Vai trò của chỉ số khối cơ thể và bảng phân loại SGA trong việc đánh giá dinh dưỡng ở bệnh nhân bệnh thận mạn có hay không có đái tháo đường

Thừa cân/béo phì, suy dinh dưỡng là những rối loạn tình trạng dinh dưỡng thường gặp và mang lại những ảnh hưởng bất lợi, góp phần làm gia tăng tỷ lệ bệnh tật và tử vong ở bệnh nhân bệnh thận mạn. Việc đánh giá tất cả những rối loạn tình trạng dinh dưỡng này ở đối tượng bệnh nhân bệnh thận mạn có hay không có đái tháo đường hiện nay chưa được nghiên cứu.

Vai trò của chỉ số khối cơ thể và bảng phân loại SGA trong việc đánh giá dinh dưỡng ở bệnh nhân bệnh thận mạn có hay không có đái tháo đường trang 1

Trang 1

Vai trò của chỉ số khối cơ thể và bảng phân loại SGA trong việc đánh giá dinh dưỡng ở bệnh nhân bệnh thận mạn có hay không có đái tháo đường trang 2

Trang 2

Vai trò của chỉ số khối cơ thể và bảng phân loại SGA trong việc đánh giá dinh dưỡng ở bệnh nhân bệnh thận mạn có hay không có đái tháo đường trang 3

Trang 3

Vai trò của chỉ số khối cơ thể và bảng phân loại SGA trong việc đánh giá dinh dưỡng ở bệnh nhân bệnh thận mạn có hay không có đái tháo đường trang 4

Trang 4

Vai trò của chỉ số khối cơ thể và bảng phân loại SGA trong việc đánh giá dinh dưỡng ở bệnh nhân bệnh thận mạn có hay không có đái tháo đường trang 5

Trang 5

Vai trò của chỉ số khối cơ thể và bảng phân loại SGA trong việc đánh giá dinh dưỡng ở bệnh nhân bệnh thận mạn có hay không có đái tháo đường trang 6

Trang 6

Vai trò của chỉ số khối cơ thể và bảng phân loại SGA trong việc đánh giá dinh dưỡng ở bệnh nhân bệnh thận mạn có hay không có đái tháo đường trang 7

Trang 7

Vai trò của chỉ số khối cơ thể và bảng phân loại SGA trong việc đánh giá dinh dưỡng ở bệnh nhân bệnh thận mạn có hay không có đái tháo đường trang 8

Trang 8

Vai trò của chỉ số khối cơ thể và bảng phân loại SGA trong việc đánh giá dinh dưỡng ở bệnh nhân bệnh thận mạn có hay không có đái tháo đường trang 9

Trang 9

pdf 9 trang Danh Thịnh 13/01/2024 1340
Bạn đang xem tài liệu "Vai trò của chỉ số khối cơ thể và bảng phân loại SGA trong việc đánh giá dinh dưỡng ở bệnh nhân bệnh thận mạn có hay không có đái tháo đường", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Vai trò của chỉ số khối cơ thể và bảng phân loại SGA trong việc đánh giá dinh dưỡng ở bệnh nhân bệnh thận mạn có hay không có đái tháo đường

