Các phương pháp xây dựng chỉ số điều kiện tài chính quốc gia và vấn đề đặt ra cho Việt Nam trong bối cảnh hội nhập tài chính
Thuật ngữ điều kiện tài chính quốc gia (Domestic Financial Conditions- DFC) được
các nhà nghiên cứu cũng như các nhà hoạch định chính sách, các chuyên gia về thị
trường đưa ra bàn thảo trong những năm gần đây bởi DFC không chỉ phản ánh tình
hình kinh tế hiện tại mà còn cả những kỳ vọng của thị trường về trạng thái tương lai
của nền kinh tế. Nhiều quốc gia và khu vực đã xây dựng chỉ số điều kiện tài chính
quốc gia (Financial condition index-FCI) cho riêng mình như Anh, Mỹ, EU, Nhật,
Phần Lan, Nam Phi, Châu Á hay tại các tổ chức quốc tế như IMF, OECD, nhằm
đưa ra một bộ chỉ số để dự báo thị trường, dự báo sự tăng trưởng hoặc suy thoái
của nền kinh tế. Việt Nam hiện nay chưa có chỉ số DFC được xây dựng và công bố
chính thức thường niên, và có rất ít các nghiên cứu về xây dựng chỉ số này. Trong
điều kiện hội nhập kinh tế, tài chính toàn cầu sâu rộng như hiện nay, các điều kiện
tài chính tại các quốc gia trên thế giới có thể bị tác động mạnh mẽ bởi các nhân
tố toàn cầu và Việt Nam cũng không phải ngoại lệ. Bài viết tổng quan hai phương
pháp xây dựng chỉ số điều kiện tài chính (FCI hay chỉ số DFC), gồm phương pháp
tổng có trọng số và phương pháp phân tích thành phần chính, từ đó đặt ra các vấn
đề đối với Việt Nam về lựa chọn phương pháp xây dựng chỉ số, thu thập số liệu, lựa
chọn khu vực xây dựng chỉ số, và lựa chọn biến đưa vào chỉ số
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Tóm tắt nội dung tài liệu: Các phương pháp xây dựng chỉ số điều kiện tài chính quốc gia và vấn đề đặt ra cho Việt Nam trong bối cảnh hội nhập tài chính
15 © Học viện Ngân hàng ISSN 1859 - 011X Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng Số 224+225- Tháng 1&2. 2021 Các phương pháp xây dựng chỉ số điều kiện tài chính quốc gia và vấn đề đặt ra cho Việt Nam trong bối cảnh hội nhập tài chính Nguyễn Thanh Phương Khoa Tài chính, Học viện Ngân hàng Trần Thị Xuân Anh Khoa Tài chính, Học viện Ngân hàng Phạm Tiến Mạnh Khoa Tài chính, Học viện Ngân hàng Trần Thị Thu Hương Khoa Tài chính, Học viện Ngân hàng Ngày nhận: 06/01/2021 Ngày nhận bản sửa: 19/01/2021 Ngày duyệt đăng: 28/01/2021 Financial condition index construction methods and the problems posed for Vietnam in the context of financial integration Abstract: Domestic Financial Conditions (DFC) is discussed by researchers as well as policy makers, market experts in recent years because it does not only reflect the current economic situation but also market expectations about the future state of the economy. This index is deployed in many countries or regions such as the UK, US, EU, Japan, Finland, South Africa, Asia or at international organizations such as IMF, OECD, aiming to produce a set of indicators to forecast the market, to forecast the growth or recession of the economy. In Vietnam, there is no national financial condition index (FCI) that is constructed and officially published annually, and there are very few studies on the development of a national financial condition index. In terms of global economic and financial integration as today, domestic financial conditions in the world can be strongly affected by global factors and Vietnam is also. This paper reviews two main methods to construct FCI which are weighted-sum approach and principal components analysis, and poses some problems for Vietnam on selecting methods, collecting data, choosing area and variables to build FCI. Keywords: Domestic financial