Xu hướng cách tân trong văn chương Tản Đà - nhìn từ phương diện thể loại

Trong khoảng 30 năm đầu của thế kỉ XX, nền văn học Việt Nam bắt đầu bước vào giai đoạn tái cấu trúc theo hướng hiện

đại hóa. Quá trình này được tiến hành trong sự “dùng dằng” giữa hai khuynh hướng: nếu tầng lớp cựu học cố gắng giữ gìn những

khuôn thước mẫu mực của văn chương cổ điển, thì thế hệ tân học lại ra sức học tập văn học hiện đại phương Tây và từng bước

hướng đến một nền văn chương mới. Đứng trước những thách thức và cơ hội của thời đại, một nhà Nho như Tản Đà đã mạnh

dạn tháo dỡ “cái cũ” trong trục dẫn của “cái mới”, lấy tư tưởng hiện đại phương Tây hòa nhập với minh triết phương Đông để

chuyển hóa, kết tinh thành thứ văn chương độc đáo, mới lạ. Nếu dấu ấn Á Đông làm cho văn chương Tản Đà thâm sâu, đượm

đà, thì những hơi hướng hiện đại phương Tây làm cho thứ văn chương ấy thêm lấp lánh, nhiều sắc màu. Trong xu hướng cách

tân nghệ thuật ấy, nỗ lực tiệm cận với tiểu thuyết hiện đại và xu hướng tự do hóa thi ca là hai trong số những đóng góp quan trọng

của Tản Đà. Được kiểm nghiệm bằng sự thành công vượt bậc trên văn đàn, những cách tân sáng tạo của Tản Đà đã gợi mở

những hướng đi tiềm năng cho thế hệ văn sĩ kế tiếp và góp phần đẩy nhanh tiến trình hiện đại hóa văn học dân tộc.

Xu hướng cách tân trong văn chương Tản Đà - nhìn từ phương diện thể loại trang 1

Trang 1

Xu hướng cách tân trong văn chương Tản Đà - nhìn từ phương diện thể loại trang 2

Trang 2

Xu hướng cách tân trong văn chương Tản Đà - nhìn từ phương diện thể loại trang 3

Trang 3

Xu hướng cách tân trong văn chương Tản Đà - nhìn từ phương diện thể loại trang 4

Trang 4

Xu hướng cách tân trong văn chương Tản Đà - nhìn từ phương diện thể loại trang 5

Trang 5

Xu hướng cách tân trong văn chương Tản Đà - nhìn từ phương diện thể loại trang 6

Trang 6

Xu hướng cách tân trong văn chương Tản Đà - nhìn từ phương diện thể loại trang 7

Trang 7

Xu hướng cách tân trong văn chương Tản Đà - nhìn từ phương diện thể loại trang 8

Trang 8

Xu hướng cách tân trong văn chương Tản Đà - nhìn từ phương diện thể loại trang 9

Trang 9

pdf 9 trang viethung 4660
Bạn đang xem tài liệu "Xu hướng cách tân trong văn chương Tản Đà - nhìn từ phương diện thể loại", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Xu hướng cách tân trong văn chương Tản Đà - nhìn từ phương diện thể loại

