Dấu ấn đô thị Hà Nội - Huế - Sài Gòn xưa qua nghệ thuật ứng xử bản địa

Nhiều năm qua, khái niệm di sản văn hóa (kiến trúc) trong thực tế và nghiên cứu

học thuật được phổ cập tương đối rộng rãi. Ở nước đang phát triển, khi đề cập đến

bảo tồn dấu ấn (trong) đô thị, nhà quản lý đô thị liên tưởng tới công tác trùng tu

một công trình văn hóa, lịch sử, tín ngưỡng (hay) kiến trúc cổ. Tuy nhiên trong

thực tế, nhiều công trình đã được bảo tồn khá thành công ở Việt Nam; song hình

ảnh, nét đặc trưng của nơi chốn đó dần biến dạng và bị phá vỡ bởi nhiều nguyên

nhân. Vì thế, với cách tiếp cận mới mẻ hơn về nghiên cứu mối quan hệ tương tác

giữa con người với môi trường di sản (vật thể) cho thấy sự cần thiết chuyển dịch tư

duy về nhận diện dấu ấn đô thị trong chính cộng đồng trước quá trình đô thị hóa

mạnh mẽ tại đô thị đại diện vùng-miền như đô thị Hà Nội, Huế và thành phố Hồ

Chí Minh là rất cần thiết. Tìm hiểu thêm về khu 36 phố phường, phố Gia Hội- Chợ

Dinh và Sài Gòn xưa, không những thấy rõ “những dấu ấn nơi chốn” được trải

nghiệm thông qua mối tương tác gìn giữ tiềm ẩn mà còn nắm bắt được quá trình

biến đổi và giải nghĩa sự hình thành cấu trúc liên quan. Bài viết làm rõ một số nền

tảng cốt lõi tạo dựng dấu ấn đô thị bản địa. Đây là cơ sở cho các nhà đô thị tiếp

cận, xây dựng chương trình bảo tồn di sản văn hóa tích hợp với phát triển đô thị bền vững.

Dấu ấn đô thị Hà Nội - Huế - Sài Gòn xưa qua nghệ thuật ứng xử bản địa trang 1

Trang 1

Dấu ấn đô thị Hà Nội - Huế - Sài Gòn xưa qua nghệ thuật ứng xử bản địa trang 2

Trang 2

Dấu ấn đô thị Hà Nội - Huế - Sài Gòn xưa qua nghệ thuật ứng xử bản địa trang 3

Trang 3

Dấu ấn đô thị Hà Nội - Huế - Sài Gòn xưa qua nghệ thuật ứng xử bản địa trang 4

Trang 4

Dấu ấn đô thị Hà Nội - Huế - Sài Gòn xưa qua nghệ thuật ứng xử bản địa trang 5

Trang 5

Dấu ấn đô thị Hà Nội - Huế - Sài Gòn xưa qua nghệ thuật ứng xử bản địa trang 6

Trang 6

Dấu ấn đô thị Hà Nội - Huế - Sài Gòn xưa qua nghệ thuật ứng xử bản địa trang 7

Trang 7

Dấu ấn đô thị Hà Nội - Huế - Sài Gòn xưa qua nghệ thuật ứng xử bản địa trang 8

Trang 8

Dấu ấn đô thị Hà Nội - Huế - Sài Gòn xưa qua nghệ thuật ứng xử bản địa trang 9

Trang 9

Dấu ấn đô thị Hà Nội - Huế - Sài Gòn xưa qua nghệ thuật ứng xử bản địa trang 10

Trang 10

pdf 10 trang viethung 5320
Bạn đang xem tài liệu "Dấu ấn đô thị Hà Nội - Huế - Sài Gòn xưa qua nghệ thuật ứng xử bản địa", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Dấu ấn đô thị Hà Nội - Huế - Sài Gòn xưa qua nghệ thuật ứng xử bản địa