Vai trò của chỉ số khối cơ thể và bảng phân loại SGA trong việc đánh giá dinh dưỡng ở bệnh nhân bệnh thận mạn có hay không có đái tháo đường
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Chợ Rẫy Năm 2012 120
VAI TRÒ CỦA CHỈ SỐ KHỐI CƠ THỂ VÀ BẢNG PHÂN LOẠI SGA 
TRONG VIỆC ĐÁNH GIÁ DINH DƯỠNG Ở BỆNH NHÂN BỆNH THẬN MẠN 
CÓ HAY KHÔNG CÓ ĐÁI THÁO ĐƯỜNG 
Trần Văn Vũ*, Trần Thị Bích Hương** 
TÓM TẮT 
Đặt vấn đề: Thừa cân/béo phì, suy dinh dưỡng là những rối loạn tình trạng dinh dưỡng thường gặp và 
mang lại những ảnh hưởng bất lợi, góp phần làm gia tăng tỷ lệ bệnh tật và tử vong ở bệnh nhân bệnh thận mạn. 
Việc đánh giá tất cả những rối loạn tình trạng dinh dưỡng này ở đối tượng bệnh nhân bệnh thận mạn có hay 
không có đái tháo đường hiện nay chưa được nghiên cứu. 
Mục tiêu: Khảo sát sự khác biệt của những rối loạn tình trạng dinh dưỡng ở bệnh nhân bệnh thận mạn có 
đái tháo đường so với bệnh nhân bệnh thận mạn không có đái tháo đường; Xác định tỷ lệ suy dinh dưỡng, thừa 
cân/béo phì ở đối tượng bệnh nhân bệnh thận mạn có hay không có đái tháo đường. Lựa chọn phương pháp đánh 
giá tình trạng suy dinh dưỡng, thừa cân/béo phì thích hợp cho đối tượng bệnh nhân này. 
Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu tiền cứu và mô tả cắt ngang được thực hiện trên 118 bệnh nhân 
bệnh thận mạn có và không có đái tháo đường tại khoa Thận bệnh viện Chợ Rẫy trong năm 2011. Tình trạng dinh 
dưỡng của bệnh nhân được đánh giá bằng: chỉ số khối cơ thể (Body Mass Index – BMI), chỉ số albumin huyết 
thanh, phương pháp đánh giá tổng thể tình trạng dinh dưỡng theo chủ quan (Subjective Global Assessment – 
SGA). 
Kết quả: Trong số 118 bệnh nhân bệnh thận mạn có và không có đái tháo đường, có 61 bệnh nhân nữ 
(51,7%) và 57 bệnh nhân nam (48,3%), tỷ lệ nữ:nam = 1,07:1, tuổi trung bình: 65,09 ± 10,08 (40 – 86 tuổi). Tỷ 
lệ suy dinh dưỡng xác định được bằng phương pháp BMI, albumin, SGA tương ứng là 11,9%, 20,3%, 32,2%. 
Tỷ lệ thừa cân/béo phì xác định bằng phương pháp BMI là 30,5 %. 
Kết luận: Những rối loạn tình trạng dinh dưỡng ở bệnh nhân bệnh thận mạn do đái tháo đường tương tự 
bệnh nhân bệnh thận mạn không có đái tháo đường. Rối loạn dạng thừa cân/béo phì thường gặp ở những giai 
đoạn đầu của bệnh thận mạn và càng tiến gần đến giai đoạn cuối thì tỷ lệ suy dinh dưỡng càng gia tăng. Tỷ lệ 
suy dinh dưỡng và thừa cân béo phì ghi nhận được qua nghiên cứu khá cao nêu bật tầm quan trọng của việc tầm 
soát những rối loạn này. Chúng tôi đề nghị sử dụng phương pháp SGA trong việc chẩn đoán suy dinh dưỡng và 
sử dụng phương pháp BMI để chẩn đoán tình trạng thừa cân/béo phì trên bệnh nhân bệnh thận mạn do hoặc 
không do đái tháo đường. 
Từ khóa: bệnh thận mạn, bệnh thận do đái tháo đường, suy dinh dưỡng, thừa cân/béo phì, SGA, BMI, 
albumin 
ABSTRACT 
THE ROLE OF BODY MASS INDEX AND SUBJECTIVE GLOBAL ASSESSMENT SCORES AS THE 
NUTRITIONAL INDICATORS IN DIABETIC AND NON-DIABETIC KIDNEY DISEASE PATIENTS 
Tran Van Vu, Tran Thi Bich Huong 
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 17 - Supplement of No 1 - 2013: 120 - 128 
