Xây dựng mô hình mạng lưới phân tích đường bao dữ liệu để đo lường và phân tích hiệu quả hoạt động của ngành ngân hàng Việt Nam
Việc đo lường hiệu quả hoạt động của ngành ngân hàng ở Việt Nam vẫn luôn là một chủ đều hết
sức quan trọng, thu hút rất nhiều sự quan tâm của các nhà nghiên cứu và quản lý. Nghiên cứu
này phát triển một Mô hình Phân tích Đường Bao Dữ Liệu Mạng Lưới Hai Giai Đoạn để đánh giá
hiệu quả của 29 NHTM hoạt động ở Việt Nam trong giai đoạn 2016 – 2018. Phân tích kết quả tính
toán đã chỉ ra “sức mạnh phân biệt” của mô hình so với mô hình đánh giá truyền thống. Tác giả
cũng đưa ra một số đề xuất mang tính tham khảo cho các nhà quản lý nhằm mục đích nâng cao
hiệu quả hoạt động cho ngành ngân hàng Việt Nam.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Bạn đang xem tài liệu "Xây dựng mô hình mạng lưới phân tích đường bao dữ liệu để đo lường và phân tích hiệu quả hoạt động của ngành ngân hàng Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Xây dựng mô hình mạng lưới phân tích đường bao dữ liệu để đo lường và phân tích hiệu quả hoạt động của ngành ngân hàng Việt Nam
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG 46 XÂY DỰNG MÔ HÌNH MẠNG LƯỚI PHÂN TÍCH ĐƯỜNG BAO DỮ LIỆU ĐỂ ĐO LƯỜNG VÀ PHÂN TÍCH HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG CỦA NGÀNH NGÂN HÀNG VIỆT NAM MODELLING NETWORK DATA ENVELOPMENT ANALYSIS TO EVALUATE AND ANALYSIS THE EFFICIENCY OF VIETNAM BANKING INDUSTRY Ngày nhận bài: 15/12/2020 Ngày chấp nhận đăng: 28/12/2020 Phùng Mạnh Trung TÓM TẮT Việc đo lường hiệu quả hoạt động của ngành ngân hàng ở Việt Nam vẫn luôn là một chủ đều hết sức quan trọng, thu hút rất nhiều sự quan tâm của các nhà nghiên cứu và quản lý. Nghiên cứu này phát triển một Mô hình Phân tích Đường Bao Dữ Liệu Mạng Lưới Hai Giai Đoạn để đánh giá hiệu quả của 29 NHTM hoạt động ở Việt Nam trong giai đoạn 2016 – 2018. Phân tích kết quả tính toán đã chỉ ra “sức mạnh phân biệt” của mô hình so với mô hình đánh giá truyền thống. Tác giả cũng đưa ra một số đề xuất mang tính tham khảo cho các nhà quản lý nhằm mục đích nâng cao hiệu quả hoạt động cho ngành ngân hàng Việt Nam. Từ khóa: phân tích đường bao dữ liệu; đo lường hiệu quả; mạng lưới hai giai đoạn; hoạt động ngân hàng. ABSTRACT Measuring the performance of Vietnam banking industry has been continuously considered as a crucial topic that attracted many concerns of researchers and policy-managers. This research develops a Two-stages Network DEA to evaluate the efficiency of 29 commercial banks in Vietnam from 2016 – 2018. The results reveal the “discriminating power” of the proposed model in comparison with traditional DEA models. Furthermore, the author also proposes some oriented suggestions to help policy-managers in order to enhance the efficiency of Vietnam banking industry. Keywords: data envelopment analysis; measuring efficiency; two-stages network; banking industry. 