Dấu ấn đô thị Hà Nội - Huế - Sài Gòn xưa qua nghệ thuật ứng xử bản địa
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, Trường Đại học Khoa học, ĐH Huế Tập 18, Số 1 (2021) 
97 
DẤU ẤN ĐÔ THỊ HÀ NỘI - HUẾ - SÀI GÒN XƯA 
QUA NGHỆ THUẬT ỨNG XỬ BẢN ĐỊA 
Ngô Minh Hùng 
Trường Đại học Văn Lang 
Email: hung.nm@vlu.edu.vn 
Ngày nhận bài: 17/6/2021; ngày hoàn thành phản biện: 17/6/2026; ngày duyệt đăng: 22/6/2021 
TÓM TẮT 
Nhiều năm qua, khái niệm di sản văn hóa (kiến trúc) trong thực tế và nghiên cứu 
học thuật được phổ cập tương đối rộng rãi. Ở nước đang phát triển, khi đề cập đến 
bảo tồn dấu ấn (trong) đô thị, nhà quản lý đô thị liên tưởng tới công tác trùng tu 
một công trình văn hóa, lịch sử, tín ngưỡng (hay) kiến trúc cổ... Tuy nhiên trong 
thực tế, nhiều công trình đã được bảo tồn khá thành công ở Việt Nam; song hình 
ảnh, nét đặc trưng của nơi chốn đó dần biến dạng và bị phá vỡ bởi nhiều nguyên 
nhân. Vì thế, với cách tiếp cận mới mẻ hơn về nghiên cứu mối quan hệ tương tác 
giữa con người với môi trường di sản (vật thể) cho thấy sự cần thiết chuyển dịch tư 
duy về nhận diện dấu ấn đô thị trong chính cộng đồng trước quá trình đô thị hóa 
mạnh mẽ tại đô thị đại diện vùng-miền như đô thị Hà Nội, Huế và thành phố Hồ 
Chí Minh là rất cần thiết. Tìm hiểu thêm về khu 36 phố phường, phố Gia Hội- Chợ 
Dinh và Sài Gòn xưa, không những thấy rõ “những dấu ấn nơi chốn” được trải 
nghiệm thông qua mối tương tác gìn giữ tiềm ẩn mà còn nắm bắt được quá trình 
biến đổi và giải nghĩa sự hình thành cấu trúc liên quan. Bài viết làm rõ một số nền 
tảng cốt lõi tạo dựng dấu ấn đô thị bản địa. Đây là cơ sở cho các nhà đô thị tiếp 
cận, xây dựng chương trình bảo tồn di sản văn hóa tích hợp với phát triển đô thị 
bền vững. 
Từ khóa: bảo tồn di sản, đô thị di sản, nơi chốn, nghệ thuật ứng xử. 
1. BỐI CẢNH CHUNG 
Lịch sử hình thành và phát triển đất nước Việt Nam trải qua nhiều thăng trầm 
trên đặc điểm địa hình, khí hậu phía Bắc, miền Trung và phía Nam tương đối rõ rệt. 
Từ thời phong kiến, trước khi nằm dưới sự bảo hộ và cai trị của người Pháp, đất nước 
được phân định thành ba vùng địa giới không gian Bắc kỳ, Trung kỳ và Nam kỳ (từ 
1861 đến 1945). Tại mỗi vùng, Hà Nội, Huế và Sài Gòn trở thành tâm điểm phát triển 
của bộ máy hành chính thuộc địa, để rồi hình ảnh đô thị phương Tây dần xuất hiện 
Dấu ấn đô thị Hà Nội - Huế - Sài Gòn xưa qua nghệ thuật ứng xử bản địa 
98 
làm thay đổi nhiều mặt (văn hóa, xã hội, đời sống, kiến trúc, lối ứng xử giữa phương 
Đông-phương Tây, cũ-mới) tại các khu vực phát triển. 
Cho đến ngày nay, đô thị Hà nội, Huế và Sài Gòn xưa được thế giới biết đến 
thông qua những dấu ấn riêng, mà ở đó chúng ta biết đến qua những đặc điểm nghệ 
thuật, kiến trúc công trình đã tồn tại, được bảo tồn. Tuy nhiên, hình ảnh, nét đặc trưng, 
nghệ thuật tổ chức không gian- cấu trúc xung quanh tạo nên dấu ấn đô thị (hay nơi 