condition- DFC; Financial condition index-FCI; Financial condition index construction methods, Vietnam. Phuong Thanh Nguyen Email: phuongnt@hvnh.edu.vn Anh Thi Xuan Tran Email: anhttx@hvnh.edu.vn Manh Tien Pham Email: manhpham@hvnh.edu.vn Huong Thi Thu Tran Email: tranhuong@hvnh.edu.vn Organization of all: Finance Faculty, Banking Academy of Vietnam Các phương pháp xây dựng chỉ số điều kiện tài chính quốc gia và vấn đề đặt ra cho Việt Nam trong bối cảnh hội nhập tài chính 16 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 224+225- Tháng 1&2. 2021 Thuật ngữ điều kiện tài chính quốc gia (Domestic Financial Conditions- DFC) được các nhà nghiên cứu cũng như các nhà hoạch định chính sách, các chuyên gia về thị trường đưa ra bàn thảo trong những năm gần đây bởi DFC không chỉ phản ánh tình hình kinh tế hiện tại mà còn cả những kỳ vọng của thị trường về trạng thái tương lai của nền kinh tế. Nhiều quốc gia và khu vực đã xây dựng chỉ số điều kiện tài chính quốc gia (Financial condition index-FCI) cho riêng mình như Anh, Mỹ, EU, Nhật, Phần Lan, Nam Phi, Châu Á hay tại các tổ chức quốc tế như IMF, OECD, nhằm đưa ra một bộ chỉ số để dự báo thị trường, dự báo sự tăng trưởng hoặc suy thoái của nền kinh tế. Việt Nam hiện nay chưa có chỉ số DFC được xây dựng và công bố chính thức thường niên, và có rất ít các nghiên cứu về xây dựng chỉ số này. Trong điều kiện hội nhập kinh tế, tài chính toàn cầu sâu rộng như hiện nay, các điều kiện tài chính tại các quốc gia trên thế giới có thể bị tác động mạnh mẽ bởi các nhân tố toàn cầu và Việt Nam cũng không phải ngoại lệ. Bài viết tổng quan hai phương pháp xây dựng chỉ số điều kiện tài chính (FCI hay chỉ số DFC), gồm phương pháp tổng có trọng số và phương pháp phân tích thành phần chính, từ đó đặt ra các vấn đề đối với Việt Nam về lựa chọn phương pháp xây dựng chỉ số, thu thập số liệu, lựa chọn khu vực xây dựng chỉ số, và lựa chọn biến đưa vào chỉ số. Từ khoá: Điều kiện tài chính quốc gia (DFC); Chỉ số điều kiện tài chính quốc gia (FCI); Các phương pháp xây dựng chỉ số điều kiện tài chính quốc gia, Việt Nam 1. Đặt vấn đề Điều kiện tài chính quốc gia (DFC) được hiểu là các biến số tài chính hiện tại của quốc gia có tác động đến hành vi của các chủ thể trong nền kinh tế, qua đó tác động đến tương lai của nền kinh tế. Nghiên cứu của IMF (2014) đã khái quát hoá DFC với quan điểm rằng DFC phản ánh mức độ dễ dàng trong việc tiếp nhận các nguồn tài chính tại mỗi quốc gia. Ngoài mức lãi suất ngắn hạn, DFC còn bao gồm chi phí, điều kiện tiếp cận các nguồn vốn, mức độ sẵn có của nguồn vốn trong nước và thậm chí cả khẩu vị rủi ro của tổ chức cung ứng cũng như cá nhân tiếp cận nguồn vốn. Các DCF này đóng vai trò trung tâm trong việc truyền tải chính sách tiền tệ (CSTT) cũng như các chính sách vĩ mô khác và cuối cùng tác động trực tiếp đến sản xuất, tiêu dùng, thương mại, đầu tư trong nền kinh tế. Cụ thể, CSTT sẽ tác động đến phần còn lại của nền kinh tế thông qua các DFC qua hai kênh truyền dẫn chính gồm: Thứ nhất, thông qua kênh “truyền thống”, tức trường phái Keyne mới (New Keynesian), hay còn gọi là kênh CSTT. Ở góc độ này, DFC nhấn mạnh tới tác động của việc thay đổi chính sách lãi suất ngắn hạn và kỳ vọng về sự thay đổi của lãi suất dài hạn, qua đó tác động đến các quyết định tiêu dùng và đầu tư trong nền kinh tế. Ngoài ra, DFC còn xem xét tác động của tỷ giá như một kênh truyền thống có tác động tới thương mại của quốc gia đó. Thứ hai, DFC bao hàm xem xét yếu tố không hoàn hảo của nguồn cung tín dụng, phát sinh từ những hạn chế từ các trung gian tài chính, từ hiện tượng bất cân xứng thông tin, từ bảng cân đối kế toán, từ nguồn vốn của ngân hàng, từ yếu tố chấp nhận rủi ro của các chủ thể trong nền kinh tế. Đối với kênh truyền dẫn CSTT “phi truyền thống” có thể bóp méo thị trường tiền tệ và gây ảnh hưởng xấu trong dài hạn bởi sự không đồng nhất giữa các bộ ngành NGUYỄN THANH PHƯƠNG - TRẦN THỊ XUÂN ANH - PHẠM TIẾN MẠNH - TRẦN THỊ THU HƯƠNG 17Số 224+225- Tháng 1&2. 