Xu hướng cách tân trong văn chương Tản Đà - nhìn từ phương diện thể loại
UED Journal of Social Sciences, Humanities & Education, ISSN: 1859 - 4603 
https://doi.org/10.47393/jshe.v11i1.911 
TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI, NHÂN VĂN VÀ GIÁO DỤC 
 Tạp chí Khoa học Xã hội, Nhân văn và Giáo dục, Tập 11, Số 1 (2021), 47-55 | 47 
Cite this article as: Le, T. S. (2021). The tendency of 
modernization in Tan Da’s literature - viewed from a genre 
perspective. UED Journal of Social Sciences, Humanities 
and Education, 11(1), 47-55. 
https://doi.org/10.47393/jshe.v11i1.911 
XU HƯỚNG CÁCH TÂN TRONG VĂN CHƯƠNG TẢN ĐÀ – 
NHÌN TỪ PHƯƠNG DIỆN THỂ LOẠI 
Lê Thanh Sơn 
Trường Đại học Sư phạm - Đại học Đà Nẵng, Việt Nam 
Tác giả liên hệ: Lê Thanh Sơn - Email: lethanhson1881989@gmail.com 
Ngày nhận bài: 24-12-2020; ngày nhận bài sửa: 18-5-2021; ngày duyệt đăng: 17-6-2021 
Tóm tắt: Trong khoảng 30 năm đầu của thế kỉ XX, nền văn học Việt Nam bắt đầu bước vào giai đoạn tái cấu trúc theo hướng hiện 
đại hóa. Quá trình này được tiến hành trong sự “dùng dằng” giữa hai khuynh hướng: nếu tầng lớp cựu học cố gắng giữ gìn những 
khuôn thước mẫu mực của văn chương cổ điển, thì thế hệ tân học lại ra sức học tập văn học hiện đại phương Tây và từng bước 
hướng đến một nền văn chương mới. Đứng trước những thách thức và cơ hội của thời đại, một nhà Nho như Tản Đà đã mạnh 
dạn tháo dỡ “cái cũ” trong trục dẫn của “cái mới”, lấy tư tưởng hiện đại phương Tây hòa nhập với minh triết phương Đông để 
chuyển hóa, kết tinh thành thứ văn chương độc đáo, mới lạ. Nếu dấu ấn Á Đông làm cho văn chương Tản Đà thâm sâu, đượm 
đà, thì những hơi hướng hiện đại phương Tây làm cho thứ văn chương ấy thêm lấp lánh, nhiều sắc màu. Trong xu hướng cách 
tân nghệ thuật ấy, nỗ lực tiệm cận với tiểu thuyết hiện đại và xu hướng tự do hóa thi ca là hai trong số những đóng góp quan trọng 
của Tản Đà. Được kiểm nghiệm bằng sự thành công vượt bậc trên văn đàn, những cách tân sáng tạo của Tản Đà đã gợi mở 
những hướng đi tiềm năng cho thế hệ văn sĩ kế tiếp và góp phần đẩy nhanh tiến trình hiện đại hóa văn học dân tộc. 
Từ khóa: Tản Đà; văn học giao thời; cách tân nghệ thuật; tiểu thuyết hiện đại; thơ tự do. 
1. Mở đầu 
Có thể thấy, Tản Đà là một hiện tượng văn học khá 
phức tạp, xuất hiện và tồn tại trong khoảng trên dưới 30 
năm đầu của thế kỉ XX. Đây là khoảng thời gian chứng 
kiến sự xáo động mạnh mẽ trong cơ tầng xã hội và nền 
tảng văn hóa dân tộc. Khi nghiên cứu, định dạng và 
phân loại các vấn đề về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã 
hội phần lớn các học giả đều thống nhất gọi khoảng 
thời gian này là “giai đoạn giao thời”. Tính chất “giao 
thời” thực chất là trạng huống “lưỡng lự” của quá trình 
tiếp xúc văn hóa, được biểu hiện bằng sự tranh chấp 
giữa các vấn đề cũ - mới, truyền thống - hiện đại, bản 
