Cách mạng công nghiiệp lần thứ tư: Cơ hội và thách thức đối với nguồn nhân lực của các ngân hàng thương mại Việt Nam

Cuộc các mạng công nghiệp lần thứ tư (CMCN 4.0) đặt ra những cơ hội và thách thức to

lớn đối với nguồn nhân lực của các ngân hàng thương mại (NHTM) Việt Nam. Một mặt, nó tạo

cơ hội thúc đẩy các ngân hàng xây dựng hệ thống quản trị hiệu quả theo mục tiêu mà họ đặt ra,

phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao cả về số lượng và chất lượng, kỹ năng và thái độ

đáp ứng nhu cầu công nghệ kỹ thuật của thời đại. Mặt khác, nó tạo ra những thách thức về

nguồn nhân lực của ngành ngân hàng như sắp xếp nhân lực tinh gọn và hiệu quả, gắn kết với

nhân lực chất lượng cao, chuyển đổi mô hình hoạt động trên nền tảng ứng dụng CMCN 4.0

Cách mạng công nghiiệp lần thứ tư: Cơ hội và thách thức đối với nguồn nhân lực của các ngân hàng thương mại Việt Nam trang 1

Trang 1

Cách mạng công nghiiệp lần thứ tư: Cơ hội và thách thức đối với nguồn nhân lực của các ngân hàng thương mại Việt Nam trang 2

Trang 2

Cách mạng công nghiiệp lần thứ tư: Cơ hội và thách thức đối với nguồn nhân lực của các ngân hàng thương mại Việt Nam trang 3

Trang 3

Cách mạng công nghiiệp lần thứ tư: Cơ hội và thách thức đối với nguồn nhân lực của các ngân hàng thương mại Việt Nam trang 4

Trang 4

Cách mạng công nghiiệp lần thứ tư: Cơ hội và thách thức đối với nguồn nhân lực của các ngân hàng thương mại Việt Nam trang 5

Trang 5

Cách mạng công nghiiệp lần thứ tư: Cơ hội và thách thức đối với nguồn nhân lực của các ngân hàng thương mại Việt Nam trang 6

Trang 6

Cách mạng công nghiiệp lần thứ tư: Cơ hội và thách thức đối với nguồn nhân lực của các ngân hàng thương mại Việt Nam trang 7

Trang 7

pdf 7 trang minhkhanh 6180
Bạn đang xem tài liệu "Cách mạng công nghiiệp lần thứ tư: Cơ hội và thách thức đối với nguồn nhân lực của các ngân hàng thương mại Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Cách mạng công nghiiệp lần thứ tư: Cơ hội và thách thức đối với nguồn nhân lực của các ngân hàng thương mại Việt Nam

