Một số vấn đề lý luận về biến đổi văn hóa sản xuất

Văn hóa sản xuất là toàn bộ những tri thức, kiến thức khoa học của con người, được phản

ánh trên cả hai mặt của phương thức sản xuất, thể hiện trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và

tính chất phát triển của quan hệ sản xuất. Văn hóa sản xuất không ngừng biến đổi dưới tác động của

các nhân tố chính trị, kinh tế, xã hội và hoàn cảnh địa lí. Do vậy, nghiên cứu về biến đổi văn hóa sản

xuất có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn, góp phần phát triển kinh tế - xã hội. Bài viết cung cấp

những nội dung cơ bản về biến đổi văn hóa sản xuất thông qua việc làm rõ các khái niệm, nội hàm

và xây dựng khung phân tích biến đổi văn hóa sản xuất.

Một số vấn đề lý luận về biến đổi văn hóa sản xuất trang 1

Trang 1

Một số vấn đề lý luận về biến đổi văn hóa sản xuất trang 2

Trang 2

Một số vấn đề lý luận về biến đổi văn hóa sản xuất trang 3

Trang 3

Một số vấn đề lý luận về biến đổi văn hóa sản xuất trang 4

Trang 4

Một số vấn đề lý luận về biến đổi văn hóa sản xuất trang 5

Trang 5

Một số vấn đề lý luận về biến đổi văn hóa sản xuất trang 6

Trang 6

Một số vấn đề lý luận về biến đổi văn hóa sản xuất trang 7

Trang 7

pdf 7 trang viethung 7280
Bạn đang xem tài liệu "Một số vấn đề lý luận về biến đổi văn hóa sản xuất", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Một số vấn đề lý luận về biến đổi văn hóa sản xuất