1. Giới thiệu Tốc độ toàn cầu hóa và tự do hóa thương mại nhanh chóng trong những năm vừa qua đã tạo ra nhiều thay đổi về môi trường kinh doanh tại Việt Nam. Hội nhập kinh tế quốc tế tạo điều kiện cho quốc gia phát triển, tuy nhiên điều này cũng khiến cạnh tranh trong các lĩnh vực kinh tế trở nên gay gắt hơn và tài chính ngân hàng cũng không phải ngoại lệ. Trong nỗ lực nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh cho ngành ngân hàng Việt Nam, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã chủ trương tái cơ cấu bộ máy ngân hàng thương mại (NHTM), minh chứng là sự ra đời các chính sách như Quyết định 1058/QĐ-TTg ngày 19/07/2017 của Thủ tướng Chính phủ, phê duyệt đề án “Cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng gắn với xử lý nợ xấu giai đoạn 2016 - 2020” và Quyết định số 1731/QĐ-NHNN ngày 31/8/2018 của Thống đốc NHNN phê duyệt kế hoạch hành động của ngành Ngân hàng hướng đến sự phát triển bền vững. Kết quả của các chính sách trên là hàng loạt các thương vụ sáp nhập, hợp nhất, mua lại (M&A) trong hệ thống NHTM đã diễn ra từ năm 2011 đến nay. Mặc dù vậy, vấn đề hiệu quả của các NHTM sau M&A như thế nào, Phùng Mạnh Trung, Trường Đại học Hàng hải Việt Nam TẠP CHÍ KHOA HỌC KINH TẾ - SỐ 8(04) - 2020 47 liệu sau khi tái cơ cấu, hiệu quả hoạt động kinh doanh của các ngân hàng này có vững vàng hơn hay đơn giản chỉ là phép toán cộng của các ngân hàng yếu kém? Do vậy, việc đánh giá hiệu quả hoạt động của các NHTM Việt Nam sau giai đoạn tái cấu trúc 2011- 2015 là hết sức cần thiết nhằm tổng kết những thành tích đạt được cũng như những hạn chế của công cuộc tái cơ cấu hệ thống NHTM. Có hai phương pháp đánh giá và xếp hạng hiệu quả hoạt động phổ biến nhất hiện này: (1) Phân tích biên ngẫu nhiên SFA (đề xuất bởi Aigner et al., 1977) và (2) Phân tích đường bao dữ liệu DEA do Charnes et al. (1978) công bố. Giữa hai phương pháp trên, DEA được rất nhiều các chuyên gia và nhà nghiên cứu sử dụng bởi lẽ phương pháp này dựa trên việc ứng dụng bài toán tối ưu hóa trên cơ sở đặc điểm hóa mối quan hệ giữa các yếu tố đầu ra và đầu vào của chu trình sản xuất. Đặc điểm này dễ dàng được chấp nhận hơn việc bắt buộc giả định một mô hình kinh tế (ví dụ mô hình sản xuất Cobb-Douglas) như yêu cầu của phương pháp SFA. Tuy nhiên, mô hình DEA cổ điển không quan tâm đến diễn biến xảy ra trong quy trình sản xuất mà coi nó như một “hộp đen - black box”. Do không quan sát được những thực tế xảy ra bên trong “hộp đen” này, chúng ta sẽ bị hạn chế tầm nhìn trong việc xác định các yếu tố phi hiệu quả, dẫn đến những đánh giá sai lầm. Đặc biệt hơn khi ngân hàng là những tổ chức tài chính trung gian, việc tạo lập và phân phối nguồn tài chính, nếu không được đánh giá một cách thích đáng, sẽ làm méo mó kết quả nghiên cứu. Quan trọng hơn cả, điểm yếu lớn nhất của mô hình DEA cổ điển trong quá trình đánh giá hiệu quả của các đơn vị, đó là nó tạo ra quá nhiều “điểm hiệu quả tối đa” (unique efficiency score). Điều này gây khó khăn cho các nhà quản lý trong công tác xếp hạng hiệu quả giữa các ngân hàng cũng như phân tích các yếu điểm tồn tại trong nội bộ hệ thống (Ebrahimnejad và Ziari, 2019). Hình 1: Hoạt động của các NHTM Xuất phát từ những phân tích trên, yêu cầu đặt ra đòi hỏi sự cần thiết xây dựng một mô hình thực tế để đánh giá hiệu quả toàn diện cho ngành ngân hàng. Do đó, nghiên cứu này sẽ phát triển mô hình DEA cổ điển trở thành mô hình mạng lưới DEA (NDEA) với định hướng đánh giá hiệu quả cho các NHTM tại Việt Nam (Hình 1). Trong mô hình này, chu trình hoạt động của các ngân hàng được chia thành hai giai đoạn (stage), được là “tạo lập vốn” (capital organization) và “phân phối vốn” (capital allocation). Ở giai đoạn A, ngân hàng sẽ sử dụng các tài nguyên là lao động (labor) và vốn (capital) để tạo ra sản phẩm “tiền gửi” (deposits). Tiếp theo đó, tiền gửi sẽ là nhân tố chính để tạo ra các sản phẩm cuối cùng