địa - ngoại lai, phương Đông - phương Tây. Trong cái 
chạng vạng, chông chênh của sinh quyển văn hoá, nền 
văn học Việt Nam bước vào giai đoạn tái cấu trúc theo 
hướng hiện đại, mà chủ yếu là việc học tập văn học hiện 
đại phương Tây trên phương diện tư duy sáng tác và hệ 
thống thể loại. Đứng trước những thử thách và cơ hội 
của thời đại mới, Tản Đà đã mạnh dạn tháo dỡ “cái cũ” 
trong trục dẫn của “cái mới”, lấy tư tưởng hiện đại 
phương Tây hòa nhập với văn hóa minh triết phương 
Đông để chuyển hóa thành một thứ văn chương độc 
đáo, mới lạ. Đặc tính liên văn hóa ấy trong văn chương 
Tản Đà vừa là một đặc trưng mang tính thời đại - một 
hệ quả của quá trình tiếp xúc và “cưỡng bức” về văn 
hóa - nhưng mặt khác, đó vừa là minh chứng cho sự dấn 
thân táo bạo và một bản năng nghệ thuật thiên phú của 
ông. Từ một “nhà Nho thất thời”, Tản Đà đã biết cách 
“chuyển họa vi phúc”, biến một cơn khủng hoảng về 
văn hóa thành trữ lượng thẩm mĩ, biến thách thức thành 
cơ hội để bản thân phát tiết sáng tạo, từ đó chế tác ra 
những tác phẩm văn chương mang dư ấn truyền thống 
nhưng vẫn lấp lánh thứ ánh sáng mới mẻ, tân thời. 
 Lê Thanh Sơn 
48 
2. Nội dung 
2.1. Tản Đà và nỗ lực tiệm cận với tiểu thuyết 
hiện đại 
Trong sự chuyển dịch của hệ hình văn học, hệ 
thống thể loại bắt đầu có sự đa dạng và xáo trộn mạnh 
mẽ. Nếu như trước đây, lực lượng sáng tác và đối tượng 
thưởng thức của văn học là các quan lại, Nho sĩ, nên chủ 
yếu sáng tác bằng các thể loại trữ tình xoay quanh các 
phương thức phú, tỉ, hứng, vốn đã trở thành thói quen 
thẩm mĩ trong văn hóa cổ điển phương Đông. Ngược 
lại, văn học trong thời đoạn mới chủ yếu hướng đến môi 
trường đô thị để đáp ứng nhu cầu thưởng thức của tầng 
lớp thị dân. Các văn sĩ tự do du nhập những thể loại văn 
học mới từ phương Tây, thông qua con đường báo chí, 
dịch thuật Trong trào lưu của không gian văn học 
mới, tiểu thuyết là một trong những thể loại được chú ý 
đến sớm nhất và có những bước chuyển mình đáng kể 
trong tiến trình hiện đại hóa văn học. Những cái tên mở 
đường như Nguyễn Trọng Quản (Thầy Lazaro Phiền, 
1887), Trần Chánh Chiếu (Hoàng Tố Anh hàm oan, 
1910) Trương Duy Toản (Phan Yên ngoại sử, 1910), Hồ 
Biểu Chánh (Ai làm được, 1912) đã ít nhiều gây được 
sự chú ý trong độc giả đô thị. Tuy nhiên, nếu chúng ta 
hình dung: “Tiểu thuyết là hình thức tự sự cỡ lớn đặc 
biệt phổ biến trong thời cận đại và hiện đại. Với những 
giới hạn rộng rãi trong hình thức trần thuật, tiểu thuyết 
có thể chứa đựng lịch sử của nhiều cuộc đời, những bức 
tranh phong tục của xã hội miêu tả cụ thể các điều kiện 
sinh hoạt giai cấp tái hiện lại nhiều tính cách đa dạng” 
(Phuong Luu, 2006, 387), thì rõ ràng, ở thời điểm này, 
văn học dân tộc chưa có được một tiểu thuyết hiện đại 
đúng nghĩa. 
Ngược dòng thời gian, có thể thấy rằng, văn học cổ 
điển các nước phương Đông thường quan tâm đến văn 
