính kết thúc chu kỳ hoạt động của 
quỹ tiền tệ. 
- Mục đích: Nhằm đảm bảo tính hiệu quả, tiết kiệm trong sản xuất, công bằng trong xã 
hội và nghiêm chỉnh trong thực hiện luật pháp. 
* Kết luận: Việc giám đốc tài chính có ý nghĩa rất quan trọng trong việc giải quyết tốt 
các mối quan hệ giữa tích luỹ và tiêu dùng, giữa sản xuất và tiêu dùng tạo điều kiện cho 
việc sử dụng tốt nhất khả năng về tài nguyên, lao động, phát hiện sai sót, điều chỉnh kịp 
thời cho việc sử dụng tốt nhất các khả năng về tài nguyên và lao động, bảo đảm sự lành 
mạnh về các quan hệ kinh tế. 
** Mối quan hệ giữa hai chức năng. 
- Chức năng phân phối vừa làm tiền đề, vừa làm cơ sở và căn cứ cho chức năng giám 
đốc. 
- Chức năng giám đốc lại làm cho các quan hệ phân phối đứng đắn và hợp lý hơn. 
Tuy vậy hai chức năng này không phải lúc nào cũng đi song song tuỳ theo từng 
điều kiện cụ thể mà sử dụng, vận dụng từng chức năng trước sau một cách hài hoà mới 
đem lại hiệu quả. 
4.4. Hệ thống tài chính của Việt Nam. 
4.4.1. Căn cứ để xác định các khâu tài chính. 
Khâu tài chính là nơi hội tụ các nguồn tài chính, nơi diễn ra việc tạo lập và sử dụng 
quỹ tiền tệ gắn liền với việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của chủ thể trong lĩnh vực 
hoạt động. 
Giáo trình Lý thuyết tài chính tiền tệ - Lưu hành nội bộ - Khoa Kinh tế - Trường Cao Đẳng Nghề Đà Lạt 
 Trang 67 
Hệ thống tài chính là hệ thống biểu thị quan hệ tài chính trong các lĩnh vực khác 
nhau và giữa các lĩnh vực đó có mối quan hệ hữu cơ trong quá trình tạo lập, phân phối và 
sử dụng các nguồn lực tài chính. 
Những căn cứ cơ bản để xác định khâu tài chính là: 
- Được coi là khâu tài chính nếu ở nơi nào đó có tụ điểm của các nguồn tài chính, thực 
hiện hoạt động “bơm” và “hút” các nguồn tài chính đó. Tại mỗi tụ điểm này, cũng có thể 
có một hoặc một số quỹ tiền tệ để thực hiện các mục tiêu đã định trước của chủ sở hữu. 
- Các quỹ tiền tệ bao giờ cũng gắn với một chủ thể nhất định. 
- Được coi là một khâu của hệ thống tài chính nếu những hoạt động tài chính nào đó có 
cùng tính chất, đặc điểm, vai trò cùng hình thức thể hiện. 
Thị trường tài chính của Việt Nam gồm 5 khâu: 
+ Ngân sách nhà nước. 
+ Tài chính doanh nghiệp. 
+ Bảo hiểm. 
+ Tín dụng. 
+ Tổ chức tài chính xã hội và tài chính hộ gia đình. 
Các khâu này vừa có mối quan hệ trực tiếp và vừa có mối quan hệ gián tiếp thông 
qua thị trường tài chính. Tổng thể của 5 khâu này sẽ tạo thành hệ thống tài chính. 
4.4.2. Khái quát các khâu tài chính. 
4.4.2.1. Ngân sách nhà nước. 
NSNN là 1 quỹ tiền tệ tập trung của nhà nước bao gồm các khoản thu chi lớn nhất 
của nhà nước. Nó có thể kích thích định hướng sự hoạt động các khâu tài chính khác. Mặt 
khác, cũng có thể kiểm tra hoạt động của các bộ phận tài chính khác. 