của hệ thống là cho vay (loans), đầu tư (investment), và dịch vụ (service fees). Ưu điểm lớn nhất của mô hình này không những có thể đánh giá và xếp hạng hiệu quả tổng thể, mà quan trọng hơn, hiệu quả và mức ... ứu về hoạt động của ngân hàng chứng kiến hai cách tiếp cận cổ điển chính. “Cách tiếp cận sản xuất” (production approach) do Benston (1965) đề xuất cho rằng ngân hàng sử dụng hai nguồn lực chính là lao động và vốn (không bao gồm tiền gửi) để sản xuất ra các sản phẩm là các loại tiền gửi, tiền cho vay và dịch vụ. Trong khi đó “cách tiếp cận trung gian” (intermediate approach) do Sealey và Lindley (1977) lại giải thích rằng mục đích chính của các ngân hàng thương mại là tạo ra các khoản cho vay và dịch vụ dựa trên việc sử dụng vốn (bao gồm cả tiền gửi) và lao động. Việc lựa chọn cách tiếp cận nào trong hai cách tiếp cận trên vẫn là một tranh cãi chưa thể kết thúc trong nghiên cứu về hoạt động của ngân hàng. Boďa và Piklová (2018) đã chỉ ra rằng việc lựa chọn cách thức tiếp cận, thực sự có ảnh hưởng đến kết quả nghiên cứu hiệu quả ngân hàng, và cùng với rất nhiều nghiên cứu khác (chẳng hạn (Ví dụ Huang et al., 2017; Phung 01 0 01 1 (5) I i ii A I D i i d di d v x w v x z 01 0 01 1 (6) D d dd B I D i i d di d z w v x z 0 0* 1 1 0 0 01 1 1 1 1 1 (7) . . , , ; , D R A B d d r rAB d r D I d d i id i D IA d dj i ijd i R DB r rj d djr d A B i r d z u y Max z v x s t z v x j u y z j v u free * 0 0 01 1 0 01 1 1 1 1 1 (8) . . 1 , , ; , D RAB A B d d r rd r D I d d i id i D IA d dj i ijd i R DB r rj d djr d A B i r d Max z u y s t z v x z v x j u y z j v u free 0* 1 0 01 01 1 (4) . . , ; R B r rB r D d dd R DB r rj d dr d B d r u y Max z s t u y z j u free TẠP CHÍ KHOA HỌC KINH TẾ - SỐ 8(04) - 2020 51 et al., 2020), đã chỉ ra cách thức an toàn nhất để trung hòa hai luồng quan điểm trên là tách chu trình hoạt động của ngân hàng thành hai giai đoạn và coi tiền gửi như một sản phẩm trung gian giữa hai giai đoạn đó. Xuất phát từ phân tích trên, trong phần thực nghiệm này, tác giả sử dụng biến đầu vào là lao động (labor) và vốn (capital), sản phẩm đầu ra cuối cùng của chu trình sản xuất là các khoản cho vay (loans), các khoản đầu tư (investments) và phí dịch vụ (service fees). Do tính chất lưỡng tính của tiền gửi (deposits) như đã giải thích bên trên, tác giả sẽ sử dụng biến này như sản phẩm trung gian, cụ thể, nó vừa là sản phẩm đầu ra của giai đoạn A, vừa là “nguyên liệu” đầu vào cho giai đoạn B. Số liệu về các biến sử dụng được tác giả trích xuất từ nguồn tổng hợp của Công ty cổ phần Dữ liệu Kinh tế Việt Nam bao gồm 30 ngân hàng công khai dữ liệu báo cáo tài chính trên các Sở giao dịch. Trong số 30 ngân hàng trên, do số liệu của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt nam không đầy đủ qua các năm nghiên cứu nên tác giả đã loại ra khỏi mẫu. Dựa vào các nghiên cứu trước đây (Sealey và Lindley, 1977; Benston, 1965), tác giả định nghĩa “vốn” là vốn chủ sở hữu và các khoản nghĩa vụ (sau khi đã trừ đi tiền gửi). Các khoản “cho vay” là dư nợ cho vay khách hàng tại thời điểm cuối năm được lấy trên Bảng cân đối kế toán. Biến “phí dịch vụ” được xác định là chênh lệch giữa thu nhập và chi phí tất cả các hoạt động dịch vụ lấy từ báo cáo Kết quả hoạt động kinh doanh. Bảng 1. Thống kê mô tả các biến lựa chọn Thống kê mô tả ở Bảng 1 cho thấy các ngân hàng Việt Nam có sự chênh lệch khá lớn về quy mô kinh doanh. Ví dụ, chênh