chốn, "place") dần biến dạng và bị phá vỡ bởi nhiều nguyên nhân (khách quan lẫn chủ 
quan). 
Với góc nhìn đa chiều tích hợp, dựa trên nền tảng kiến trúc, quy hoạch, bảo tồn 
di sản văn hóa (vật thể-phi vật thể), môi trường, ứng xử cộng đồng, nghiên cứu chỉ ra 
thêm những dấu ấn, nét đặc trưng, giá trị vật thể- phi vật thể của khu vực lõi đô thị 
thành phố Hà nội, Huế và Sài Gòn xưa thông qua “hồn phố cổ” Hà Nội từ không gian 
bên ngoài xoáy sâu vào nội tại bên trong con phố, cho đến sự “giao thoa” của vùng đất 
Gia Hội-Chợ Dinh cùng với giá trị tiềm ẩn trong hệ di tích đình, đền, chùa, phủ đệ đa 
dạng và phong phú. Xuôi về phương Nam, vùng đất của đô thị sông nước- văn hóa 
Nam Bộ với lịch sử hình thành ghi dấu ấn của những con người cởi mở, kết đoàn vượt 
qua khó khăn, đa dạng văn hóa tạo nên “hồn cốt Sài Gòn”- một “Hòn Ngọc Viễn 
Đông”còn mãi đến ngày nay. 
2. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU 
2.1. Thành phố với nét đặc trưng khu phố cổ Hà Nội 
Hà Nội là vùng đất ngàn năm văn hiến với bề dày lịch sử truyền thống và trải 
qua nhiều thăng trầm cùng chiều dài lịch sử đất nước. Những biến đổi về không gian 
kiến trúc và đô thị qua các thời kỳ đã phần nào tạo dựng nên cốt cách và lối ứng xử 
riêng của người Hà Thành cho tới ngày nay. Lõi không gian đô thị ấy, khu phố cổ Hà 
nội, trở thành nền tảng phát triển và mở rộng sau này- là một thành phố Hà Nội quy 
mô lớn trên thế giới. 
Cho đến nay, nét văn hóa đặc trưng, "hồn vía" của Hà Nội, vẫn thể hiện đậm 
sắc nhất tại khu vực Phố cổ- nơi đã tồn tại lâu đời với sức ảnh hưởng lớn, đã minh 
chứng "mối quan hệ mật thiết" giữa các thành phần đô thị cổ ấy với người sử dụng 
(văn hóa ứng xử). 
• Hồn phố cổ 
Cái “Hồn” phố cổ đối với bất kỳ ai, cõ lẽ là những gì đang diễn ra: một gánh 
hàng rong, một góc phố liêu xiêu, một ngôi nhà cổ còn xót lại đâu đó quanh ta mà ít 
nơi còn giữ được. Đó chính là một phần vật chất cơ bản kiến tạo nên “Hồn” phố cổ từ 
ngàn đời nay mà cha ông ta gìn giữ cho đến ngày nay. Để hiểu tại sao phần vật chất ấy 
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, Trường Đại học Khoa học, ĐH Huế Tập 18, Số 1 (2021) 
99 
lại gắn bó với con người Hà Nội đến như vậy, mà bất kỳ ai đều không muốn xa rời 
nóvà nếu phải xa nó đồng nghĩa với những nỗi nhớ da riết- như một sự thiếu hụt 
không thể bù đắp bởi mỗi phần vật chất đó (những người hàng xóm, con phố, loài cây, 
những chỗ- nơi và âm thanh ở đó ẩn chứa vị ngọt ngào của các món ăn-mà chỉ có 
người Hà Nội biết). Từ đâu lại có được điều này? trải qua biết bao thăng trầm của lịch 
sử, những biến động của xã hội trong một thời gian dài, với mỗi nơi lại gắn với một 
con ngưòi, một sự kiện cụ thể mà cho đến nay điều đó luôn được ghi lại rõ nét qua 
từng gốc cây cổ thụ còn xót lại bên các Phố nghề ngày ấy. 
Liền kề là những ngôi nhà lúp xúp một rồi hai tầng với ô cửa ra vào rộng mở ở 