NSNN có nhiệm vụ sau: 
- Động viên, tập trung các nguồn tài chính cho việc tạo lập quỹ tiền tệ của nhà nước, quỹ 
ngân sách qua chính sách thuế, phí hay lệ phí. 
- Phân phối và sử dụng quỹ ngân sách cho việc thực hiện các nhiệm vụ kinh tế - xã hội. 
- Giám đốc, kiểm tra đối với các khâu tài chính khác và với mọi hoạt động kinh tế - xã 
hội gắn liền với thu chi ngân sách. 
Giáo trình Lý thuyết tài chính tiền tệ - Lưu hành nội bộ - Khoa Kinh tế - Trường Cao Đẳng Nghề Đà Lạt 
 Trang 68 
4.4.2.2. Tài chính doanh nghiệp. 
Tài chính doanh nghiệp là khâu cơ sở của hệ thống tài chính quốc gia, là nơi tạo ra 
của cải xã hội, gắn liền với sự mở rộng hay thu hẹp nguồn lực tài chính. 
Nhiệm vụ của Tài chính doanh nghiệp: 
- Bảo đảm vốn và phân phối vốn hợp lý cho các nhu cầu của sản xuất kinh doanh. 
- Tổ chức vốn chu chuyển một cách liên tục và có hiệu quả. 
- Phân phối thu nhập và lợi nhuận của doanh nghiệp theo đúng các quy định của nhà 
nước. 
- Kiểm tra mọi quá trình vận động của các nguồn tài chính trong doanh nghiệp. Đồng 
thời kiểm tra mọi hoạt động sản xuất kinh doanh gắn liền với các quá trình đó. 
4.4.2.3. Hệ thống tín dụng. 
Tín dụng là một khâu của hệ thống tài chính thống nhất. Tín dụng được xem như 
là một khâu tài chính độc lập vì hoạt động của tín dụng có tính chất chuyên nghiệp. Tính 
chất đặc biệt của sự vận động của các nguồn tài chính trong quan hệ tín dụng là có thời 
hạn. Tín dụng chính là tụ điểm của các nguồn tài chính tạm thời nhàn rỗi. 
Quỹ tín dụng được tạo lập bằng việc thu hút các nguồn tài chính tạm thời nhàn rỗi 
theo nguyên tắc hoàn trả có thời hạn và có lợi tức. Sau đó, quỹ này sử dụng để cho vay 
theo nhu cầu SXKD hoặc đời sống cũng theo nguyên tắc hoàn trả có thời hạn và lợi tức. 
Hiện nay, nước ta tổ chức tín dụng bao gồm: Các NHTM, các tổ chức tín dụng phi 
ngân hàng (công ty cho thuê tài chính), các tổ chức tín dụng hợp tác (quỹ tín dụng nhân 
dân). 
4.4.2.4. Hệ thống bảo hiểm. 
Là dịch vụ tài chính, bảo hiểm có nhiều hình thức và nhiều quỹ tiền tệ khác nhau, 
nhưng tính chất chung và đặc biệt của quỹ bảo hiểm là được tạo lập và sử dụng để bồi 
thường những tổn thất cho những chủ thể tham gia bảo hiểm tuỳ theo mục đích của quỹ. 
Có hai nhóm bảo hiểm là: 
- Bảo hiểm xã hội: là một chế độ pháp định bảo vệ người lao động. Loại bảo hiểm này 
được hình thành và sử dụng không vì mục đích kinh doanh mà mang tính chất của hội 
tương hỗ. 
- Bảo hiểm thương mại: là những hoạt động dịch vụ bảo hiểm chuyên nghiệp: Do khả 
năng nhàn rỗi tạm thời của các nguồn tài chính trong các quỹ bảo hiểm, các quỹ này có 
Giáo trình Lý thuyết tài chính tiền tệ - Lưu hành nội bộ - Khoa Kinh tế - Trường Cao Đẳng Nghề Đà Lạt 
 Trang 69 
thể được sử dụng để cho vay hoặc đầu tư ngắn hạn nên chúng có quan hệ với các khâu 
khác trong thị trường tài chính. 