Cách mạng công nghiiệp lần thứ tư: Cơ hội và thách thức đối với nguồn nhân lực của các ngân hàng thương mại Việt Nam
600 
INTERNATIONAL CONFERENCE: DEVELOPMENT OF SMALL AND MEDIUM ENTERPRISES 
IN VIETNAM IN THE CONTEXT OF INDUSTRIAL REVOLUTION 4.0 
CÁCH MẠNG CÔNG NGHIIỆP LẦN THỨ TƢ: CƠ HỘI VÀ THÁCH 
THỨC ĐỐI VỚI NGUỒN NHÂN LỰC CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƢƠNG 
MẠI VIỆT NAM 
Trần Thị Thảo, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Tp. HCM 
Đào Trọng Hiếu, Công an Hà Nội 
Tóm tắt: 
Cuộc các mạng công nghiệp lần thứ tư (CMCN 4.0) đặt ra những cơ hội và thách thức to 
lớn đối với nguồn nhân lực của các ngân hàng thương mại (NHTM) Việt Nam. Một mặt, nó tạo 
cơ hội thúc đẩy các ngân hàng xây dựng hệ thống quản trị hiệu quả theo mục tiêu mà họ đặt ra, 
phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao cả về số lượng và chất lượng, kỹ năng và thái độ 
đáp ứng nhu cầu công nghệ kỹ thuật của thời đại. Mặt khác, nó tạo ra những thách thức về 
nguồn nhân lực của ngành ngân hàng như sắp xếp nhân lực tinh gọn và hiệu quả, gắn kết với 
nhân lực chất lượng cao, chuyển đổi mô hình hoạt động trên nền tảng ứng dụng CMCN 4.0. 
Từ khóa: CMCN 4.0, cơ hội và thách thức, nguồn nhân lực ngành ngân hàng, Việt Nam 
THE FOURTH INDUSTRIAL REVOLUTION: OPPORTUNITIES AND 
CHALLENGES FOR HUMAN RESOURCES OF VIETNAMESE COMMERCIAL 
BANKS 
Abstract: 
The Fourth Industrial Revolution has posed opportunities and challenges for human 
resources of Vietnamese commercial banks. On the one hand, it provides opportunities for banks 
to build effective governance systems according to their goals, developing high quality human 
resources both in quantity and quality, in skills and attitudes, etc., to meet the of technical 
technology requirements of the era. However, It also put challenges for human resource of the 
banking industry such as efficient arrangement, connecting with high-quality human resources, 
changing operating models based on the Fourth Industrial Revolution to banks. 
Keywords: the Fourth Industrial Revolution; opportunities and challenges; human 
resources of commercial banks, Vietnam 
Cho tới nay, thế giới đã trải qua bốn cuộc cách mạng công nghiệp. Theo Klaus Schwab, 
chủ tịch Diễn đàn Kinh tế Thế giới, CMCN 4.0 hiểu một cách ngắn gọn là một thuật ngữ bao 
gồm một loạt các công nghệ tự động hóa hiện đại, xu hướng trao đổi dữ liệu, công nghiệp chế 
tạo và sản xuất thông minhi. Cuộc CMCN 4.0 đang làm thay đổi mạnh mẽ các ngành và lĩnh vực, 
601 
HỘI THẢO QUỐC TẾ: PHÁT TRIỂN 
DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA CỦA VIỆT NAM TRONG BỐI CẢNH CUỘC CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP 4.0 
trong đó có ngành tài chính - ngân hàng với hàng loạt các công nghệ mới đột phá như trí tuệ 
nhân tạo, tự động hoá, Internet kết nối vạn vật, điện toán đám mây 
Từ thực tế cuộc CMCN 4.0 đang diễn ra với tốc độ nhanh chóng, nó cũng đặt ra cho hệ 
thống tài chính ngân hàng, trong đó gồm cả hoạt động phát triển nguồn nhân lực ngành Ngân 
hàng nhiều cơ hội và không ít thách thức. 
1. Cách mạng công nghiệp lần thứ tƣ đối với ngành ngân hàng 
Đối với ngành ngân hàng thế giới nói chung, CMCN 4.0 đã tạo ra những xu hướng thay 
đổi quan trọng so với trước đây, đòi hỏi các ngân hàng buộc phải đổi mới nếu muốn tiếp tục tồn 
tại và phát triển. Những xu hướng chính trong lĩnh vực ngân hàng bao gồmii: 