Một số vấn đề lý luận về biến đổi văn hóa sản xuất
20 
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ BIẾN ĐỔI VĂN HÓA SẢN XUẤT 
ĐINH TRỌNG THU 
Tóm tắt: Văn hóa sản xuất là toàn bộ những tri thức, kiến thức khoa học của con người, được phản 
ánh trên cả hai mặt của phương thức sản xuất, thể hiện trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và 
tính chất phát triển của quan hệ sản xuất. Văn hóa sản xuất không ngừng biến đổi dưới tác động của 
các nhân tố chính trị, kinh tế, xã hội và hoàn cảnh địa lí. Do vậy, nghiên cứu về biến đổi văn hóa sản 
xuất có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn, góp phần phát triển kinh tế - xã hội. Bài viết cung cấp 
những nội dung cơ bản về biến đổi văn hóa sản xuất thông qua việc làm rõ các khái niệm, nội hàm 
và xây dựng khung phân tích biến đổi văn hóa sản xuất. 
Từ khóa: vấn đề lý luận, văn hóa sản xuất, biến đổi văn hóa sản xuất 
SOME THEORETICAL ISSUES ABOUT PRODUCTION CULTURE CHANGE 
Abstract: Production culture is the totality of human knowledge and scientific knowledge, which is 
reflected on both sides of the mode of production, showing the development level of the productive 
forces and the development nature of the culture of production. Production culture, and cultural 
behaviors, are constantly changing under the influence of political, economic, social and geographical 
factors. The study of changes to production culture has both theoretical and practical significance as 
these changes contribute and affect socio-economic development. This area has been the subject of 
research and academic studies. This article provides basic views on production culture changes by 
clarifying concepts and connotations and building an analytical framework for cultural behavior 
change. 
Keywords: theoretical issues, production culture, production culture change 
1. Đặt vấn đề 
Biến đổi văn hóa nói chung đã được đề cập 
khá sớm bởi những nhà khoa học khởi xướng ủng 
hộ thuyết tiến hóa văn hóa như E. Taylor (1891) 
hay L. Morgan (1877), tác giả phân chia xã hội 
theo thứ bậc đơn tuyến và có chung một mẫu hình 
biến đổi xã hội và biến đổi văn hóa [17, 18]. Các 
tác giả G. Elliot Smiith (1911) và W. Rivers 
(1914) tiêu biểu của thuyết truyền bá văn hóa, 
cho rằng vấn đề mấu chốt của biến đổi văn hóa là 
sự vay mượn hoặc sự truyền bá các đặc trưng văn 
hóa từ xã hội này sang xã hội khác. 
C.L.Wissler (1923), A.L.Kroeber (1925) với 
thuyết vùng văn hóa, đưa ra các khái niệm cơ 
bản về vùng văn hóa, loại hình văn hóa, trung 
tâm văn hóa, tổ hợp văn hóa. Sự biến đổi văn 
hóa diễn ra rất đa chiều và nhiều cấp độ tùy 
thuộc vào cộng đồng đó là trung tâm hay ngoại 
vi hay vùng chuyển tiếp. Redfield (1934), 
Broom (1954) với Thuyết tiếp biến văn hóa, chỉ 
ra sự biến đổi văn hóa trong bối cảnh xã hội 
phương Tây và ngoài phương Tây đã trải qua 
mối quan hệ lâu dài và sự ảnh hưởng của xã hội 
ưu thế đối với dân bản địa. 
Các nhà địa lí học như Carl Ortwin Sauer 
(1925), Joen Bonnemaison (2005) và nhà nhân 
học Julian Haynes Steward (1955) nghiên cứu 
sự tạo thành các cảnh quan văn hóa từ các dạng 
thức xếp chồng lên các cảnh quan tự nhiên và 
sinh thái học văn hóa. Thông qua việc nghiên 
cứu quan hệ giữa văn hóa với môi trường, sự 
thích nghi của con người với môi trường tự 
nhiên, sự hình thành cảnh quan do sản xuất, các 