2021- Tạp chí Khoa học & Đào tạo ... ố vĩ mô và biến số tài chính. Ưu điểm lớn nhất của phương pháp tổng trọng số là mối liên hệ trực tiếp giữa các biến tài chính và nền kinh tế thực. Tuy nhiên, phương pháp này gặp phải vấn đề cố hữu đó là số lượng các biến đưa vào. Ngày càng có nhiều biến số đưa vào mô hình do trên thực tế, hệ thống tài chính hiện đại rất phức tạp và việc xác định đầy đủ các đặc tính của nó cần thiết phải bao hàm rất nhiều biến nghiên cứu khác nhau. Tuy nhiên việc đưa nhiều tham số vào mô hình VAR với số bậc tự do lớn sẽ dẫn đến kết quả không chính xác nếu số quan sát hạn chế. Với phương pháp phân tích thành phần chính (PCA) có thể giải quyết được vấn đề “lời nguyền về quy mô” của các biến nghiên cứu, bằng cách trích xuất một yếu tố chung mà nắm bắt được sự biến động chung lớn nhất trong một loạt các biến trong nghiên cứu. Ưu điểm lớn nhất của phương pháp PCA là tính thực tiễn của nó, vì nó tạo điều kiện cho việc thu gọn một tập hợp biến tài chính lớn thành một chỉ số duy nhất. Tuy nhiên phương pháp này chỉ đúng ở góc độ lý thuyết, bởi nó giả định rằng những chỉ số có sự biến động lớn nhất thì sẽ có ý nghĩa kinh tế lớn nhất; ngoài ra, phương pháp này Các phương pháp xây dựng chỉ số điều kiện tài chính quốc gia và vấn đề đặt ra cho Việt Nam trong bối cảnh hội nhập tài chính 26 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 224+225- Tháng 1&2. 2021 còn có một nhược điểm nữa, đó là nếu chỉ báo nào xuất hiện với một dấu hiệu “sai” thì ngay lập tức sẽ bị loại khỏi mô hình nghiên cứu. Tuy nhiên, trên thực tế, phương pháp PCA được rất nhiều học giả sử dụng để xây dựng FCI như Angelopoulou và các cộng sự (2014); Osorio và các cộng sự (2014); Hakkio và Keeton (2009); Micallef (2015); Hatzius và các cộng sự (2010)... Thứ tư, lựa chọn biến để xây dựng chỉ số điều kiện tài chính. Việc xây dựng FCI nhằm mục đích tìm ra một chỉ báo xem xét tác động của một loạt các biến tài chính tác động đến điều kiện tài chính của một quốc gia hoặc một khu vực trọng tâm nghiên cứu. Chính vì vậy, việc lựa chọn biến nghiên cứu cho vào mô hình đặc biệt quan trọng, nó quyết định đến tính chính xác, kịp thời và nâng cao khả năng dự báo của FCI đối với biến động của nền kinh tế. Biến nghiên cứu nào càng có tương quan mạnh với các biến nghiên cứu khác thì tỷ trọng đưa vào càng lớn. Đồng thời, biến đó cần phải đại diện cho các thành phần khác nhau trong hệ thống tài chính. Một yếu tố quan trọng trong việc lựa chọn biến nghiên cứu, đó là biến đó phải sẵn có để thu thập trong thời gian đủ dài, đặc biệt trong các giai đoạn tăng trưởng, hoặc suy thoái của nền kinh tế khu vực, thế giới; nhằm tìm ra được biến đó có mối liên hệ thật sự hay không. Hơn nữa khi xây dựng FCI trong bối cảnh hội nhập tài chính cần đưa vào các biến phù hợp phản ánh các nhân tố bên ngoài tác động đến DFC. Nghiên cứu của Debuque-Gonzales và cộng sự (2017) đã đưa biến chênh lệch lãi suất TPCP Mỹ- đại diện cho cấu trúc lãi suất quốc tế vào tính FCI của một số nước trong khu vực Châu Á nhằm phản ánh điều kiện quốc tế. Hay nghiên cứu của Gauthier và cộng sự (2004) cũng bao gồm biến chênh lệch lãi suất của Mỹ vào tính FCI cho Canada bởi cho rằng biến này tác động đến tăng trưởng kinh tế của Canada. 