- Xu hướng ngân hàng số (Digital banking): Song song với việc phát triển ngân hàng di 
động, không có chi nhánh vật lýiii, các ngân hàng truyền thống cũng đang đẩy mạnh việc số hóa 
các dịch vụ của mình như triển khai bảo mật sinh trắc học cho hoạt động thanh toán hay gửi tiết 
kiệm. Tiến bộ công nghệ đã giúp các ngân hàng tạo ra những sản phẩm dịch vụ tài chính mới 
như M-POS, internet banking, mobile banking, công nghệ thẻ chip, ví điện tử, tạo thuận lợi 
cho người dân trong việc sử dụng dịch vụ ngân hàng hiện đại, giúp giảm thời gian giao dịch và 
tiết kiệm chi phí giao dịch. 
- Xu hướng sử dụng dữ liệu lớn (Big data): Trong những năm gần đây, không chỉ áp dụng 
công nghệ vào việc cung cấp dịch vụ sản phẩm cho khách hàng, các ngân hàng cũng sử dụng 
nhiều hơn các công nghệ lưu trữ dữ liệu về khách hàng, phân tích hành vi khách hàng. Việc 
phân tích dữ liệu lớn đang được nhiều ngân hàng đưa vào chiến lược lõi trong chiến lược phát 
triển của mình, hỗ trợ việc đưa ra quyết định phù hợp và nhanh hơn, quản lý rủi ro tốt hơn và tối 
đa hóa hoạt động, giảm được chi phí và tạo lợi thế cạnh tranh. 
- Xu hướng sử dụng trí tuệ nhân tạo (Artificial Intelligent - AI): Theo Báo cáo Tầm nhìn 
Công nghệ Ngân hàng 2017 của Accentureiv, trong vòng 5 năm tới, trí tuệ nhân tạo sẽ trở thành 
cách thức chính mà các ngân hàng tương tác với khách hàng. Các ngân hàng hiện nay đã có thể 
ứng dụng AI trong việc quản lý danh mục rủi ro, quản lý khách hàng và quản lý cơ sở dữ liệu, 
giúp thay đổi bộ mặt của ngành ngân hàng. 
- Xu hướng sử dụng Internet kết nối vạn vật (Internet of Things - IoT): Các ngân hàng và 
công ty phát hành thẻ thanh toán đã nghiên cứu triển khai chức năng thanh toán thông qua một 
loạt các thiết bị thông minh, để bất kỳ một thiết bị nào có kết nối Internet cũng sẽ có thể kích 
hoạt các hoạt động thương mại điện tử. Cách thức giao dịch và thanh toán mới này sẽ giúp các 
ngân hàng tiếp cận được với nhu cầu thanh toán của khách hàng một cách nhanh chóng theo thời 
gian thực, hướng tới có thể thực hiện được lệnh thanh toán từ bất kỳ một thiết bị nào, từ bất kỳ 
một địa điểm nào một cách nhanh chóng, dù thanh toán có giá trị thấp hay cao, giúp giảm chi 
phí, tăng số lần giao dịch và tiện ích cho khách hàng. 
2. Cơ hội và thách thức đối với nguồn nhân lực các ngân hàng thƣơng mại Việt Nam 
Theo thống kê năm 2018, nhu cầu tuyển dụng của các tổ chức tài chính - ngân hàng tại 
Việt Nam tăng tới 24%, nhưng số lượng hồ sơ ứng tuyển, tức nguồn cung, chỉ tăng 12%. Còn 
theo Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO), có 26,6% tổ chức tín dụng tại Việt Nam nhận định đang 
thiếu lao động cần thiết cho nhu cầu công việc hiện tạiv. Có thể thấy, thị trường nhân lực ngành 
602 
INTERNATIONAL CONFERENCE: DEVELOPMENT OF SMALL AND MEDIUM ENTERPRISES 
IN VIETNAM  ... h được quy mô, 
số lượng các đối tượng cần quy hoạch phù hợp tại từng vị trí, đơn vị và của hệ thống nhằm đảm 
bảo hiệu quả, mục tiêu tổng thể của công tác quy hoạch. 
Các NHTM Việt Nam cũng nhận thức được sự cần thiết phải xây dựng giải pháp phù hợp, 
trong đó chú trọng hợp tác với các công ty công nghệ để các ngân hàng có thể tiếp nhận được 
các công nghệ mới cùng với đào tạo được nguồn nhân lực đáp ứng cả kiến thức về công nghệ và 
nghiệp vụ tài chính kinh doanh, giúp các ngân hàng giảm được thời gian cũng như chi phí nghiên 
603 
HỘI THẢO QUỐC TẾ: PHÁT TRIỂN 
DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA CỦA VIỆT NAM TRONG BỐI CẢNH CUỘC CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP 4.0 
cứu các sản phẩm công nghệ mới. Trong thời gian qua, NHNN cũng như các NHTM rất chú 
trọng phát triển cả về số lượng và chất lượng nguồn nhân lực công nghệ thông tin (CNTT) thông 
qua các chính sách tuyển dụng, sử dụng, đào tạo và đã đáp ứng được cơ bản nguồn lực CNTT 
cho hoạt động của ngành Ngân hàng. Các NHTM đã rất chú trọng đầu tư vào con người, xem 
đây là một trong những ưu tiên hàng đầu để đảm bảo có thể thu hút và giữ chân được những 
nhân sự giỏi nhất trên thị trường, giúp các ngân hàng Việt Nam tiếp tục phát triển và cạnh tranh 
với các ngân hàng tiên tiến trong khu vực và trên thế giới. 
Bên cạnh đó, cuộc CMCN 4.0 cũng góp phần tác động đến nhận thức và hành động của 
cán bộ, nhân viên của các NHTM Việt Nam, đặt ra yêu cầu đối với mỗi cá nhân phải nỗ lực tự 
học tập nâng cao trình độ khoa học công nghệ, tích cực ứng dụng những tiến bộ về kỹ thuật để 
nâng cao năng suất lao động và chất lượng công việc, thường xuyên cập nhật thông tin, đổi mới, 
sáng tạo và thích ứng với những yêu cầu mới. 
Việc học tập, nâng cao trình độ của cán bộ, nhân viên ngân hàng Việt Nam cũng thay đổi 
theo hướng tích cực. Công tác đào tạo và phát triển cán bộ được trú trọng đầu tư và tập trung hóa 
tại một số đơn vị đầu mối là những trường đào tạo cán bộ, đồng thời luôn có sự phối hợp chặt 
chẽ giữa các đơn vị có liên quan. Những trường đào tạo cán bộ được đầu tư quy mô, hiện đại, có 
đầy đủ cơ sở vật chất với đội ngũ đông đảo giảng viên, liên kết với các cơ sở đào tạo uy tín. Một 
số ngân hàng còn thường xuyên tổ chức các khóa đào tạo ở trong nước và nước ngoài, cũng như 
cung cấp các nền tảng học tập trực tuyến để giúp nhân viên cải thiện kiến thức và kỹ năng, bao 
gồm chương trình đào tạo đội ngũ quản lý tập trung vào xây dựng đội nhóm có hiệu suất cao và 
các khóa đào tạo để nâng cao kiến thức chuyên môn cho nhân viên, tạo điều kiện cho cán bộ học 
tập từ các chuyên gia cao cấp trong lĩnh vực tài chính ngân hàng của Việt Nam và thế giới. 
Nhân viên của nhiều NHTM cũng được khuyến khích và trao quyền để tạo ra sự khác biệt, 
không ngừng nỗ lực nâng cao hiệu quả công việc và tìm ra các cơ hội mới để thúc đẩy sự sáng 
tạo. Việc đánh giá hiệu quả làm việc được thực hiện thông qua xem xét chất lượng công việc, 
thay vì qua thời gian ngồi tại bàn làm việc. Công tác đánh hiệu quả công việc của cán bộ được 
triển khai thông qua những phương pháp mới, mang tính hệ thống và khoa học như: Hệ thống 
bảng điểm cân bằng (BSC), Hệ số hiệu quả cốt yếu (KPI) và kiểm tra năng lực theo Khung năng 
lực. Một số ngân hàng cho phép nhân viên làm việc linh hoạt hoặc làm việc từ xa khi cần thiết, 
với sự hỗ trợ của các nền tảng công nghệ tiên tiến. Điều này tạo cơ sở góp phần giúp các ngân 
hàng đánh giá chính xác, có những đãi ngộ và khen thưởng phù hợp và kịp thời, tạo động lực 
giúp cán bộ, nhân viên của ngân hàng nỗ lực học tập và làm việc, tích cực đóng góp vào sự phát 
triển chung của ngân hàng. 
2.2. Thách th c 
Do việc ứng dụng những thành tựu của cuộc CMCN 4.0, do sự cạnh tranh giữa các ngân 
hàng số và các công ty Fintech nên các ngân hàng Việt Nam trong tương lai hướng tới xu hướng 
giảm bớt số lượng nhân viên. Mặc dù vậy, nhu cầu về nguồn nhân lực chất lượng cao sẽ gia tăng. 
Tuy nhiên, nguồn nhân lực chất lượng cao còn ít so với nhu cầu ngày càng cao của ngành ngân 