nghiên cứu này đã làm sáng tỏ vai trò của môi 
Đinh Trọng Thu - Một số vấn đề lý luận về biến đổi văn hóa sản xuất 
21 
trường địa lí tự nhiên đối với sự hình thành, biến 
đổi văn hóa, đồng thời chỉ ra những tác động trở 
lại của văn hóa đối với môi trường sinh thái, từ 
đó đặt ra vấn đề trách nhiệm bảo vệ môi trường 
sinh thái của con người. 
Các lý thuyết địa lí học văn hóa và sinh thái 
học văn hóa đã làm sáng tỏ vai trò của môi trường 
tự nhiên đối với sự hình thành, biến đổi của văn 
hóa, đồng thời xác định mối quan hệ giữa văn hóa 
với môi trường. Thuyết tiếp biến văn hóa chỉ ra 
giao lưu văn hóa là tiền đề của tiếp biến văn hóa. 
Điều kiện địa lí tự nhiên là tiền đề hình thành 
không gian văn hóa và điều kiện giao lưu văn hóa 
là tiền đề của tiếp biến văn hóa. 
Văn hóa sản xuất là một thành tố cơ bản của 
văn hóa. Sự biến đổi của văn hóa sản xuất chịu 
sự tác động mạnh mẽ của các nhân tố chính trị, 
kinh tế, xã hội và hoàn cảnh địa lí. Hiện nay, chưa 
có nhiều công trình chuyên biệt nghiên cứu về 
biến đổi văn hóa sản xuất. Do vậy, bài viết cung 
cấp một góc nhìn tổng thể về biến đổi văn hóa sản 
xuất thông qua việc làm rõ cách tiếp cận, các khái 
niệm, nội hàm và xây dựng khung phân tích biến 
đổi văn hóa sản xuất dưới tác động của một 
chương trình, dự án phát triển kinh tế - xã hội. 
2. Cơ sở dữ liệu và phương pháp nghiên 
cứu 
Bài viết sử dụng phương pháp nghiên cứu tài 
liệu thứ cấp, bao gồm các công trình nghiên cứu 
khoa học của các học giả trong và ngoài nước. 
Các tài liệu được thu thập và phân tích có liên 
quan đến các vấn đề lý luận và thực tiễn về văn 
hóa, văn hóa sản xuất và sự biến đổi của văn hóa 
sản xuất. 
3. Kết quả nghiên cứu và thảo luận 
3.1. Tiếp cận nghiên cứu văn hóa sản xuất 
và biến đổi văn hóa sản xuất 
a. Văn hóa sản xuất là thành tố cơ bản của 
văn hóa 
Theo Makarian (Nhà dân tộc học Liên Xô 
cũ), văn hóa bao gồm hai hệ thống với 4 thành 
tố cơ bản: văn hóa sản xuất, văn hóa đảm bảo 
đời sống, văn hóa chuẩn mực xã hội (luật lệ, 
nghi lễ, phong tục) và văn hóa nhận thức. Trong 
đó Markarian cho rằng, văn hóa sản xuất là 
thành tố quan trọng bậc nhất [3]. 
Dưới góc độ các thành tố, văn hóa sản xuất 
gồm năng lực, tài sản (dự trữ, nguồn lực, yêu cầu 
và tiếp cận) và các hoạt động cần có để bảo đảm 
sinh kế. Theo R. Chambers & G. Conway, sinh 
kế chỉ bền vững khi nó có thể đương đầu và phục 
hồi sau các cú sốc, duy trì hoặc cải thiện năng 
lực, tài sản và cung cấp các cơ hội sinh kế bền 
vững cho các thế hệ kế tiếp [14]. 
Theo Caroline Ashley (1999), Leo de Haan 
(2012), Stephen Morse (2013), về mặt giá trị, các 
loại vốn của sản xuất gồm: vốn tự nhiên, vốn con 
người, vốn xã hội, vốn ... i nước, nhận thấy một số vấn đề sau: 
Một là, tuy chưa có nhiều công trình nghiên 
cứu riêng biệt về văn hóa sản xuất nhưng các 
nghiên cứu có nội dung văn hóa sản xuất, biến 
đổi văn hóa sản xuất đã được đề cập trong các 
nghiên cứu về văn hóa sinh kế, biến đổi văn hóa 
sinh kế. Các nghiên cứu này bước đầu đã xây 
dựng được cơ sở lý luận mang nội hàm về văn 
hóa sản xuất. Tuy nhiên, các khái niệm, các biểu 
hiện về văn hóa sản xuất, biến đổi văn hóa sản 
xuất, cần tiếp tục được làm rõ. 
Hai là, việc vận dụng các lý thuyết về biến đổi 
văn hóa truyền thống, văn hóa địa phương, văn 
hóa làng nghề, văn hóa gia đình, văn hóa tộc 