tầng dưới như chào đón những người khách vào một thế giới bên trong mang đặc 
trưng của lối sống truyền thống hoà quyện cách ứng xử nho nhã, thanh lịch của người 
Hà Nội. Thời gian và con người đã tạo nên một đặc điểm khó phai đối với mỗi một 
người từng sinh ra, lớn lên trong cái khung cảnh ấy. Cho đến nay, cái khung cảnh ấy 
vẫn phảng p ... iai đoạn lịch sử TK18 - 
19 sau khi phố cổ Bao Vinh, thương cảng Thanh Hà lụi tàn vào cuối TK17. Cho nên, 
bảo tồn đô thị cổ này góp phần ghi lại những dấu ấn lịch sử hình thành, phát triển của 
vùng đất Thuận Hóa - Phú Xuân - Huế, đồng thời khai thác hiệu quả những giá trị "vật 
thể - phi vật thể" theo phương pháp khoa học sẽ làm động lực phát triển kinh tế - xã 
hội và công nghiệp du lịch trong giai đoạn mới của đất nước. 
Thực tế cho thấy, phần lớn các di tích đều đang bị xâm hại và bê tông hoá do 
các yếu tố khách quan và chủ quan đang đánh mất dần giá trị vốn có tích tụ qua các 
giai đoạn chuyển mình của vùng Thuận Hóa - Phú Xuân. Trong đó các cấu kiện và các 
loại vật liệu xây dựng đã tồn tại quá niên hạn, hầu hết trên trăm tuổi nên hư hỏng 
nhiều và hiện nay mái, kết cấu, mặt tiền, các chi tiết kiến trúc, v.v dần bị thay thế 
bằng các loại vật liệu kém chất lượng, rẻ tiền làm giảm thẩm mỹ kiến trúc, giá trị tâm 
linh, chất lượng và sự vĩnh cửu của số công trình đó. Số lượng di tích hiện có lên tới cả 
trăm công trình được chia thành bốn đối tượng: (1) Đình - Đền - Chùa; (2) Phủ đệ; (3) 
Công trình kiến trúc cổ truyền thống; (4) Dinh thự nhà vườn Huế, tập trung chủ yếu 
trên hai phường Phú Cát và Phú Hiệp. Nguyên nhân phá hoại di tích rất đa dạng, dưới 
nhiều hình thức và ở mức độ khác nhau theo ba hướng hư hỏng từ: (i) trên xuống 
dưới; (ii) trong ra ngoài và (iii) hạ tầng kỹ thuật thấp kém. 
• Bảo tồn những giá trị "vật thể" 
Từ kinh nghiệm về bảo tồn các di sản thế giới ở Việt Nam và thế giới cùng các 
tác nhân hủy hoại di tích ở Gia Hội -Chợ Dinh, thì định hướng tu bổ di tích từ top - 
down (theo mặt đứng công trình) rất thích hợp và đem lại hiệu quả cao bởi khả năng 
làm tăng tuổi thọ công trình về kết cấu, thành phần cấu tạo và các chi tiết kiến trúc 
theo nguyên gốc ban đầu. 
Hơn nữa, nguyên tắc cơ bản của xu hướng này luôn được gắn kết với từng đối 
tượng cụ thể, tương thích với hình thức sở hữu phức tạp và cụ thể là: (i) duy trì tối đa; 
(ii) khôi phục hợp lý và (iii) tiến hành chỉnh trang một cách cẩn thận, tỉ mỉ nhằm phát 
huy tối đa yếu tố chân- xác thực của di tích và đem lại những giá trị văn hóa - lịch sử 
trong không gian cổ kính hòa hợp với không khí thành phố đang phát triển. 
• Bảo tồn những giá trị "phi vật thể" 
Là một phần không thể thiếu trong công tác bảo tồn bởi nó đem lại không gian 
truyền thống bằng việc khôi phục các hoạt động đặc sắc của cộng đồng hoà quyện vào 
Dấu ấn đô thị Hà Nội - Huế - Sài Gòn xưa qua nghệ thuật ứng xử bản địa 
102 