2.4.2.5. Tài chính các tổ chức xã hội và dân cư. 
Là khâu quan trọng của hệ thống tài chính. Đặc điểm của tài chính dân cư (hộ gia 
đình) và các tổ chức xã hội là sự tồn tại của quỹ tiền tệ cho tiêu dùng trong phạm vi dân 
cư hoặc các tổ chức xã hội. 
- Quỹ tiền tệ của các tổ chức xã hội: Các tổ chức xã hội là khái niệm chung để chỉ các tổ 
chức chính trị xã hội, các Đoàn thể xã hội, các hội nghề nghiệp. Các quỹ tiền tệ của các 
tổ chức xã hội được hình thành từ sự đóng góp hội phí, quyên góp ủng hộ ... và được sử 
dụng cho mục đích tiêu dùng trong hoạt động của tổ chức đó. Khi các quỹ chưa được sử 
dụng, số dư ổn định của quỹ có thể tham gia vào thị trường tài chính thông qua các quỹ 
tín dụng hoặc các hình thức khác. 
- Quỹ tiền tệ của các hộ gia đình: Được hình thành từ thu nhập của các thành viên trong 
gia đình, từ các nguồn thừa kế tài sản, từ biếu tặng ... chủ yếu để sử dụng cho mục đích 
tiêu dùng, đồng thời có thể dùng vào đầu tư sản xuất kinh doanh trong phạm vi kinh tế hộ 
gia đình, thực hiện nghĩa vụ với NSNN, đầu tư vào thị trường tài chính và bảo hiểm. 
** Tóm lại: Các khâu các bộ phận của hệ thống tài chính có mối quan hệ hữu cơ với 
nhau, có sự ảnh hưởng lẫn nhau và hợp thành một thể thống nhất nhằm phục vụ cho việc 
phát triển nền kinh tế và nâng cao đời sống nhân dân. 
Giáo trình Lý thuyết tài chính tiền tệ - Lưu hành nội bộ - Khoa Kinh tế - Trường Cao Đẳng Nghề Đà Lạt 
 Trang 70 
CÂU HỎI ÔN TẬP CHƯƠNG 4 
Câu 1: Cho biết tiền đề ra đời, tồn tại và phát triển của tài chính? 
Câu 2: Phân tích chức năng và bản chất của tài chính? 
Câu 3: Mô tả hệ thống tài chính của Việt Nam? 
Câu 4: Phân tích được mối quan hệ giữa các khâu trong hệ thống tài chính? 
Giáo trình Lý thuyết tài chính tiền tệ - Lưu hành nội bộ - Khoa Kinh tế - Trường Cao Đẳng Nghề Đà Lạt 
 Trang 71 
KẾT LUẬN 
Nước ta vẫn đang trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá nhằm đưa Việt Nam 
trở thành nước công nghiệp văn minh, hiện đại. Gắn liền với công cuộc đổi mới và mở 
cửa ở nước ta, có nhiều yêu cầu phải giải quyết cùng một lúc: Vừa ổn định, vừa phát triển 
kinh tế trong nước, vừa mở rộng giao lưu quan hệ quốc tế, thu hút vốn đầu tư nước 
ngoài... Ngày nay không ai có thể phủ nhận việc điều chỉnh chính sách tài chính tiền tệ 
cho phù hợp với nhu cầu của nền kinh tế là một trong những vấn đề thiết yếu mà tổ chức 
của các hệ thống tiền tệ phải tuân thủ và chính sách tài chính tiền tệ phải theo đuổi. Đây 
chính là những nội dung mà các sinh viên khối ngành kinh tế cần tìm hiểu ngay từ trong 
quá trình đại cương. 