người khá phổ biến nhưng lý thuyết biến đổi 
văn hóa sản xuất còn rất hạn chế. Các tác giả 
trong nước chủ yếu dựa vào lý thuyết về giao lưu 
và tiếp biến văn hóa trong nghiên cứu về biến đổi 
văn hóa. Tiếp cận dưới góc độ địa lí văn hóa đối 
với sự biến đổi văn hóa chưa được quan tâm. 
Ba là, hoạt động sản xuất tồn tại cùng với sự 
phát triển của con người. Do vậy, văn hóa sản 
xuất rất gần gũi và phổ biến trong đời sống xã 
hội. Nghiên cứu về văn hóa sản xuất, biến đổi 
văn hóa sản xuất có ý nghĩa cả về lý luận và thực 
tiễn, góp phần phát triển kinh tế - xã hội. Tuy 
nhiên, các yếu tố làm biến đổi văn hóa sản xuất 
và vai trò của các yếu tố chưa được xác định. 
3.2. Quan niệm về văn hóa sản xuất và biến 
đổi văn hóa sản xuất 
Văn hóa sản xuất 
Văn hóa sản xuất trước hết phải mang những 
đặc điểm chung của văn hóa, đó là tính hệ thống, 
tính giá trị, tính nhân văn và tính lịch sử. Tính 
hệ thống: thể hiện trong mọi hoạt động của sản 
xuất. Tính giá trị: văn hóa sản xuất thực hiện 
chức năng điều chỉnh, giúp cho sản xuất duy trì 
trạng thái cân bằng động, không ngừng hoàn 
thiện và thích nghi với những biến đổi của xã 
hội, giúp định hướng các chuẩn mực và là động 
lực của phát triển sản xuất. Tính nhân văn: văn 
hóa sản xuất là sợi dây nối liền con người với 
con người trong quá trình sản xuất, thực hiện 
chức năng giao tiếp và có tác dụng liên kết họ 
với nhau. Tính lịch sử: tạo cho văn hóa sản xuất 
một bề dày, một chiều sâu và được duy trì, tích 
lũy và tái tạo trong cộng đồng người qua không 
gian và thời gian. 
Nội dung của văn hóa sản xuất thể hiện trong 
tất cả các yếu tố cơ bản của quá trình sản xuất, 
bao gồm sức lao động; đối tượng lao động; tư 
liệu lao động; quan hệ sở hữu; tổ chức sản xuất; 
quan hệ phân phối. 
Ở sức lao động, văn hóa sản xuất thể hiện ở 
những năng lực thể chất, trí tuệ và tinh thần tồn 
tại trong mỗi con người và được vận dụng để sản 
xuất ra giá trị thặng dư. Sức lao động là khả năng 
lao động của con người, là điều kiện tiên quyết 
của mọi quá trình sản xuất. 
Với đối tượng lao động, văn hóa sản xuất thể 
hiện ở trình độ khai thác các loại tài nguyên như 
đất đai, khoáng sản, lâm hải sản... hay hiệu quả 
sử dụng với các nguyên vật liệu đầu vào của sản 
xuất (như phôi thép, bông, sợi dệt...). 
Với tư liệu lao động, văn hóa sản xuất thể 
hiện ở tính hiện đại của máy móc, thiết bị, dây 
chuyền sản xuất, công nghệ được sử dụng 
Tạp chí Nghiên cứu Địa lý nhân văn, số 2(33) - Tháng 6/2021 
24 
nhằm biến đối tượng lao động thành sản phẩm 
đáp ứng nhu cầu của con người. 
Về quan hệ sở hữu, văn hóa sản xuất thể hiện 
ở sự phù hợp của các hình thức sở hữu với sự 
phát triển của lực lượng sản xuất trong mỗi thời 
kỳ. Nó có thể thúc đẩy, giải phóng hay hạn chế, 
cản trở việc sử dụng hiệu quả các nguồn lực. 
Về tổ chức sản xuất, văn hóa sản xuất thể hiện 
ở khả năng phối hợp, kết hợp giữa sức lao động 
và đối tượng lao động cho phù hợp với yêu cầu, 
nhiệm vụ sản xuất, qui mô sản xuất và công nghệ 
sản xuất đã được xác định nhằm sản xuất ra sản 
phẩm có chất lượng đáp ứng nhu cầu của thị 
trường. Việc tổ chức sản xuất hợp lí sẽ đem lại 
hiệu quả cao trong việc sử dụng nhiên liệu, vật 
liệu, lao động, máy móc thiết bị, đồng thời giảm 
thiểu ô nhiễm môi trường. 
Về quan hệ phân phối, trong nền kinh tế thị 
trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam 