tiến trình phát triển đô thị cổ. Những giá trị ấy được chuyển tải qua các sinh hoạt lễ hội 
và sản phẩm truyền thống ông cha để lại. Ở đây, các sản phẩm truyền thống (châm 
nón, mộc, mây tre đan, nghệ thuật ẩm thực) là yếu tố quan trọng duy trì bản sắc dân 
tộc, đồng thời phát triển kinh tế hộ gia đình (informal sector) và đặc biệt là khả năng 
truyền bá thông tin, văn hoá, tín ngưỡng khu vực tới các dân tộc muôn phương. Điều 
lo ngại bắt nguồn từ tiến trình hiện đại hóa đã xóa nhòa nhiều giá trị "phi vật thể" bởi 
quá trình "lôi kéo - thúc đẩy" diễn ra mạnh mẽ giữa thành thị và nông thôn. Việc khôi 
phục lại các ngành nghề truyền thống thất truyền thực sự cần thiết và cấp bách. Khác 
với Huế, một Sài Gòn xưa với nhiều đặc điểm là kết tinh của một quá trình ứng xử lâu 
dài của cộng đồng với hình thái đô thị được duy trì và phảng phất cho đến ngày nay. 
2.3. Sài Gòn xưa (Thành phố Hồ Chí Minh ngày nay) 
Đô thị Sài Gòn với hơn 320 năm phát triển đã và đang chứa đựng một quỹ di 
sản kiến trúc đồ sộ và quý giá phản ánh giai đoạn hình thành và phát triển, đặc biệt 
trong không gian của một đô thị sông nước - văn hóa Nam Bộ độc đáo. Theo dòng lịch 
sử, Sài Gòn hình thành trên vùng đất hoang sơ được chuyển đổi và cải tạo bởi người 
Khơ-me, để rồi trở thành vùng đất trù phú trên các khu vực đất cao. Sau đó, người Việt 
đến mở rộng phạm vi và khai khẩn xuống phía Nam vào cuối TK 16 và đầu TK 17. Từ 
khi hai trạm thuế quan được lập tại Prei Nokor (Sài Gòn) và Kas Krobey (Bến Nghé), 
nơi đây đã cư tụ thêm nhiều thành phần (nông dân, người giàu- nghèo, tù nhân, quan 
quân) người Việt từ miền Trung đến để: (1) sinh sống- làm ăn- buôn bán; (2) tránh 
những hà khắc phong kiến và; (3) những cuộc tranh giành nội bộ. Nhiều người di cư 
đến đây đều có điểm chung “thích” đương đầu với thử thách để kiến tạo cuộc sống 
mới; cũng như, làm giàu trên khu vực được khai khẩn. Khi kết tạo thành nhóm, họ làm 
việc và giúp đỡ nhau với tinh thần “tứ hải giai huynh đệ” trong mọi hoạt động. Cho 
nên, họ (được xem như người Sài Gòn gốc) là những con người cởi mở và đoàn kết 
vượt qua khó khăn. 
Sau khi Thống suất Nguyễn Hữu Cảnh đặt chân tới vùng đất này năm 1698 và 
lập ra phủ Gia Định, những giao thoa và tiếp biến văn hóa dưới triều Nguyễn tạo nên 
một Sài Gòn đặc trưng bản địa. Thêm nữa, cộng đồng duy trì nguyên tắc “bán anh em 
xa, mua láng giềng gần” (hay) “làm chơi ăn thật” và “cứ làm” để mang lại cuộc sống 
tốt đẹp hơn. Nhìn chung, những người bản địa luôn năng động, sáng tạo và cởi mở, 
thực tế và có cách ăn nói khá tự do. 
Từ đó về sau, nhiều thế hệ người Sài Gòn vẫn luôn gìn giữ trong mình tình cảm 
yêu mến không gian cảnh quan đô thị và công trình kiến trúc Việt – Pháp - Ấn - Trung 
với thành phần kiến tạo nơi chốn cụ thể cho dù nhiều thứ đã đổi thay. Với Sài Gòn, 
một số công trình kiến trúc Pháp tiêu biểu như: dinh Norodom xưa (nay là dinh Độc 