lệch giữa số vốn của ngân hàng lớn nhất (BIDV) so với ngân hàng nhỏ nhất (NCB) lên tới 21 lần, trong khi đó, ngân hàng có tổng khoản thu phí dịch vụ lớn nhất gấp đến hơn 600 lần so với thu nhập tương ứng của ngân hàng nhỏ nhất. Không những vậy, giá trị độ lệch tiêu chuẩn của tất cả các biến cũng khẳng định sự phân bố không đồng đều của các yếu tố sản xuất trong ngành ngân hàng Việt Nam. 3.2. Hiệu quả hoạt động của các ngân hàng Kết quả tính toán hiệu quả hoạt động của các NHTM ở Việt Nam được thể hiện thông qua Bảng 2. Trong bảng này, hiệu quả của hệ thống sẽ được xác định trước. Tiếp theo, hiệu quả và trọng số (mức đóng góp quan trọng tương đối) của giai đoạn A và giai đoạn B cũng được xác định lần lượt. Tất cả các điểm hiệu quả đều được xếp hạng theo thứ tự từ lớn đến bé. Bảng 2. Hiệu quả hoạt động của các NHTM Việt Nam qua các năm Mean Min Max Std. 2016 Stage A 0.62 0.10 1.00 0.27 Stage B 0.85 0.43 1.00 0.19 System 0.69 0.14 1.00 0.21 2017 Stage A 0.49 0.04 0.99 0.31 Stage B 0.92 0.48 1.00 0.14 System 0.53 0.07 0.99 0.29 2018 Stage A 0.61 0.06 1.00 0.26 Stage B 0.82 0.82 1.00 0.22 System 0.68 0.36 1.00 0.20 Có thể nhận, hiệu quả bình quân của ngành ngân hàng Việt Nam không được đánh giá cao. Cụ thể, trong năm giá trị trung bình của hiệu quả hệ thống chỉ đạt 0.68 điểm trong khi đó, hiệu quả của giai đoạn A và giai đoạn B đạt tương ứng 0.61 và 0.82 điểm. Đáng chú ý, có hai ngân hàng duy nhất nằm trên đường hiệu quả sản xuất là BID và BVB, TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG 52 đặc biệt, cả hai ngân hàng này đều đạt hiệu quả tối đa ở cả hai giai đoạn. Đứng cuối bảng xếp hạng là ngân hàng VPB khi chỉ đạt 0.36 điểm hiệu quả và cá biệt hiệu quả của giai đoạn B chỉ đạt 0.19 điểm. Xem xét hiệu quả và trọng số (mức độ quan trọng tương đối) của các giai đoạn, kết quả nghiên cứu cũng chỉ ra một số điểm đáng chú ý. Thứ nhất, đối với các ngân hàng Việt Nam, giai đoạn A (tạo lập vốn) được đánh giá có trọng số cao hơn rất nhiều so với giai đoạn B (phân phối vốn) với tỷ lệ trung bình cụ thể là 72:28. Tuy nhiên, điều thứ hai, cũng là một nghịch lý đáng chú ý, hiệu quả của giai đoạn A lại thấp hơn giai đoạn B đến 21 điểm % (61% so với 82%). Thứ ba, các ngân hàng chỉ đạt được đánh giá là có hiệu quả tuyệt đối khi và chỉ khi ngân hàng đó đạt hiệu quả tuyệt đối ở cả hai giai đoạn. 3.3. Phân tích kết quả và các đề xuất Để làm nổi bật tác dụng của việc đánh giá mô hình mạng lưới DEA hai giai đoạn (two- stage NDEA). Tác giả đã tính toán hiệu quả của các ngân hàng ở Việt Nam bằng hai mô hình black-box truyền thống với giả định tiền gửi là biến đầu vào (deposits as input) và tiền gửi là biến đầu ra (deposit as output). Kết quả về sự thay đổi hiệu quả bình quân qua các năm 2016-2018 được thể hiện thông qua Hình 3. Hình 3: Hiệu quả theo các mô hình Có thể thấy rất rõ ràng, hiệu quả của ngân hàng tính toán theo mô hình mạng lưới DEA luôn luôn nằm dưới hai mô hình black-box truyền thống. Điều này có thể giải thích thông qua “hiệu ứng ma sát” (Phung et al. 2020), theo đó, nếu càng chia nhỏ hệ thống sản xuất thành nhiều giai đoạn, hiệu quả tổng thể tính toán sẽ càng giảm sút do sự phân tách kỹ lưỡng ở hiệu quả các giai đoạn. Hơn nữa, sự biến thiên của hiệu quả trong mô hình mà cho dù tiền gửi được xem như đầu vào hay đầu ra là không rõ rệt. Trong khi đó, đánh giá hiệu quả các ngân hàng sử dụng mô hình tác giả đề xuất thể