hiện nay, phân phối thực hiện theo kết quả lao 
động, hiệu quả kinh tế và mức đóng góp vốn và 
các nguồn lực khác. 
Theo cấu trúc, các thành tố cơ bản của văn 
hóa sản xuất, gồm: văn hóa ứng xử với các 
nguồn lực sản xuất; văn hóa thể hiện trong các 
hoạt động sản xuất; văn hóa thể hiện trong các 
nghi lễ gắn với sản xuất. 
Các nguồn lực sản xuất cần đảm bảo khai 
thác, sử dụng hợp lý, hiệu quả, bền vững. 
Hoạt động sản xuất ở các ngành nghề khác 
nhau đòi hỏi các công cụ sản xuất, khoa học 
công nghệ, kỹ năng nghề nghiệp và trình độ tổ 
chức sản xuất khác nhau nhằm đạt được hiệu quả 
cao của sản xuất. 
Nghi lễ là nghi thức tâm linh của cộng đồng, 
nhóm người, hội, phường cùng ngành nghề sản 
xuất vì niềm tin, tín ngưỡng trong hoạt động 
nghề nghiệp để gửi gắm những mong ước về sự 
thuận lợi diễn ra thường niên. Nghi lễ sản xuất 
gia đình theo phong tục tập quán có cách thức 
thờ phụng sản xuất khác nhau. 
Tóm lại, văn hóa sản xuất là một hệ thống 
các yêu cầu tương đối ổn định về chất lượng, 
trình độ phát triển của một phương thức sản 
xuất, được duy trì, tái tạo trong cộng đồng qua 
không gian và thời gian. Về mặt cấu trúc, văn 
hóa sản xuất, bao gồm các thành tố cơ bản là: 
văn hóa ứng xử với các nguồn lực sản xuất; văn 
hóa thể hiện trong các hoạt động sản xuất; văn 
hóa thể hiện trong các nghi lễ gắn với sản xuất. 
Biến đổi văn hóa sản xuất 
Biến đổi của văn hóa sản xuất bắt nguồn từ hai 
tác nhân then chốt: điều kiện địa lí tự nhiên và 
điều kiện giao lưu văn hóa qua sự tác động của 
các yếu tố bên trong và bên ngoài của sản xuất. 
Các điều kiện địa lí tự nhiên (phạm vi không 
gian, địa hình, khí hậu, thủy văn, tài nguyên, môi 
trường) vừa là nguyên liệu vừa là tác nhân 
hình thành nền văn hóa gốc. Cách thức tận dụng, 
thích nghi, ứng phó, chế ngự thiên nhiên phụ 
thuộc vào kinh nghiệm, tri thức, kỹ thuật của con 
người. Con người không phản ứng giống nhau 
trước những tác nhân của môi trường tự nhiên. 
Vậy nên, trong cùng một điều kiện địa lí tự nhiên 
tương đối đồng nhất có các không gian văn hóa 
khác nhau. 
Mặt khác, môi trường khác nhau, điều kiện 
khác nhau thì con người cũng ứng xử khác nhau; 
dấu ấn của môi trường để lại rõ nét trong mô 
thức văn hóa. Điển hình như môi trường đồng 
bằng, miền núi, cao nguyên, duyên hải quy định 
các hoạt động kinh tế khác nhau như săn bắn, 
hái lượm, làm nương rẫy, đánh cá, làm ruộng 
nước...[8]. Dựa vào lí thuyết địa lí văn hóa để 
tìm hiểu cách ứng xử của cộng đồng với môi 
trường tự nhiên thông qua các hình thức khai 
thác nguồn lợi của tự nhiên. 
Giao lưu văn hóa là tiền đề của tiếp thu, biến 
đổi những yếu tố văn hóa bên ngoài thành những 
yếu tố của văn hóa cộng đồng, đồng thời biến 
đổi văn hóa cộng đồng để thích nghi với những 
yếu tố văn hóa mới. Nếu giao lưu văn hóa để 
tăng cường hiểu biết và thỏa mãn nhu cầu của 
Đinh Trọng Thu - Một số vấn đề lý luận về biến đổi văn hóa sản xuất 
25 
con người, thì tiếp biến văn hóa sẽ biến đổi văn 
hóa cộng đồng. Ngày nay, qua giao lưu tiếp xúc 
đã học hỏi được nhiều từ nền khoa học kỹ thuật 
nông nghiệp tiên tiến, sản xuất nông nghiệp của 
Việt Nam có bước phát triển nhảy vọt. 
Biến đổi văn hóa sản xuất là sự thay đổi về 
chất lượng và trình độ phát triển của quá trình 
sản xuất (bao gồm sức lao động, đối tượng lao 