Lập), dinh Xã Tây- Hotel de Ville (này là trụ sở UBND Tp. HCM), tòa án Nhân dân 
thành phố; dinh Thống đốc Nam Kỳ (nay bảo tàng); bưu điện trung tâm, chùa Giác 
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, Trường Đại học Khoa học, ĐH Huế Tập 18, Số 1 (2021) 
103 
Lâm, chùa Ông và chợ Lớn v.v là nơi lưu giữ đầy ắp kỷ niệm trong ký ức họ với 
nhiều câu chuyện thú vị khó phai. Hơn nữa, nhiều công trình tín ngưỡng (nhà thờ Đức 
Bà), văn hóa (nhà hát thành phố, Nouveau Theatre), giáo dục (trường Lê Quý Đôn, 
Chasseloup Laubac; trường Nguyễn Thị Minh Khai) và bệnh viện (Nhi đồng 2, từng là 
bệnh viện quân đội Pháp) đang nắm giữ một phần hơi thở - “hồn cốt của Sài Gòn”. 
Thú vị hơn, nhiều chi tiết của Sài Gòn còn lưu tụ tại góc không gian cụ thể. Một vài nơi 
như thế vẫn thường được nhắc đến một cách nuối tiếc. 
o Trung tâm thương mại Eden, góc Đồng Khởi và Lê Lợi - nơi có rạp chiếu 
phim hiện đại, cửa hàng cà phê Tây và cung cấp thông tin nóng thời cuộc trong thời kỳ 
Việt Nam cộng hòa. Nay đã mất một cách đáng tiếc! 
o Trung tâm thương mại Tax, xây dựng năm 1880 tại ngã tư Nguyễn Huệ và 
Lê Lợi- từng là nơi bán hàng hóa tiêu dùng có tiếng Sài Thành và tồn tại 134 năm. 
o Tòa nhà Crystal palace- nơi chốn dành cho các thế hệ nghệ sỹ, tại góc 
đường Lê Lợi- Nam Kỳ Khởi Nghĩa- Trương Công Định và Lê Thánh Tôn, đã không 
còn tồn tại nữa. 
o Hàng cây cổ thụ di sản trước nhà hát thành phố và dọc đường Tôn Đức 
Thắng. 
Tiếp đến, các chợ truyền thống là những hình ảnh thân thuộc với cộng đồng. 
Ngôi chợ mang dấu ấn quan trọng nhất đó là chợ Bến Thành được xây dựng năm 1914 
bởi chính quyền thuộc địa (hay) chợ Lớn xưa (nay là chợ Bình Tây, tên gọi khác: chợ 
Lớn mới). Ngoài ra, hình ảnh thành phố được “ký ức hóa” qua hệ cây xanh- mặt nước 
xưa như: kênh Cây Cầm, Chợ Vải, rạch Thị Nghè, Cầu Sấu, bến Nghé (Chinois), Xóm 
Dầu ở Sài Gòn. Còn ở Chợ Lớn, đó là rạch Chợ Lớn, Lò Gốm và Ông Bưởng; kênh Tàu 
Hũ, Hàng Bàng v.v.. 
Thật tiếc khi nguồn di sản kiến trúc, trong bối cảnh phát triển đô thị mạnh mẽ 
của Tp. HCM như hiện nay, đã dần bị thay thế. Một trong những khiếm khuyết, qua 
nghiên cứu, cho thấy đó chính là tìm hiểu và làm rõ ngôn ngữ đô thị và thành phần 
"không gian, cấu trúc và đối tượng gốc" của Sài Gòn xưa - một mô hình thu nhỏ hoàn 
hảo về tổ chức đô thị "thượng lưu" và "quân sự phòng thủ" (Ngô Minh Hùng và Logan, 
2015) của Paris (Pháp) dưới thời Napoleon đệ tam. 
Tuy nhiên, trước áp lực phát triển của đô thị sau thời kỳ thuộc địa, thống nhất, 
hội nhập và toàn cầu hóa hiện nay, mà chúng ta đã vô tình phá vỡ cấu trúc vốn có 
cùng với thành phần đô thị "hàm chứa nhiều ngữ nghĩa" của "Hòn Ngọc Viễn Đông" 
một thời mà người Pháp đã để lại. Do đó, hình ảnh "Paris của Phương Đông" đã lui 
dần vào quá khứ và sớm lãng quên nếu Thành phố tiếp tục thiếu đi những kế hoạch 
bảo tồn khẩn thiết những nguồn di sản còn xót lại. 