vần nhiều hơn văn xuôi, cho nên thành tựu về thi ca cổ 
điển rất phong phú và đạt đến đỉnh cao, nhưng khi nói 
về nghệ thuật văn xuôi thì tương đối hạn chế. Về đại 
thể, thuật ngữ tiểu thuyết1 trong tư duy sáng tác và tiếp 
nhận của người Việt là mượn từ Trung Hoa mà mục 
đích của nó là nhằm phân biệt với hai thể loại cơ bản 
khá ...  dằng, 
lưu luyến, tựa như tiếng lòng xao xuyến, bâng khuâng 
của kẻ ở - người đi. Kế tiếp, sự sắp xếp của những âm 
tiết mở ở cuối mỗi dòng thơ (ai, ui, ôi, ơi) tuy không 
hiệp vần như thơ cũ, nhưng được lặp đi lặp lại tạo ra độ 
ngân nga, vang vọng kéo dài về mặt âm thanh, như lời 
thở dài luyến tiếc của chủ thể trữ tình. Cùng với đó, sự 
vận ngôn thiên về thanh bằng dường như biến cả bài thơ 
trở thành một bức tranh bình đạm, nhẹ nhàng, tan dần 
trong cái không cái mênh mang, hư huyễn của một 
khung trời viễn mộng. Rồi bỗng nhiên, giữa cái mơ 
màng, bảng lảng ấy, thi nhân chen vào một câu thơ cao 
vút với 4 thanh trắc: “Cái hạc/ bay lên/ vút/ tận trời!”. 
Nhịp thơ thay đổi đột ngột thành 2/2/1/2 khiến chữ 
“vút” trở thành tiêu điểm của cả cảnh thơ lẫn tình thơ. 
Một chữ “vút” nhanh như ánh chớp mà nặng tựa thái 
sơn! Có thể nói, sự tinh anh, xuất thần của Tản Đà trong 
Tống biệt là đã mang cái Khoảnh khắc để đối chọi với 
Vĩnh cữu, lấy cảnh thiên thai để diễn dịch trần thế, từ 
chỗ tồn tại hóa chốn hư vô, tưởng gần ngay trước mắt 
mà xa tận chân mây. Kẻ ngậm ngùi, người ngơ ngác, 
ngỡ lạc vào bồng lai tiên cảnh, rồi phút chốc chỉ còn lại 
đoái trông, thẩn thơ “Thơ tự do không vần, câu thơ 
dài ngắn khác nhau, co duỗi linh hoạt không có nghĩa là 
thiếu sự liên kết nội tại giữa các yếu tố cấu thành bài 
thơ. Chính cảm xúc, năng lượng tâm linh và logic nội 
tại của sự vật sẽ kết dính các hình ảnh, chi tiết và ngôn 
ngữ thi ca” (T. P. T. Nguyen, 2014, 38), cho nên, khi 
đọc Tống biệt, chúng ta không thấy “độc vận”, không 
còn “hài thanh”, cũng không có niêm luật cân chỉnh, 
nhưng cả bài thơ lại trở thành một khối thống nhất với 
nhạc điệu mới lạ, linh hoạt, biến tấu theo dòng cảm xúc 
ẩn sâu trong chủ thể trữ tình. Có thể hình dung, Tống 
biệt là một “bức tranh toàn bích” bằng ngôn từ, với lấm 
tấm chút hồng phớt của cánh đào phai, với tí tách những 
tiếng nước chảy trong nguồn, với cái mờ mờ, bàng bạc 
của “bóng trăng chơi”, tất cả như đặt vào cái “hư 
không” nơi cánh hạc bay vút, rồi cơ hồ gieo vào lòng 
người những xao xuyến, bâng khuâng. Lời thơ lúc trầm 
bổng, u hoài, lúc dập dìu, nổi sôi, khi nhẹ nhàng như 
“lưu thủy hành vân”, khi gấp gáp như “ô vân đạp tuyết”, 
như xé tan cả không gian thần tiên, hư huyễn, để lại sau 
con chữ là cái trơ trọi của trời đất, cái thơ thẩn của bóng 
trăng, và hằn in đâu đó là sự lưu lạc của lòng người giữa 
chốn nhân gian. Học giả Thạch Trung Giả đã có những 
lời bình tuyệt đẹp về Tống biệt: “Cửa động đầu non 