hàng tại Việt Nam. Nguồn nhân lực chất lượng cao trong các lĩnh vực như đầu tư quốc tế, quản 
trị rủi ro, an ninh thông tin chiến lược phát triển còn rất yếu kém. Ở một số lĩnh vực chuyên 
604 
INTERNATIONAL CONFERENCE: DEVELOPMENT OF SMALL AND MEDIUM ENTERPRISES 
IN VIETNAM IN THE CONTEXT OF INDUSTRIAL REVOLUTION 4.0 
sâu hơn vẫn còn thiếu nhân lực, hầu hết tất cả các ngân hàng đều phải bỏ ra một chi phí rất lớn 
để thuê chuyên gia từ nước ngoài về. Hơn nữa, để giải quyết những hạn chế về trình độ, năng lực 
của cán bộ, nhân viên và sắp xếp công việc cho một số lượng công nhân viên là một bài toán 
không hề dễ đối với ngành ngân hàng trong bối cảnh cuộc CMCN 4.0. 
Tiêu chuẩn tuyển dụng ở một vài NHTM vẫn nặng về bằng cấp, trong khi các tiêu chí khác 
như kỹ năng giao tiếp, kỹ năng nghề nghiệp, khả năng sáng tạo, kỹ năng làm việc tập thể chưa 
được đề cập chi tiết cụ thể, dẫn tới khó khăn để xác định những kiến thức, kỹ năng cần phải có ở 
từng vị trí công việc. Phương thức tuyển dụng ở nhiều NHTM chưa đa dạng, linh hoạt, nên sẽ 
gặp nhiều khó khăn để thu hút những ứng viên có kinh nghiệm từ các ngân hàng, công ty lớn. 
Việc nghiên cứu, chủ động ứng dụng công nghệ của CMCN 4.0 của các NHTM Việt Nam 
nhìn chung còn khá rời rạc và chỉ diễn ra chủ yếu ở các NHTM lớn - là nhóm có thế mạnh sẵn có 
về khoa học - công nghệ trước đó nhận thức được tầm quan trọng của CMCN 4.0. Bên cạnh đó, 
vẫn còn nhiều NHTM đang trong giai đoạn nghiên cứu hoặc chưa có động thái gì, chủ yếu là các 
ngân hàng có quy mô nhỏ, hạn chế về năng lực tài chính và nền tảng khoa học - công nghệ, hoạt 
động vẫn theo mô hình truyền thống là chủ đạo. 
Việc tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin vào điều hành và quản lý, phân tích và 
phòng ngừa rủi ro... đang đặt ra yêu cầu về đào tạo nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ của các 
NHTM Việt Nam. Tuy nhiên, chính sách đào tạo ở nhiều NHTM chưa thể hiện được mối liên hệ 
giữa các hoạt động đào tạo và hoạt động phát triển nguồn nhân lực, việc các hoạt động đào tạo 
chưa được gắn kết với nhau thành một chuỗi các hoạt động có kế hoạch nhằm đào tạo và phát 
triển một cá nhân theo một lộ trình cụ thể. Ở một số NHTM, các chương trình đào tạo đội ngũ 
quy hoạch còn mang tính đại trà; chưa có lộ trình, thời hạn, mục tiêu rõ ràng. Chưa xây dựng 
được lộ trình/kế hoạch phát triển nghề nghiệp cho từng cá nhân nói chung và ngay cả đội ngũ 
cán bộ quy hoạchviii. 
Người lao động ngày nay không chỉ quan tâm đến thu nhập mà còn muốn có môi trường 
làm việc vui vẻ, được học tập liên tục, được tôn trọng cá tính bản thân, được thăng tiến. Trong 
khi đó, các cơ chế tạo động lực, đãi ngộ ở một số NHTM chưa thực sự phát huy tác dụng khiến 
các đơn vị, cá nhân chưa thực sự hăng say, phát huy hết khả năng để tạo năng suất, chất lượng, 
hiệu quả cao nhất; các chính sách thi đua, khen thưởng, động viên cán bộ còn thiếu đồng bộ, một 
số biện pháp vẫn mang tính hình thức, chưa gắn với quyền lợi thiết thực của người lao động. Vì 
vậy chưa thu hút được lực lượng lao động phát huy năng lực và gắn bó lâu dàiix. 
Trong giai đoạn hiện nay cũng như định hướng phát triển trong giai đoạn tới, việc đào tạo, 
phát triển nguồn nhân lực ngành ngân hàng cũng đặt ra những thách thức mới cho các cơ sở đào 
tạo, đòi hỏi phải đổi mới nội dung và chương trình đào tạo nhằm đáp ứng trước những thay đổi 