hiện sự thay đổi rất đáng kể trong giai đoạn 2016-2018. Thêm vào đó, việc sử dụng mô hình black-box truyền thống còn một nhược điểm rất lớn, đó là điểm hiệu quả đánh giá của rất nhiều DMU sẽ đạt mức tối đa. Cụ thể theo kết quả ở Bảng 3, khi sử dụng mô hình cổ điển coi tiền gửi là đầu vào, số lượng ngân hàng đạt hiệu quả tối đa qua các năm lần lượt là 6,7,7. Trong khi đó, nếu coi tiền gửi là đầu vào số lượng này vẫn khá lớn, lần lượt là 5,4,6. Điều này thực sự gây ra khó khăn trong việc xếp hạng hiệu quả của các ngân hàng bởi lẽ không có bất cứ cơ sở nào để xếp hạng các ngân hàng có cùng điểm hiệu quả này. Trong khi đó, như đã chỉ ra ở trên, sử dụng mô hình mạng lưới DEA, chỉ có tối đa hai ngân hàng đạt 100% hiệu quả hệ thống. Điều này góp phần củng cố “sức mạnh phân biệt” (discrimination power) của mô hình mà tác giả đề xuất. Bảng 3. So sánh số lượng ngân hàng đạt điểm hiệu quả tối đa theo các mô hình 2016 2017 2018 Two-stages NDEA 2 0 2 Deposits as input 6 7 7 Deposits as output 5 4 6 Kết quả đánh giá phân tích còn chỉ ra nguyên nhân chính dẫn đến hiệu quả yếu kém trong ngành ngân hàng Việt Nam chủ yếu xuất phát từ việc khai thác kém các TẠP CHÍ KHOA HỌC KINH TẾ - SỐ 8(04) - 2020 53 nguồn lực tài chính. Thực tế, ngành ngân hàng Việt Nam đã làm khá tốt công tác sử dụng vốn, thể hiện ở hiệu quả giai đoạn B khá cao (bình quân 3 năm 87%). Tuy nhiên, với thực trạng khó khăn chung của các nền kinh tế đang phát triển là thiếu thốn nguồn lực tài chính dẫn đến hệ quả giai đoạn tạo lập nguồn vốn chính của ngân hàng – tiền gửi, đươc xem là giai đoạn quan trọng hàng đầu, lại có mức hiệu quả khá thấp (bình quân chỉ đạt 57%). Từ đó, tác giả đề xuất các nhà quản lý ngân hàng cần xem xét, giải quyết bài toán huy động vồn một cách hiệu quả bằng cách mở rộng hơn nữa các kênh huy động vốn, nâng cao chất lượng dịch vụ, đảm bảo niềm tin cho người gửi tiền. Hơn nữa, trọng số và hiệu quả của giai đoạn B cũng ám chỉ một thực tế, đó là, các ngân hàng Việt Nam có thể vẫn khá dễ dàng trong công tác sử dụng nguồn vốn, đặc biệt trong công tác tín dụng, cho vay và đầu tư. Trong phạm vi của nghiên cứu này, tác giả chưa nghiên cứu sâu về ảnh hưởng của các biến đầu ra không kỳ vọng (ví dụ các khoản nợ xấu), nếu xét các biến này trong mô hình, kết quả đánh giá hiệu quả của ngành ngân hàng Việt Nam có thể sẽ rất khác biệt. 4. Kết luận Nghiên cứu này, dựa trên thực tiễn về hoạt động kinh doanh của các NHTM Việt Nam, đã phát triển một mô hình DEA mạng lưới hai giai đoạn để đánh giá hiệu quả hoạt động của các ngân hàng này. Phân tích kết quả tính toán đã chỉ ra “sức mạnh phân biệt” của mô hình tác giả xây dựng so với mô hình DEA truyền thống. Điều này giúp các nhà quản lý có thể dễ dàng đánh giá, phân loại và xếp hạng hiệu quả của các tổ chức trung gian tài chính này. Không những vậy, mô hình còn chỉ ra sự “đóng góp” của các giai đoạn trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng vào hiệu quả tổng thể. Từ đó đưa ra một số gợi ý chính sách cho các nhà quản lý về việc phân phối nguồn lực cho một cách hợp lý cho từng giai đoạn. Trên thực tế, mô hình hoạt động của các ngân hàng có thể còn phức tạp hơn mô hình mà tác giả đã đề xuất và luôn thay đổi để phù hợp với sự vận động của nền kinh tế. Do đó, việc đi sâu khám phá, xây dựng các mô hình đánh giá hiệu quả phù hợp với sự tác động của các yếu tốt khách/chủ quan cũng sẽ là một hướng đi tốt cho