đường lối cũ, mấy chữ khô lặng như vô tình nhưng rất 
gợi cảm. Thơ thẩn bóng trăng chơi khiến người đọc nhận 
thấy vầng trăng được nhân cách hóa như một linh hồn 
trầm tư cúi xuống nơi đã ghi vết một cuộc tình duyên đẹp 
nhất nhưng cũng bi thương nhất trên đời” (Thach, 1973, 
511). Quả thực, không phải dễ dàng để có thể diễn dịch, 
bình phẩm cho hết cái xuất thần trong cách dụng ngôn ấy 
của thi sĩ, bởi ẩn tàng trong đó là cả những điều mơ hồ, 
những vẻ đẹp hư huyễn mà con mắt của người thường 
không dễ chân thấu. Lấy thi pháp của “hoàng hạc” để gợi 
đến chuyện trần ai, mượn cảnh Lưu - Nguyễn tạ từ thiên 
thai để vẽ ra cái tình tha thiết của khách du tử thời hiện 
kim, rồi trình diễn trong một hình thức thơ cách tân, độc 
đáo, với trục dẫn cảm xúc là cái tôi lãng mạn [trữ tình], 
vừa hư huyễn, bay bổng, vừa tinh tế, sâu lắng, Tản Đà đã 
làm ngỡ ngàng tất cả thi đàn thời điểm ấy. 
Tiêu biểu cho xu hướng “tự do hóa” thi ca, ngoài 
thi phẩm Tống biệt, thì Bài hát của Tây Thi cũng xứng 
đáng là một bản hợp âm ma thuật, vượt ra khỏi giới hạn 
của “tư thiên trầm nghĩa” chốn nhân gian. Chẳng phải 
“ngẫu khúc” hay “lãng ca”, cũng không mang theo vẻ 
đẹp mơ màng, huyễn hoặc, Bài hát của Tây Thi gây ấn 
tượng mạnh mẽ bằng sự réo rắt trong âm điệu, dồn nén 
trong cảm xúc: 
Non xanh xanh [1/2] 
Nước xanh xanh [1/2] 
Nước non như vẽ bức tranh tình! [4/3] 
Non nước tan tành [2/2] 
Giọt luỵ tràn năm canh! [3/2] 
Đêm năm canh [1/2] 
Luỵ năm canh [1/2] 
Nỗi niềm non nước [2/2] 
Đố ai quên cho đành! [2/1/2] 
Quên sao đành [1/2] 
Nhớ sao đành [1/2] 
Trần hoàn xa cách [2/2] 
 Lê Thanh Sơn 
54 
Bồng Lai non nước xanh xanh! [2/2/2] 
(Nguyen K. X., 2002a, 394) 
Mỗi câu thơ ngắt nhịp linh hoạt, nhưng đều có quy 
luật để lặp lại, giống như đoạn điệp khúc của một khúc 
hát. Đặc biệt ở chỗ, những dòng thơ ngắn với nhịp ½ 
đúng ra là một câu thơ dài, nhưng Tản Đà đã cố tình cắt 
đi, rồi cấp cho nó một nhịp điệu ổn định, nhịp nhàng, 
như hiện ra trước mắt độc giả những bước đi duyên 
dáng, uyển chuyển trong điệu múa của Tây Thi, khi còn 
hầu hạ Ngô vương Phù Sai. Nhưng để ý cấu trúc cả bài 
thơ, việc tác giả để cho dòng thơ ngắn lại, vỡ ra cùng 
con chữ trên trang giấy, tựa như những giọt nước mắt ẩn 
chứa trong tâm can của người thiếu nữ vốn đang chất 
chứa quá nhiều ưu phiền. Ngoài ra, mỗi khổ thơ đều kết 
thúc bằng một dấu chấm than (!), điều này, một mặt đưa 
cao độ âm thanh lên đỉnh, nhưng mặt khác, nó cũng là 
dấu hiệu cho sự đứt gãy về mặt trường độ, đó chẳng 
khác gì những tiếng nấc nghẹn trên khóe môi của người 
con gái hồng nhan bạc mệnh kia. Với giai âm mới lạ, 
Tản Đà đã vẽ ra trước mắt người đọc cái duyên dáng, 
uyển chuyển của điệu múa Tây Thi, nhưng sau khung 
hình mĩ lệ ấy, thấp thoáng cả cuộc đời cay đắng, hờn tủi 
của người con gái hồng nhan mang số phận hẩm hiu, trở 