* Khoa Thận - Bệnh viện Chợ Rẫy 
Tác giả liên lạc: ThS.BS. Trần Văn Vũ ĐT: 0918151010 Email: drvutran@gmail.com. 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Chợ Rẫy Năm 2012 121
Background: Nutritional disorders such as overweight, obesity, underweight may contribute to morbidity 
and mortality in predialysis diabetic and nondiabetic kidney disease patients. 
Objective: To determine and to compare the prevalence of malnutrition, overweight and obesity in diabetic 
and non-diabetic kidney disease and to suggest the most effective method to assess different nutritional status 
disorders. 
Methods: A cross-sectional study was conducted at the Nephrology Department, Cho Ray Hospital in 2011. 
Both pre-dialysis diabetic and non-diabetic nephropathy patients (N=118) were enrolled. Malnutrition status was 
assessed by BMI, serum albumin, Subjective Global Assessment (SGA) method. 
Results: Over 118 Pre-dialysis diabetic and non-diabetic nephropathy patients, we had 61 females (51.7%) 
and 57 males (48.3%), mean age 65.09 ± 10.08 (40 to 86 years old). The prevalence of malnutrition according to 
BMI, albumin, SGA were 11.9%, 20.3%, 32.2%, respectively. The prevalence of overweight/obesity according to 
BMI was 30.5%. 
Conclusion: The nutritional status disorder of diabetic nephropathy patients was similar to the non-diabetic 
ones. Overweight/ obesity was common at the early stages of chronic kidney disease. In the contrast, malnutrition 
related with more advanced CKD stages. We suggested to use routinely SGA method to search for malnutrition 
and BMI for overweight or obesity in pre-dialysis diabetic and nondiabetic kidney patients. 
Keywords: diabetic kidney disease, chronic kidney disease, malnutrition, overweight/obesity, SGA, BMI, 
Albumin 
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Bệnh thận mạn (BTM) là một trong những 
biến chứng nghiêm trọng của bệnh đái tháo 
đường (ĐTĐ). Dựa theo những nghiên cứu dịch 
tễ học tại các nước phương Tây cho thấy tỷ lệ 
BTM do ĐTĐ type 1 là 21% và do ĐTĐ type 2 là 
khoảng 25%(16). 
Bệnh nhân ĐTĐ có tỷ lệ thừa cân béo phì cao 
hơn so với quần thể dân số chung. Điều này 
được chứng minh qua nhiều nghiên cứu đánh 
giá trong cũng như ngoài nước. Trong khi bệnh 
nhân BTM lại có tỷ lệ suy dinh dưỡng (SDD) khá 
cao, dao động trong khoảng 20% - 76% tùy thuộc 
tiêu chuẩn sử dụng để đánh giá(14). Trên bệnh 
nhân BTM những rối loạn tình trạng dinh dưỡng 
này đã được ghi nhận nhiều ảnh hưởng bất lợi: 
SDD phối hợp với tình trạng viêm ở bệnh nhân 
BTM làm gia tăng nguy cơ nhiễm trùng, chậm 
lành vết thương(18). Ngoài ra, tình trạng SDD có 
liên quan đến sự gia tăng bệnh tật và tử vong ở 
bệnh nhân BTM(6,11). Ngược lại, thừa cân/béo phì 
có thể làm gia tăng nguy cơ rối loạn chuyển hóa 
dẫn đến tăng nguy cơ mắc bệnh tim mạch (đột 
quỵ, nhồi máu cơ tim..) làm gia tăng tỷ lệ tử 
vong trước khi bước vào suy thận mạn giai đoạn 
cuối. Như vậy, rối loạn tình trạng dinh dưỡn ...  dân số chung, dựa trên nghiên 