4. Kết luận Xây dựng chỉ số DFC (FCI) được thực hiện khá phổ biến ở các nước phát triển nhưng vẫn còn hạn chế ở các quốc gia khác trong đó có Việt Nam. Trong bối cảnh hội nhập tài chính sâu rộng mới hiện nay, việc xây dựng chỉ số DFC cũng đứng trước thách thức mới. Nhiều vấn đề được đặt ra khi xây dựng chỉ số như phương pháp xây dựng chỉ số, thu thập số liệu, lựa chọn khu vực xây dựng chỉ số, và lựa chọn biến đưa vào chỉ số. Các phương pháp xây dựng FCI từ đơn giản đến phức tạp đều có ưu nhược điểm và cho ra kết quả là các chỉ số FCI khác nhau. Vì vậy lựa chọn phương pháp phù hợp là quan trọng. Đồng thời, trong bối cảnh hội nhập tài chính việc lựa chọn biến đưa vào xây dựng FCI cần được cân nhắc kỹ lưỡng nhằm xây dựng được FCI phản ánh đầy đủ hiện trạng DFC và có khả năng dự báo triển vọng kinh tế trong tương lai. Bài viết đã tổng hợp hai phương pháp chính để xây dựng FCI đồng thời chỉ ra những vấn đề cần lưu ý trong xây dựng FCI cho Việt Nam trong bối cảnh hội nhập tài chính. Tuy nhiên bài viết chưa xây dựng được FCI cho Việt Nam bằng các phương pháp đã đưa ra do hạn chế về mặt số liệu. Hiện nay có rất ít các nghiên cứu thực nghiệm xây dựng chỉ số FCI cho Việt Nam, do đó đây là một hướng nghiên cứu mới có giá trị và ý nghĩa thực tiễn có thể triển khai trong thời gian tới. ■ Tài liệu tham khảo Alfaro, Laura, Sebnem Kalemli-Ozcan, and Vadym Volosovych, 2008, “Why Doesn’t Capital Flow from Rich to Poor Countries? An Empirical Investigation,” Review of Economics and Statistics 90 (2): 347–68. NGUYỄN THANH PHƯƠNG - TRẦN THỊ XUÂN ANH - PHẠM TIẾN MẠNH - TRẦN THỊ THU HƯƠNG 27Số 224+225- Tháng 1&2. 2021- Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng Angelopoulou, E., Balfoussia, H., & Gibson, H. D. (2014). Building a financial conditions index for the euro area and selected euro area countries: What does it tell us about the crisis? Economic Modelling, 38, 392–403. https://doi. org/10.1016/j.econmod.2014.01.013 Brave, Scott, and R. Andrew Butters. 2010. Gathering Insights on the Forest from the Trees: A New Metric for Finan- cial Conditions. Working Paper 2010-07. Chicago, Illinois: Federal Reserve Bank of Chicago. Charleroy, R. and Stemmer, M.A., 2014. An Emerging Market Financial Conditions Index: A VAR Approach. Chinn, Menzie D., and Hiro Ito. 2007, “Current Account Balances, Financial Development and Institutions: Assaying the World ‘Saving Glut,” Journal of International Money and Finance 26 (4): 546–69. Christiano, L. J., M. Eichenbaum, and C. L. Evans. 1999. “Monetary policy shocks: what we have learned and to what end?”. In: Handbook of Macroeconomics, Vol. 1, ch. 2. Taylor, J. B., and M. Woodford. (eds.). Elsevier: Amster- dam; 65-148. Debuque-Gonzales, M., & Gochoco-Bautista, M. S. (2013). Financial conditions indexes for Asian economies (No. 333). ADB Economics Working Paper Series. Debuque-Gonzales, M., & Gochoco-Bautista, M. S. (2017, June 1). Financial Conditions Indexes and Monetary Policy in Asia. Asian Economic Papers, Vol. 16, pp. 83–117. https://doi.org/10.1162/ASEP_a_00522 Dugauy, P. 1994. “Empirical Evidence on the Strength of the Monetary Transmission Mechanism in Can- ada.” Jour- nal of Monetary Economics 33: 39-61. English, William, Kostas Tsatsaronis, and Edda Zoli. 2005. Assessing the Predictive Power of Measures of Financial Conditions for Macroeconomic Variables. In Investigating the Relationship between the Financial and Real Economy. BIS Paper No. 22. Basel: Bank for International Settlements. February. Gauthier, C., Graham, C., & Liu, Y. (2004). Financial conditions indexes for Canada (No. 2004-22). Bank of Canada. Gomez. Financial Conditions Index: Early and Leading Indicator for Colombia. Ensayos sobre Politica Economica 2011; 66: 174-220. Goodhart, C., & Hofmann, B. (n.d.). A Service of zbw Financial Variables and the Conduct of Monetary Policy *. Retrieved from Guichard, Stéphanie, David Haugh, and David Turner. 