từ thực tiễn, đặc biệt là đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin, công nghệ số vào trong hoạt 
động giảng dạy và nâng cao năng lực và chất lượng của đội ngũ giáo viên, cán bộ quản lý. Bên 
cạnh hoạt động đào tạo, các cơ sở đào tạo cũng cần tích cực tham gia công tác nghiên cứu khoa 
học để nâng cao trình độ, kiến thức chuyên môn, đẩy mạng gắn nghiên cứu với các hoạt động 
chuyển giao tại cơ sở, đặc biệt chú trọng các nghiên cứu mô phỏng, nghiên cứu tương tác 
605 
HỘI THẢO QUỐC TẾ: PHÁT TRIỂN 
DOANH NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA CỦA VIỆT NAM TRONG BỐI CẢNH CUỘC CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP 4.0 
3. Một số giải pháp khuyến nghị 
Bối cảnh CMCN 4.0 đặt ra nhiều vấn đề cho công tác quản lý, đòi hỏi cán bộ quản lý nhà 
nước không ngừng nâng cao trình độ nghiệp vụ. Vì vậy, cần tiếp tục thực hiện chiến lược đào tạo 
các cán bộ quản lý trong ngành ngân hàng, nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ có năng lực đề xuất, 
tham mưu xây dựng chiến lược, định hướng, chính sách, chế độ, thực hiện quản lý nhà nước về 
hoạt động thị trường tài chính, tiền tệ, tín dụng, ngân hàng phù hợp với những đòi hỏi của nền 
kinh tế trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng. 
Để chuẩn bị và đón đầu làn sóng CMCN 4.0 kịp thời, các NHTM Việt Nam cần xây dựng 
chiến lược phát triển nguồn nhân lực có đủ năng lực, phẩm chất đạo đức, đặc biệt là cán bộ quản 
lý cấp cao theo hướng vững vàng về chuyên môn và thường xuyên cập nhật các kiến thức, kỹ 
năng nghề nghiệp theo chuẩn quốc tế; tăng khả năng ứng dụng công nghệ thông tin vào trong 
quá trình quản trị, vận hành và cung cấp dịch vụ của hệ thống ngân hàng. Tăng cường hợp tác, 
tận dụng hỗ trợ, chuyển giao kỹ thuật, đào tạo nghiệp vụ chuyên sâu từ các tổ chức quốc tế như: 
Ngân hàng Thế giới, Quỹ tiền tệ quốc tế, Cơ quan Hợp tác Quốc tế Nhật Bản, Ngân hàng Phát 
triển Châu Á, Ngân hàng Trung ương các nước phát triển để nâng cao trình độ, kinh nghiệm, 
kỹ năng chuyên môn, nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức, đội ngũ quản lý và 
nhân viên của ngành Ngân hàng, góp phần nâng cao sức cạnh tranh, rút ngắn khoảng cách chênh 
lệch về trình độ so với khu vực và thế giới. 
Trong hoạt động tuyển dụng, các NHTM cần phải xây dựng được tiêu chí lựa chọn cán bộ 
tài năng, các tiêu chí cần phải gắn với khung năng lực, phù hợp với kiến thức, kỹ năng cần phải 
có ở từng vị trí công việc, cấp độ công việc. Người lao động cũng phải tự trang bị kiến thức và 
kỹ năng, khả năng ngoại ngữ và công nghệ, phải cập nhật kiến thức vĩ mô và các nghiệp vụ mới, 
hiện đại trong lĩnh vực tài chính - ngân hàng để đáp ứng được yêu cầu của xã hội. 
Các ngân hàng cũng cần tiếp tục đẩy mạnh hiện đại hóa công tác đánh giá cán bộ, xây 
dựng các quy trình quản trị bao gồm Hệ thống Quản lý và Đánh giá hiệu quả làm việc (KPI/ 
Balance Score Card), Hệ thống lương thưởng gắn kết với hiệu quả làm việc cá nhân, công 
bằng nội bộ và cạnh tranh so với bên ngoài, tạo cơ sở vững chắc để đáp ứng các mục tiêu 
kinh doanh và mục tiêu chiến lược. Cần tiếp tục hoàn thiện cơ chế tạo động lực cho cán bộ 
gắn với đánh giá hiệu quả công việc, công tác quy hoạch, bổ nhiệm nhằm khuyến khích 
cán bộ không ngừng nỗ lực, nâng cao chất lượng, hiệu quả công việc. Điều này sẽ góp phần 
tạo cho tập thể cán bộ nhân viên một môi trường làm việc gắn bó, đoàn kết, đồng lòng nhất 
trí trong hành động vì mục tiêu chung. 