các nghiên cứu sau này. Lời cảm ơn: Nghiên cứu này được tài trợ bởi Trường Đại học Hàng hải Việt Nam trong đề tài mã số: DT20-21.86 TÀI LIỆU THAM KHẢO Aigner, D., Lovell, C., & Schmidt, P. (1977). Formulation and Estimation of Stochastic Frontier Production Functions. Journal of Econometrics, 6, 21-37. doi:10.1016/0304- 4076(77)90052-5 Banker, R., Charnes, A., & Copper, W. (1984). Some models for estimating technical and scale inefficiencies in data envelopment analysis. Management Science, 30(9), 1031-1142. doi:10.1287/mnsc.30.9.1078 Benston, G. J. (1965). Branch Banking and Economies of Scale. The Journal of Finance, 20(2), 312-331. doi:10.1111/j.1540-6261.1965.tb00212.x TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG 54 Boďa, M., & Piklová, Z. (2018). The Production or Intermediation Approach?: It Matters. In: Jajuga K., Locarek-Junge H., Orlowski L. (eds) Contemporary Trends and Challenges in Finance. Springer Proceedings in Business and Economics. Springer, Cham. doi:10.1007/978-3-319-76228-9_11 Charnes, A., & Cooper, W. (1962). Programming with linear fractional functionals. Naval Research Logistics Quarterly, 9(3-4), 181-186. doi:10.1016/0304-4076(90)90048-X Chen, Y., Cook, W. D., Li, N., & Zhu, J. (2009). Additive efficiency decomposition in two- stage DE. European Journal of Operational Research, 196(3), 1170-1176. doi:10.1016/j.ejor.2008.05.011 Ebrahimnejad, A., & Ziari, S. (2019). New model for improving discrimination power in DEA based on dispersion of weights. International Journal of Mathematics in Operational Research, 14(3), 433-450. Huang, T.-H., Lin, C.-I., & Chen, K.-C. (2017). Evaluating efficiencies of Chinese commercial banks in the context of stochastic multistage technologies. Pacific-Basin Finance Journal, 41, 93-110. doi:10.1016/j.pacfin.2016.12.008 Kao, C., & Huang, S.-N. (2008). Efficiency decomposition in two-stage data envelopment analysis: An application to non-life insurance companies in Taiwan. European Journal of Operational Research, 185(1), 418-429. doi:10.1016/j.ejor.2006.11.041 Nguyễn, P. (2019). Phân tích hiệu quả hoạt động tại các ngân hàng thương mại Việt Nam. Tạp chí Công thương, online. Phan, T. T., & Daly, K. (2014). Cost Efficiency and the Relation with Risks in Vietnamese Banking Industry. Australian Journal of Basic & Applied Sciences, 8(12), 30-38. Retrieved from Phan, T., & Nguyễn, H. (2018). Hiệu quả chi phí biên của các ngân hàng thương mại Việt Nam. Tạp chí Ngân hàng, 22. Phung, M.-T., Cheng, C.-P., Guo, C., & Kao, C.-Y. (2020). Mixed Network DEA with Shared Resources: A Case of Measuring Performance for Banking Industry. Operations Research Perspectives, 7, 100173. doi:10.1016/j.orp.2020.100173 Phung, M.-T., Cheng, P.-C., & Kao, C.-Y. (2018). Ownership Structure and Efficiency of Banking Industry in China and Vietnam - A Political View. International Journal of Financial Research, 9(3), 61-74. doi:10.5430/ijfr.v9n3p61 Sealey, C. W., & Lindley, J. T. (1977, 9). Inputs, Outputs, and a Theory of Production and Cost at Depository Financial Institutions. The Journal of Finance, 32(4), 1251-1266. doi:10.2307/2326527 Seiford, L. M., & Zhu, J. (1999). Profitability and marketability of the top 55 U.S. commercial banks. Management Science, 45(9), 1270-1288. doi:10.1287/mnsc.45.9.1270
File đính kèm:
- xay_dung_mo_hinh_mang_luoi_phan_tich_duong_bao_du_lieu_de_do.pdf