thành một món đồ trong trò chơi vương quyền của hai 
nước Việt - Ngô, để rồi chịu cái chết tang thương nơi 
đất khách quê người mà lòng vẫn còn vấn vương, đau 
đáu mối tình cùng Phạm Lãi thủa hàn vi. Không khóc 
mà lệ, không sầu mà đau, đó chính là cái tài tình của 
Tản Đà trong phép vận ngôn, để vừa có thể tháo dỡ cái 
khuôn thước khô cứng của thi ca cổ điển, mà vừa họa 
theo được cái thổn thức của cảm xúc, cái rưng rưng của 
lòng người. Rong chơi chốn Thiên thai với Tống biệt, 
ngạo nghễ trên tiên giới với Khúc hát của Tây Thi, Tản 
Đà đã từng bước chạm tới cái tinh hoa của vũ điệu ngôn 
từ, với “những cuộc ca vũ nhịp nhàng của âm điệu”, 
“những mãnh lực thần kì của chữ”, và cả “hội bay linh 
diệu của hình tượng” (Trinh & Nguyen, 2007, 184). 
Vậy là, không chỉ đóng góp vào sự phát triển của 
thể loại tiểu thuyết hiện đại, Tản Đà còn là thế hệ thi 
nhân đầu tiên ở Việt Nam dám tháo dỡ những quan 
niệm về “niêm, luật” để sáng tác thơ theo xu hướng tự 
do, phá cách. Không phải ngẫu nhiên, tác giả Nguyễn 
Đăng Điệp, khi nghiên cứu tiến trình hiện đại hóa thơ ca 
đã nhận định: “Nhân vật sáng chói nhất trên thi đàn hai 
mươi lăm năm đầu thế kỉ thuộc về Tản Đà” (Nguyen, 
2016, 111). Những thể nghiệm thành công của Tản Đà 
đã để lại nhiều dư ấn tích cực trong cộng đồng tiếp 
nhận, đồng thời cũng hé mở những ánh bình minh đầu 
tiên cho phong trào Thơ mới. Quá trình tái cấu trúc 
trong văn học theo hướng cổ điển đến hiện đại, thực chất 
đều nằm trong dãy hệ thống liên văn bản (intertextuality) 
với sự chồng ghép và đối thoại liên tục giữa hệ hình văn 
học cũ và mới. Cho nên, chúng ta có thể thấy, cái âm 
hưởng mơ hồ, vô hình mà ám ảnh, da diết ở Tống biệt sẽ 
còn bắt gặp ít nhiều trong Hàn Mặc Tử, còn cái sắc điệu 
dập dìu, réo rắt, nhưng ma mị, lôi cuốn trong Bài hát của 
Tây Thi cũng không khó để tìm thấy ở Bích Khê sau này. 
Như vậy, sự xáo trộn và cả những xung đột gay gắt giữa 
cái mới và cái cũ, giữa truyền thống và hiện đại, cơ hồ đã 
trở thành một không gian thẩm mĩ vô cùng độc đáo, một 
cơ hội hiếm có, một sân khấu để “diễn viên” tài ba như 
Tản Đà tiên sinh “chuyển họa vi phúc” và dấn thân vào 
con đường sáng tạo nghệ thuật. 
3. Kết luận 
Có thể nói, khác với sự ổn định của thời kì văn học 
cổ điển, đặc trưng nổi bật của khuôn diện văn học giao 
thời là sự đa dạng, phong phú trong hệ thống thể loại, 
với hình thức “lệch chuẩn” và những thể nghiệm nghệ 
thuật sơ khởi, chứ chưa phải là sự kết tinh của những 
mô thức thẩm mĩ đã thành kinh điển, mẫu mực. Xét trên 
tiêu chí đó, Tản Đà xứng đáng là một tác giả giao thời 
có nhiều đóng góp quan trọng cho quá trình hiện đại hóa 
văn học dân tộc. Nhìn nhận lại toàn bộ văn nghiệp của 
Tản Đà, chúng ta thấy rằng, việc duy trì những thể loại 
văn học cổ điển như Đường thi, hát nói, lục bát là 
minh chứng hùng hồn cho dấu ấn văn hóa truyền thống, 