2009. Quantifying the Effect of Financial Conditions in the Euro Area, Japan, United Kingdom and United States. OECD Economics Department Working Paper No. 677. Paris: Organisation for Economic Co- operation and Development. Guichard, Stéphanie, and David Turner. 2008. Quantifying the Effect of Financial Conditions on U.S. Activity. OECD Economics Department Working Paper No. 635. Paris: Organisation for Economic Co-operation and Develop- ment. Hatzius, J., Hooper, P., Mishkin, F. S., Schoenholtz, K. L., & Watson, M. W. (2010). Financial Conditions Indexes: A Fresh Look after the Financial Crisis. NBER Working Papers. Retrieved from https://ideas.repec.org/p/nbr/ nberwo/16150.html. Hatzius, J. & Stehn, S. J. (2018). The Case for a Financial Conditions Index. Goldman Sachs, Economics Research, Global Economics Paper. Ho, G., & Lu, Y. (2013). A financial conditions index for Poland(No. 13-252). International Monetary Fund. Koop, G. & Korobilis, D. (2014). A New Index of Financial Conditions. European Economic Review, Issue 71, pp. 101- 116 Ian, B., & Brian, M. (2018). Constructing a financial condition index for a small-open economy: The case of Malta. Re- search in Applied Economics, 10(3), 89-105. International Monetary Fund (IMF), 2014, “How Do Changes in the Investor Base and Financial Deepening Affect Emerging Market Economies? Global Financial Stability Report, Chapter 2, April, International Monetary Fund, Washington, DC. International Monetary Fund. 2010. A Financial Conditions Index for Asia. In Regional Economic Outlook: Asia and Pacific. Washington, DC. October. Justiniano, A., G. E. Primiceri, and A. Tambalotti. 2009. “Investment Shocks and Business Cycles”. NBER Working Paper, 15570. Lê Đạt Chí, & Trần Hoài Nam. (2015). Xây dựng chỉ số điều kiện tài chính cho Việt Nam. Tạp Chí Phát Triển và Hội Nhập, 31(21), 18–22. Retrieved from https://www.uef.edu.vn/newsimg/tap-chi-uef/2015-03-04-21/3-so-21.pdf Mayes, D. ;, & Virén, M. (2001). A Service of zbw Leibniz-Informationszentrum Wirtschaft Leibniz Information Centre for Economics Standard-Nutzungsbedingungen. Retrieved from www.econstor.eu Micallef, B. (2015). Estimating a Credit Gap for Non-Financial Corporations in Malta. Osorio, C., Unsal, D. F., & Pongsaparn, R. (2014). A Quantitative Assessment of Financial Conditions in Asia. IMF Working Papers. https://doi.org/10.5089/9781462314331.001 Pesaran, M.H. and Y. Shin. 1998. “Generalized Impulse Response Analysis in Linear Multivariate Mod- els.” Econom- ics Letters, 58:17-29. Các phương pháp xây dựng chỉ số điều kiện tài chính quốc gia và vấn đề đặt ra cho Việt Nam trong bối cảnh hội nhập tài chính 28 Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 224+225- Tháng 1&2. 2021 Sahay, Ratna, Martin Čihák, Papa M. N’Diaye, Adolfo Barajas, Ran Bi, Diana Ayala, Yuan Gao, Annette Kyobe, Lam Nguyen, Christian Saborowski, Katsiaryna Svirydzenka, and Seyed Reza Yousefi, 2015, “Rethinking Financial Deepening: Stability and Growth in Emerging Markets,” IMF Staff Discussion Note 15/08, International Mon- etary Fund, Washington, DC. Sims, C. A. 1980. “Macroeconomics and Reality”. Econometrica, Vol. 48: 1-48. Shinkai, Jun-ichi, and Akira Kohsaka. 