Trên cơ sở chương trình khung mới của Tổng cục dạy nghề và những kinh nghiệm 
được rút ra từ thực tế giảng dạy, tôi đã thực hiện biên soạn giáo trình Lý thuyết tài chính 
tiền tệ một cách hệ thống nhất có thể để cập nhật những kiến thức thực tiễn phù hợp với 
trình độ và đối tượng giảng dạy là sinh viên Hệ Cao Đẳng Nghề. 
Trong quá trình biên soạn, tôi xin chân thành cám ơn Hội đồng phản biện, Hội 
đồng thẩm định và các Hội đồng nghiệm thu các chương trình, giáo trình cũng như các 
giáo viên Khoa Kinh tế trường Cao Đẳng Nghề Đà Lạt đã hướng dẫn, góp ý và hỗ trợ tôi 
hoàn thiện. 
Đây là lần đầu tiên tôi thực hiện công tác biên soạn giáo trình sử dụng lưu hành 
nội bộ cho sinh viên trong trường Cao Đẳng Nghề Đà Lạt học tập và nghiên cứu nên mặc 
dù đã hết sức cố gắng vẫn không tránh khỏi những thiếu sót, bất cập. Tôi mong nhận 
được ý kiến đóng góp để từng bước hoàn thiện các bộ giáo trình trong thời gian tiếp theo. 
Giáo trình Lý thuyết tài chính tiền tệ - Lưu hành nội bộ - Khoa Kinh tế - Trường Cao Đẳng Nghề Đà Lạt 
 Trang 72 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Giáo trình Lý thuyết tài chính tiền tệ - NXB Đại học Kinh tế Quốc dân Hà Nội 
2012. 
2. Giáo trình Lý thuyết tiền tệ - Nhà xuất bản thống kê – Trường Đại học Kinh tế 
TP.HCM 2009. 
3. Giáo trình Nghiệp vụ Ngân hàng thương mại – Nhà xuất bản thống kê 2008. 
4. Giáo trình lý thuyết tài chính tiền tệ - NXB Tài chính 2006. 
5. Giáo trình lý thuyết tài chính - NXB Tài chính – 2009. 
6. Giáo trình "Lý thuyết tiền tệ" - Nhà xuất bản Tài chính 2009. 
7. Giáo trình lý thuyết tiền tệ tín dụng của Bộ tài chính - NXB TC 2004. 
8. Giáo trình thị trường chứng khoán - NXB Tài chính 2009. 
9. Giáo trình “Lý thuyết tiền tệ Ngân hàng” - Nhà xuất bản Thống kê 2005. 
10. Giáo trình "Nghiệp vụ Ngân hàng Thương mại" - Nhà xuất bản Tài chính 2005. 
11. Giáo trình Tiền tệ - Ngân hàng và Thị trường tài chính - NXB khoa học và kỹ 
thuật. 
12. Quản trị Ngân hàng Thương mại - Nhà xuất bản Thống kê 2007. 
Văn bản hiện hành 
1. Luật Ngân hàng Nhà nước số 6/1997/QHX ngày 25/12/1997 và Luật sửa đổi bổ 
sung Luật Ngân hàng Nhà nước số 10/2003/QH11 ngày 17/6/2003. 
2. Luật các Tổ chức tín dụng số 7/1997/QHX ngày 25/12/1997 và Luật các Tổ chức 
tín dụng sửa đổi năm 2003. 
3. Quyết định 26/2006/QĐ/NHNN ngày 26/6/2006 của NHNN về việc ban hành quy 
chế bảo lãnh ngân hàng. 
4. Thông tư số 01/2002/TT/BTP ngày 9/1/2002 của Bộ Tư pháp Hướng dẫn trình tự 
thủ tục đăng ký giao dịch đảm bảo. 
5. Văn bản số 405/NHNN ngày 16/4/2002 của NHNN hướng dẫn thực hiện quy định 
về chuyển nợ quá hạn. 

File đính kèm:

  • pdfgiao_trinh_ly_thuyet_tai_chinh_tien_te_chuong_1_tien_te_tron.pdf