nhưng bên cạnh đó, Tản Đà còn dấn thân vào một cuộc 
chơi văn chương đầy táo bạo, với những cách tân nghệ 
thuật độc đáo, tinh tế. Trong nỗ lực tiệm cận với tiểu 
thuyết hiện đại, Tản Đà đã từng bước phá vỡ lằn ranh 
của tiểu thuyết chương hồi và hướng đến sự mới mẻ, tân 
thời ở tư tưởng thẩm mĩ. Đặc biệt, trong xu hướng tự do 
hóa thi ca, Tản Đà đã dám “phá chấp” tháo dỡ những 
“khuôn vàng thước ngọc” cổ điển, để chạm tới sự thăng 
hoa của “thi nhãn” trong lãnh giới của cái Đẹp và ngôn 
từ. Một mặt, những cách tân nghệ thuật đó là minh 
chứng hùng hồn về một nội lực văn hóa thâm tàng cùng 
nguồn “bá khí ngạo nghễ” giúp thi nhân “làm chủ” trên 
thi đàn dân tộc trong chừng ba mươi năm “bão táp” đầu 
thế kỉ XX; mặt khác, chính những tìm tòi, sáng tạo này 
của Tản Đà đã gợi mở những hướng đi tiềm năng cho 
 ISSN: 1859 - 4603, UED Journal of Social Sciences, Humanities and Education, Vol. 11, No. 1 (2021), 47-55 
 55 
các thế hệ văn sĩ về sau. Trong cái chạng vạng giữa cũ 
và mới, cái chênh chao giữa “Tây” và “Ta”, Tản Đà đã 
biết cách chuyển hóa và kết tinh những luồng thẩm mĩ 
tưởng chừng như đối nghịch ấy. Bởi vậy, thưởng lãm 
văn chương của Tản Đà cần có con mắt tinh tường và 
một tâm hồn nhạy cảm, đủ để nhận ra những nét mới 
trong cái cũ, những cách tân trong truyền thống, mà 
đúng hơn là những cốt cách bản địa trong hương sắc 
ngoại lai. Chính sự cộng hưởng, giao thoa những nguồn 
thẩm mĩ ấy trở thành điểm ưu trội thể hiện dấu ấn liên 
văn hóa, là thành tựu điển hình của văn chương Tản Đà. 
Tài liệu tham khảo 
Jakobson, R. (1987). Language in Literature. Harvard 
University Press. 
Le, T. S. (2020). The concept of conveying the dao 
through literature and core expression in Tan Da’s 
poetry. UED Journal of Social Sciences, 
Humanities and Education, 10 (Special), 152–158. 
https://doi.org/10.47393/jshe.v10iSpecial.835 
Nguyen, D. D. (2016). Some issues of modern 
Vietnamese literature (Một số vấn đề văn học Việt 
Nam hiện đại). Social Sciences. 
Nguyen, H. S., Tran, D. S., Huyen, G., Tran, N. V., Tran, 
N. T., & Doan, T. T. V. (2010). The individual in 
ancient Vietnamese literature (Về con người cá 
nhân trong văn học cổ Việt Nam). Education. 
Nguyen, K. X. (2002a). The complete works of Tan Da 
(Book 1) [Tản Đà toàn tập (Tập 1)]. Literature. 
Nguyen, K. X. (2002b). T The complete works of Tan Da 
(Book 2) (Tản Đà toàn tập) (Tập 2). Literature. 
Nguyen, T. P. T. (2014). The tendency to liberalize 
language in Vietnamese poetry in the 20th century 
(Xu hướng tự do hóa ngôn ngữ thơ Việt Nam thế 
kỷ XX). National Politicics. 
Nhat, L. (1961). Writing and reading a novel (Viết và 
đọc tiểu thuyết). Doi Nay. 
Pham, Q. (2006). Thuong Chi collection of literary 
works (Thượng Chi văn tập). Literature. 
Phuong, L. (2006). Literary theories (Lý luận văn học). 
Education. 
Thach, T. G. (1973). Encyclopaedia of analytic 