động, tư liệu lao động và tính chất phát triển của 
quan hệ sản xuất) nhằm đảm bảo và phát triển 
kinh tế của cộng đồng. 
Biến đổi văn hóa sản xuất biểu hiện trên 
những sự thay đổi chủ yếu như: sự thay đổi về 
thể lực, trí lực của con người được sử dụng trong 
quá trình lao động sản xuất; sự thay đổi trong 
ứng xử với đối tượng lao động là các tài nguyên 
có sẵn trong tự nhiên (như đất đai, khoáng 
sản); sự thay đổi trong ứng xử với đối tượng 
lao động đã qua chế biến (như các nguyên, vật 
liệu...); sự thay đổi trong ứng xử với tư liệu lao 
động (máy móc, thiết bị kỹ thuật, dây chuyền 
sản xuất); sự thay đổi trong quan hệ giữa 
người với người trong quá trình sản xuất (quan 
hệ sở hữu về tư liệu sản xuất, tổ chức lao động 
và phân phối sản phẩm); sự thay đổi thể hiện 
trong các nghi lễ cộng đồng, nghi lễ gia đình gắn 
với sản xuất. 
Khung phân tích biến đổi văn hóa sản xuất 
Văn hóa sản xuất chịu sự tác động bởi nhiều 
yếu tố khác nhau, gồm cả từ bên ngoài và bên 
trong, trực tiếp và gián tiếp. Các yếu tố tác động 
từ bên ngoài như sự phát triển kinh tế thị trường, 
khoa học công nghệ, sự giao lưu hợp tác quốc 
tế; các yếu tố từ bên trong như cơ chế chính 
sách, việc triển khai thực hiện các chương trình, 
dự án phát triển. 
Hình 1. Sơ đồ khung phân tích biến đổi văn hóa sản xuất 
Khung phân tích (Hình 1) xem xét bối cảnh 
chung như là nhân tố gián tiếp tác động đến văn 
hóa sản xuất, và các chương trình kinh tế được 
xem xét như là nhân tố trực tiếp tác động làm 
thay đổi các nguồn lực sản xuất, dẫn tới thay đổi 
các hoạt động sản xuất, từ đó tìm hiểu, đánh giá 
sự biến đổi văn hóa sản xuất thông qua sự biến 
đổi các thành tố của văn hóa sản xuất. 
4. Kết luận 
Bài viết đã tiếp thu những giá trị đóng góp 
của các lý thuyết địa lí văn hóa, tiếp biến văn 
hóa, công trình nghiên cứu về văn hóa sản xuất, 
- Các nhân tố bên 
ngoài (sự phát triển 
kinh tế thị trường; 
khoa học, công 
nghệ; giao lưu, hợp 
tác quốc tế). 
- Các yếu tố bên 
trong (cơ chế, 
chính sách; triển 
khai các chương 
trình, dự án). 
Áp lực Tình trạng Phản hồi 
Thực trạng văn hóa 
sản xuất: 
- Văn hóa ứng xử 
với các nguồn lực 
sản xuất; 
- Văn hóa thể hiện 
trong các hoạt 
động sản xuất; 
- Văn hóa thể hiện 
trong các nghi lễ 
gắn với sản xuất 
- Ban Chỉ đạo 
các chương trình, 
dự án 
- Chính quyền địa 
phương, doanh 
nghiệp, người dân 
Áp lực 
Hoạt động 
sản xuất 
Thông tin 
Phản hồi 
xã hội 
Tạp chí Nghiên cứu Địa lý nhân văn, số 2(33) - Tháng 6/2021 
26 
văn hóa sinh kế... Tác giả cho rằng về mặt cấu 
trúc, văn hóa sản xuất là một bộ phận chủ yếu 
của văn hóa sinh kế, thể hiện ở trình độ của các 
yếu tố cơ bản của quá trình sản xuất. 
Văn hóa sản xuất chịu sự tác động bởi nhiều 
yếu tố khác nhau, gồm cả từ bên ngoài và bên 
trong. Biến đổi của văn hóa sản xuất bắt nguồn 
từ điều kiện địa lí tự nhiên và điều kiện giao lưu 
văn hóa. 
Cùng với sự phát triển sản xuất, văn hóa sản 
xuất ngày càng gần gũi và phổ biến trong đời 
sống xã hội. Nghiên cứu về văn hóa sản xuất, 
biến đổi văn hóa sản xuất có ý nghĩa cả về lý 
luận và thực tiễn, góp phần phát triển - kinh tế 
xã hội. 
Bài báo là sản phẩm của đề tài khoa học cấp bộ “Biến đổi văn hóa sản xuất dưới tác động của 
chương trình OCOP ở thị xã Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh” do Viện Địa lí nhân văn chủ trì, ThS. 