2010. Financial Linkages and Business Cycles of Japan: An Analysis Using Financial Conditions Index. OSIPP Discussion Paper 2010-E-008 Osaka, Japan: Osaka School of International Public Policy. Swiston, Andrew. 2008. A U.S. Financial Conditions Index: Putting Credit Where Credit Is Due. IMF Working Paper 08/161. Washington, DC: International Monetary Fund. Thompson, K., van Eyden, R. and Gupta, R., 2013. Identifying a financial conditions index for South Africa. Studies in Economics and Finance, 32, pp. 256-274. Zheng, G., & Yu, W. (2014). Financial conditions index’s construction and its application on financial monitoring and economic forecasting. Procedia Computer Science, 31, 32-39. 29 © Học viện Ngân hàng ISSN 1859 - 011X Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng Số 224+225- Tháng 1&2. 2021 Nhận diện rủi ro tỷ giá đối với doanh nghiệp Nguyễn Văn Tiến Trọng tài viên Trung tâm Trọng tài quốc tế Việt Nam (VIAC) Trưởng Khoa Kinh doanh Quốc tế, Học viện Ngân hàng Ngày nhận: 07/12/2020 Ngày nhận bản sửa: 15/12/2020 Ngày duyệt đăng: 21/12/2020 Đo lường và quản trị rủi ro tỷ giá luôn là mối quan tâm hàng đầu của các doanh nghiệp nhằm giảm thiểu tổn thất khi tỷ giá biến động mạnh. Thế giới và Việt Nam đã từng chứng kiến những sự kiện biến động của tỷ giá tác động đến hoạt động ngoại thương và nội thương, đầu tư trực tiếp và danh mục đầu tư gián tiếp nước ngoài, hoạt động đi vay và cho vay bằng ngoại tệ... Tác động của rủi ro tỷ giá đến nền kinh tế thường kéo dài, làm giảm sức cạnh tranh quốc tế của ngành kinh tế, và cuối cùng là đến kết quả kinh doanh của các doanh nghiệp. Để có những biện pháp phòng ngừa kịp thời và hiệu quả, thì công việc đầu tiên, không thể thiếu, làm cơ sở cho các biện pháp tiếp theo, đó là nhận diện các loại rủi ro tỷ giá đối với doanh nghiệp. Dựa trên đúc kết kinh nghiệm cá nhân, Bài viết tổng hợp các tình huống rủi ro tỷ giá đối với doanh nghiệp trong hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu, đầu tư trực tiếp nước ngoài, đầu tư gián tiếp nước ngoài và tín dụng quốc tế. Đây cũng được xem là cơ sở cho việc thiết lập khung quản trị và sử dụng các công cụ phòng ngừa rủi ro tỷ giá đối với doanh nghiệp. Identifying exchange rate risk for businesses Abstract: Measuring and managing exchange rate risk exposure is of utmost importance for reducing a firm’s vulnerabilities from major exchange rate movements. The world and Vietnam have witnessed constant currency fluctuations which affected the market adversely, causing it to become volatile, affecting bothdomestic and foreign trade, foreign direct investment, portfolio investment, currency lending and borrowing. This caused a drag on the economy over the long term, as entire industries are rendered noncompetitive and operations of economic agents are detrimentally affected. Selecting the appropriate timely and effective exchange rate risk prevention measures is often a daunting task and therefore there is a demand of identifying different types of exchange rate risks for businesses. This will also act as the basis for exchange rate risk management and various hedging approaches for firms. Keywords: Exchange rate risk, Identification of exchange rate risk, Foreign exchange positon. Tien Van Nguyen Email: tiennv@hvnh.edu.vn Arbitrator of Vietnam Int’l Arbitration Centre (VIAC) Dean of Int’l Business of Banking Academy of Vietnam
File đính kèm:
- cac_phuong_phap_xay_dung_chi_so_dieu_kien_tai_chinh_quoc_gia.pdf