Các NHTM cũng cần có sự đầu tư nhiều hơn vào đội ngũ an ninh mạng và bảo mật thông 
tin, để có đội ngũ cán bộ trình độ nghiệp vụ giỏi, tính chuyên nghiệp cao, đáp ứng nhu cầu quản 
trị vận hành và làm chủ các hệ thống công nghệ hiện đại. Bên cạnh đó, cần có liên kết đào tạo 
nâng cao trình độ, khảo sát công nghệ hiện đại trong nước và quốc tế, thực hiện các chế độ đãi 
ngộ chuyên gia phù hợp. 
Đối với các cơ sở đào tạo nguồn nhân lực cho ngành, cần dự báo nguồn nhân lực trong 
từng thời kỳ để có kế hoạch đào tạo, xây dựng chương trình đào tạo khung trên cơ sở chuẩn mực 
quốc tế và đa dạng các chương trình đào tạo ở các cấp độ cơ bản cũng như nâng cao; xây dựng 
606 
INTERNATIONAL CONFERENCE: DEVELOPMENT OF SMALL AND MEDIUM ENTERPRISES 
IN VIETNAM IN THE CONTEXT OF INDUSTRIAL REVOLUTION 4.0 
bộ giáo trình chuẩn theo tiêu chuẩn ở những quốc gia phát triển có chỉnh sửa cho phù hợp trong 
điều kiện cụ thể ở Việt Nam; chuẩn hóa đội ngũ giảng viên, cán bộ viên chức ngành ngân hàng... 
Bên cạnh đó, cần đào tạo thêm và đào tạo chuyên sâu về lĩnh vực digital banking, e-commerce, 
quản trị công nghệ thông tin để các học viên, sinh viên có được nguồn kiến thức cần thiết, bắt 
kịp xu hướng công nghệ ngân hàng hiện đại. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Quyết định số 986/QĐ- TTg ngày 08 tháng 08 năm 2018 về việc phê duyệt Chiến lược phát 
triển ngành ngân hàng Việt Nam đến năm 2025, định hướng đến năm 2030 
2. Quyết định số 34/QĐ-NHNN ngày 07 tháng 01 năm 2019 về việc ban hành Chương trình 
hành động của ngành ngân hàng thực hiện chiến lược phát triển ngành ngân hàng Việt Nam 
đến năm 2025, định hướng đến năm 2030 
3. Quyết định số 1537/QĐ-NHNN ngày 17 tháng 07 năm 2019 phê duyệt Kế hoạch triển khai 
Chương trình hành động của ngành Ngân hàng thực hiện Chiến lược phát triển ngành Ngân 
hàng Việt Nam đến năm 2025, định hướng đến năm 2030 trong lĩnh vực phát triển nguồn 
nhân lực 
4. Khánh Anh (2019), “Ngân hàng săn lùng nhân sự chất lượng cao”, 
https://vnexpress.net/kinh-doanh/ngan-hang-san-lung-nhan-su-chat-luong-cao-3890529.html 
5. Việt Âu (2017), “Thiếu hụt nhân lực chất lượng cao trong ngành tài ch nh, ngân hàng”, 
6. Lê Công (2017), “Ngân hàng và cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư”, Tạp chí Thị 
trường tài chính tiền tệ, Số 9/2017, 
cuoc-cach-mang-cong-nghiep-lan-thu-tu&Itemid=241&lang=vi 
7. Nguyễn Thị Hiền, Đỗ Thị Bích Hồng (2017), “Tác động của cách mạng công nghiệp lần 
thứ 4 tới lĩnh vực tài chính - ngân hàng”, Tạp chí Tài chính kỳ 1, số Tháng 6/2017, 
linh-vuc-tai-chinh-ngan-hang-126472.html 
8. Đặng Hoàng Linh, Nguyễn Đức Tuấn (2018), “Nguồn nhân lực trong hoạt động ngân hàng 
và một số khuyến nghị”, 
ngan-hang-va-mot-so-khuyen-nghi.htm 
9. Nguyễn Thị Nguyệt Loan (2017), “Xu hướng phát triển ngành Ngân hàng dưới tác động 
của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0”, 
ngan-hang-duoi-tac-dong-cua-cuoc-cach-mang-cong-nghiep-4-0.htm 
10. Nghiêm Xuân Thành (2017), “Cách mạng công nghiệp lần thứ 4 và sự chuẩn bị của ngành 
Ngân hàng Việt Nam”, Tạp chí Tài chính kỳ 2, số tháng 2/2017, 
lan-thu-4-va-su-chuan-bi-cua-nganh-ngan-hang-viet-nam-118036.html 
11. Tô Huy Vũ, Vũ Xuân Thanh (2016), “Ngành Ngân hàng trước tác động của cuộc cách 
mạng công nghiệp lần thứ tư”, Tạp chí Ngân hàng số 15/2016. 

File đính kèm:

  • pdfcach_mang_cong_nghiiep_lan_thu_tu_co_hoi_va_thach_thuc_doi_v.pdf