Dấu ấn đô thị Hà Nội - Huế - Sài Gòn xưa qua nghệ thuật ứng xử bản địa 
104 
Nhìn chung, nét đặc trưng khu phố cổ Hà Nội được bộc bạch thông qua phương pháp 
nghiên cứu khoa học, khai mở các giá trị thẩm thấu trong cộng đồng, dân phố cổ gắn với nơi 
chốn (công trình, không gian đô thị di sản bên ngoài, chia sẻ và các hình thái riêng khu vực) và 
hình ảnh đặc trưng của từng con đường, góc phố khu 36 phố phường. Xa hơn tới vùng đất giao 
thoa Gia Hội-Chợ Dinh (thành phố Huế), hệ di tích trong phạm vi nghiên cứu này đang đòi hỏi 
những hướng tu bổ di tích (top - down, bottom - up, hỗn hợp) nhằm bảo tồn những giá trị “vật 
thể - phi vật thể” và phát huy giá trị vốn có của khu vực ngày càng bền vững hơn. Trước quá 
trình đô thị hóa, đô thị Sài Gòn (thành phố Hồ Chí Minh) vẫn nắm giữ hơi thở mang đậm chất, 
hồn cốt Sài thành với những nơi chốn một thời gắn liền với cộng đồng (trung tâm thương mại 
Eden, tòa nhà Crystal Palace, thương xá Tax) và rất cần kế hoạch bảo tồn và phát triển đối 
với quỹ di sản văn hóa Thành phố giai đoạn CMCN 4.0 và chuyển đổi số. 
3. THAY CHO LỜI KẾT 
Qua nghiên cứu về di sản văn hóa, di sản đô thị và kiến trúc trong và ngoài 
nước cho thấy sự cần thiết chuyển dịch về tư duy hướng tới đô thị di sản trước quá 
trình đô thị hóa và toàn cầu hóa mạnh mẽ tại thành phố Hà Nội, Huế và Hồ Chí Minh. 
Những tương tác qua lại trong khu Phố cổ Hà Nội, nhân tố tiềm năng trong đô thị cổ 
Gia Hội- Chợ Dinh và bản chất ngữ nghĩa, dấu ấn đô thị "bị lãng quên" của Sài Gòn 
xưa dần được đúc rút làm tiền đề tạo dựng lại nét đặc trưng của các đô thị. Do đó, đây 
là cơ sở cho các nhà quy hoạch - quản lý đô thị và khoa học - bảo tồn tiếp cận, xây 
dựng chương trình bảo tồn di sản văn hóa tích hợp với phát triển đô thị; đồng thời, 
sớm hòa nhập môi trường quốc tế./. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
[1] . Ahmad Y (2006). The scope and definitions of heritage: from tangible to intangible. Heritage 
studies, Vol. 12, No.3, May 2006. 
[2] . CAND (2012). Chậm trễ bảo tồn di sản kiến trúc đô thị bị xâm hại. Cong An Nhan Dan Online, 
Website:  
[3] . Ngô Minh Hùng (2014). Bảo tồn môi trường Di sản. NXB Đại học Quốc gia TP. HCM, 
ISBN: 978-604-73-2087-5. 
[4] . Ngô Minh Hùng và Logan (2015). Re-identifying Ho Chi Minh City’s Heritage Resources In 
the Context of Vietnam’s Transformation, ICAS9, Adelaide, Australia. 
[5] . Ngô Minh Hùng (2006). Comprehensive written examination paper, National University of 
Singapore. Singapore. 
[6] . Nguyễn Bảo (2015). TP. HCM vào top 10 thành phố năng động nhất thế giới. Cổng thông tin 
điện tử Chính Phủ Thành phố Hồ Chí Minh. Internet: 
top-10-thanh-pho-nang-dong-nhat-the-gioi 
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, Trường Đại học Khoa học, ĐH Huế Tập 18, Số 1 (2021) 
105 
[7] . Jokilehto J (1999). A Century of Heritage Conservation. In: Journal of Architectural 