literature (Văn học phân tích toàn thư). La boi. 
Thanh, L. (1967). The diagram of Vietnamese literature 
(the final book) (Bảng lược đồ văn học Việt Nam) 
(quyển hạ)]. Trinh bay. 
Tran, D. H., & Le, C. D. (1988). Vietnamese literature 
in the transitional period, 1900-1930 (Văn học 
Việt Nam giai đoạn giao thời, 1900-1930). 
Universities and Vocational Schools. 
Tran, D. S. (2014). Literary theories (Book 2) (Lí luận 
văn học) (Tập 2). Hanoi National University of 
Education. 
Tran, N. (1998). Vietnam's Han language novels - 
Categorization and classification (Tiểu thuyết chữ 
Hán Việt Nam - Danh mục và phân loại). 
Proceedings of the 1st International Conference 
on Vietnamese Studies (Part 1), 485–495. 
Trinh, B. D., & Nguyen, D. M. (2007). Tan Da - About 
the author and his works (Tản Đà - Về tác gia và 
tác phẩm). Education. 
Tsubouchi, S. (2013). The essence of the novel (Chân 
tủy của tiểu thuyết) (Tran, H. Y., Trans.). The gioi. 
Vuong, T. N. (2003). A discussion of Vietnamese novels 
from the early 20th century to 1945 (Những lời bàn 
về tiểu thuyết trong văn học Việt Nam từ đầu thế kỷ 
XX cho đến 1945). The Writers' Association. 
THE TENDENCY OF MODERNIZATION IN TAN DA’S LITERATURE - 
VIEWED FROM A GENRE PERSPECTIVE 
Le Thanh Son 
The University of Danang - University of Science and Education, Vietnam 
Author corresponding: Le Thanh Son - Email: lethanhson1881989@gmail.com 
Article History: Received on 24th December 2020; Revised on 18th May 2021; Published on 17th June 2021 
Abstract: During the first 30 years of the twentieth century, Vietnamese literature began to enter the period of restructuring in the 
direction of modernization. This process occurred in the conflicting existence between two tendencies: the former educated class tried 
to preserve the traditional values of the classical literature whereas the younger scholars actively absorbed the modern Western 
literature and gradually moved towards the new literature. Faced with the challenges and opportunities of the time, a Confucian like 
Tan Da boldly removed the “olds” in the pursuit of the “news”, integrating the Western thoughts into the Eastern wisdom to crystallize 
a unique and brand new form of literature. His works embraced the depth brought by the Oriental culture and adopted more colors 
with the Western breaths. Within this modernization process, his efforts to approach modern novels and his tendency to liberalize 
poetry are two among the most important contributions of Tan Da, opening up possibilities for the next generation of writers as well as 
helping accelerate modernization in national literature. 
Key words: Tan Da; transitional literature; artistic modernization; modern novels; free verse poems. 

File đính kèm:

  • pdfxu_huong_cach_tan_trong_van_chuong_tan_da_nhin_tu_phuong_die.pdf