NCVC. Đinh Trọng Thu làm chủ nhiệm. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Nguyễn Thị Vân Anh (2018), Văn hóa đảm bảo đời sống của người Nùng Cháo (trường hợp thôn Nà Lầu xã Tân 
Thanh, huyện Văn Lãng, tỉnh Lạng Sơn). Luận án Tiến sĩ Văn hóa học, Học viện Khoa học Xã hội. 
2. Huỳnh Công Bá (2015), Đặc trưng và sắc thái văn hóa vùng - tiểu vùng ở Việt Nam. Nhà xuất bản Thuận Hóa. Thanh 
Hóa. 
3. Trần Văn Bình (2015), Biến đổi sinh kế của cộng đồng người Dao vùng lòng hồ Thủy Điện Tuyên Quang sau tái định 
cư. Quỹ phát triển Khoa học và Công nghệ Quốc gia và Trường Đại học Văn hóa Hà Nội. 
4. Nguyễn Phương Châm (2011), Biến đổi văn hóa ở các làng quê hiện nay (trường hợp làng Đồng Kỵ, Trang Liệt và 
Đình Bảng thuộc huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh). Nhà xuất bản Văn hóa Thông tin, Hà Nội. 
5. Bùi Văn Mạnh (2020), Biến đổi văn hóa sinh kế của cư dân tại quần thể danh thắng Tràng An trước tác động của du 
lịch. Luận án Tiến sỹ văn hóa học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. 
6. Nguyễn Văn Quyết (2013), Nghiên cứu sựu biến đổi văn hóa của các cộng đồng nông nghiệp - nông thôn trong quá 
trình phát triển các khu công nghiệp, Luận án Tiến sỹ văn hóa học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh. 
7. Đỗ Lan Phương và cộng sự (2010), Những nhân tố tác động đến biến đổi văn hóa Việt Nam thập niên đầu thế kỷ XXI 
(2001-2010). Đề tài khoa học cấp bộ, Viện Nghiên cứu Văn hóa, Học viện Khoa học xã hội Việt Nam. 
8. Ngô Đức Thịnh (2004), Văn hóa vùng và phân vùng văn hóa. Nhà xuất bản Trẻ Thành phố Hồ Chí Minh. 
9. Nguyễn Thị Tuyến (2014), Biến đổi văn hóa sản xuất ở vùng tái định cư thủy điện Sơn La. Tạp chí Văn hóa Nghệ 
thuật, số 361, năm 2014. 
10. Trần Ngọc Thêm (2004), Tìm về bản sắc văn hoá Việt Nam. Nhà Xuất bản Tổng hợp, Thành phố Hồ Chí Minh. 
11. Trần Ngọc Thêm (1999), Cơ sở văn hóa Việt Nam. Nhà xuất bản Giáo dục. Hà Nội. 
12. Trần Quốc Vượng (2009), Cơ sở văn hóa Việt Nam. Nhà xuất bản Giáo dục. Hà Nội. 
13. Đỗ Thị Hải Yến (2018), Biến đổi văn hóa mưu sinh của cư dân xã Hương Sơn, huyện Mỹ Đức, thành phố Hà Nội trong 
bối cảnh phát triển du lịch, Luận án Tiến sỹ văn hóa học, Trường Đại học Văn hóa Hà Nội. 
14. Chambers, R. & Conway, G. (1992), Sustainable rural livelihoods: practical concepts for the 21st century. Institute of 
Development Studies (UK). 
15. Celenk, O. & Van De Vijver, F. J. (2011), Assessment of acculturation: Issues and overview of measures. Online 
Readings in Psychology and Culture, 8, 10. 
16. Krober, A.K., Untereiner, C.W. (1952), Culture: A critical review of concepts and definitions. Vintage Books New York. 
17. Morgan, Lewis Henry (1877), Ancient Society. Chicago: H. Kerr 
18. Taylor, Edward b., (1891), Primitive Culture, London: J. Murray 
19. 
de-dat-ra.html. Truy cập ngày 10 tháng 5 năm 2021. 
20. https://www.tapchicongsan.org.vn/web/guest/-oi-ngoai2/-/2018/513710/van-hoa-voi-su-phat-trien-ben-vung-cua-dat-
nuoc.aspx. Truy cập ngày 10 tháng 5 năm 2021. 
Thông tin tác giả: 
Đinh Trọng Thu - Viện Địa lí nhân văn 
Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam 
Địa chỉ: Số 1 Liễu Giai, Ba Đình, Hà Nội 
Email: dinhtrongthu2003@gmail.com; ĐT: 0973.730.896 
Nhật ký tòa soạn 
Ngày nhận bài: 11-04-2021 
Biên tập: 05-2021 

File đính kèm:

  • pdfmot_so_van_de_ly_luan_ve_bien_doi_van_hoa_san_xuat.pdf