Conservation. No.3, November 1999. United Kingdom. 
[8] . Paddi (2015). Vietnam maps online, Website:  
[9] . Powell P (2005). Towards an underlying principle of cultural heritage. In: Conservation of 
Urban Form and Space. Singapore. 
[10] . SGTT (2012). Hội thảo di sản kiến trúc đô thị. Saigon Tiep Thi Online, Internet: 
[11] . TNO (2012). Di sản đô thị TP. HCM đang bị xâm hại, Thanh Nien Online. Website: 
hai.aspx. 
[12] . Trần Lan Anh (2004). Study on Urban conservation and Development Methodology for the City 
of Hanoi, University of Tokyo. Japan. 
[13] . Tú Anh (2016), Dân số Hà Nội đạt 7.558.965 người, Đại biểu nhân dân TP Hà Nội Online. 
Website:  
Dấu ấn đô thị Hà Nội - Huế - Sài Gòn xưa qua nghệ thuật ứng xử bản địa 
106 
TRACE OF OLD HANOI - HUE – SAIGON 
THROUGH INDIGENOUS BEHAVIOR-ARTS 
Ngo Minh Hung 
Van Lang University 
Email: hung.nm@vlu.edu.vn 
ABSTRACT 
Over the years, the concept of cultural heritage (architecture) is widely practiced in 
reality and academic researches . In developing countries, urban managers have 
paid more attention on restoring a cultural, historical, religious relic (or) an old 
architectural building when dealing with trace preservation in the urban context. 
As a matter of fact, many constructions have been successfully conserved in 
Vietnam. In parallel, the image and unique characteristics of those places are 
gradually being distorted and destructed due to various reasons. Moreover, 
studying affordances between users and physical heritage environment figures out 
awareness transition of recognizing cities’ trace is really necessary within the 
community under strong urbanization process in Hanoi, Hue and HCMC 
respectively. Further understanding of 36 Old Streets quarter, ancient Gia Hoi-Cho 
Ding and old Saigon, not only clearly indicates “the place’s trace” via practical 
experience of hidden conservational activities but also grasping such changing 
process and interpretation of its city structure. The paper aims to clarify such 
fundamental foundation making a trace of local city. This is the ground for urban 
managers to be approachable, build conservation program on cultural heritage, 
which is integrated into sustainable city development accordingly. 
Keywords: city heritage, cultural heritage preservation, heritage city, place. 
Ngô Minh Hùng sinh năm 1975 tại Hà Nội. Ông hoàn thành chương trình 
Post-Doc tại Đại học Deakin (Úc, 2015), Tiến sĩ khoa học tại Đại học Quốc 
gia Singapore (2009), Thạc sĩ khoa học tại Học viện Công nghệ Châu Á 
(AIT) Thái Lan (2001) và Kiến trúc tại Đại học Xây dựng Hà Nội (1997). 
Hiện nay ông công tác tại Trường Đại học Văn Lang. 
Lĩnh vực nghiên cứu: Bảo tồn Di sản văn hóa, Môi trường, Kiến trúc và 
Quy hoạch 

File đính kèm:

  • pdfdau_an_do_thi_ha_noi_hue_sai_gon_xua_qua_nghe_thuat_ung_xu_b.pdf