cứu của Viện Dinh Dưỡng trên 17.213 đối 
tượng tuổi từ 25 đến 64 tại 64 tỉnh/thành phố 
có mức BMI ≥ 23 là 16,3%. Vì vậy, ban đầu khi 
hướng đến việc đánh giá tình trạng dinh 
dưỡng cho đối tượng bệnh nhân BTM do ĐTĐ 
chúng tôi dự đoán có lẽ tỷ lệ thừa cân/béo phì 
cao hơn trong khi tỷ lệ SDD thấp hơn ở bệnh 
nhân BTM không có ĐTĐ. Tuy nhiên, kết quả 
phân tích từ nghiên cứu cho thấy: những chỉ 
số đánh giá tình trạng dinh dưỡng không có 
sự khác biệt có ý nghĩa giữa 2 nhóm đối tượng 
bệnh nhân này (bảng 2). Như vậy mặc dù tỷ lệ 
thừa cân/béo phì ở bệnh nhân ĐTĐ cao hơn so 
với dân số chung nhưng một khi bước vào 
BTM đặc biệt ở những giai đoạn nặng thì 
những biến chứng của BTM như: tình trạng 
ure huyết, biếng ăn, buồn nôn...gây ảnh 
hưởng làm suy giảm tình trạng dinh dưỡng 
tương tự như ở những bệnh nhân BTM không 
có ĐTĐ. 
Đánh giá tỷ lệ những rối loạn tình trạng 
dinh dưỡng ở bệnh nhân BTM có hay 
không có đái tháo đường tương ứng với 
từng giai đoạn của BTM 
Sau khi phân tích nhận thấy những rối loạn 
tình trạng dinh dưỡng ở bệnh nhân BTM có 
ĐTĐ tương tự như ở bệnh nhân BTM không có 
ĐTĐ nên chúng tôi tiến hành gộp chung tất cả 
những bệnh nhân BTM có hay không có ĐTĐ 
này để đánh giá các tiêu chí còn lại. 
Phân tích theo từng giai đoạn của BTM (bảng 
3) cho thấy giá trị trung bình các chỉ số đánh giá 
dinh dưỡng giảm dần tương ứng với từng giai 
đoạn tăng dần của BTM. Tương tự khi xác định 
tỷ lệ các rối loạn tình trạng dinh dưỡng theo 
từng giai đoạn thì nhận thấy dù áp dụng 
phương pháp đánh giá nào (BMI, SGA, 
Albumin) thì kết quả nhận được có cùng điểm 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Chợ Rẫy Năm 2012 126
chung là: Tỷ lệ thừa cân béo phì chủ yếu tập 
trung ở những giai đoạn đầu của BTM (giai đoạn 
3), ở vào những giai đoạn cuối (BTM giai đoạn 4 
– 5) tỷ lệ SDD phổ biến hơn (hình 1). Tóm lại tình 
trạng dinh dưỡng ở bệnh nhân BTM không phụ 
thuộc vào bệnh căn nguyên mà chủ yếu theo 
hướng suy giảm chức năng thận cùng với sự tiến 
triển của BTM. 
Đánh giá tỷ lệ những rối loạn tình trạng 
dinh dưỡng ở bệnh nhân BTM có hay 
không có ĐTĐ 
Kết quả khảo sát cho thấy tỷ lệ các rối loạn 
tình trạng dinh dưỡng ghi nhận được khá cao, 
dù ở dạng SDD (dao động trong khoảng từ 
11,9% - 32,2% tùy thuộc tiêu chuẩn đánh giá) hay 
dạng thừa cân/béo phì (30,5%) (bảng 4). Mặc dù 
vậy, tỷ lệ SDD ghi nhận được từ nghiên cứu này 
thấp hơn so với tỷ lệ 30% - 52,2% ở nghiên cứu 
trước đây của chúng tôi thực hiện trên đối tượng 
bệnh nhân suy thận mạn giai đoạn cuối chưa 
điều trị thay thế thận, cũng với 3 tiêu chuẩn 
đánh giá là phương pháp BMI, SGA, albumin. 
Điều này có thể giải thích là do sự khác biệt về 
đối tượng nghiên cứu. Ở nghiên cứu này đối 
tượng là những bệnh nhân BTM phân bố đều ở 
cả 3 giai đoạn (giai đoạn 3, 4, 5) trong khi ở 
nghiên cứu trước kia chỉ gồm những bệnh nhân 
BTM giai đoạn 5. Mà tỷ lệ SDD thường thấp ở 
những giai đoạn đầu và gia tăng cùng với mức 
độ tiến triển của BTM. Vì vậy tỷ lệ SDD ghi nhận 
được từ nghiên cứu này thấp hơn so với nghiên 
cứu trước kia là hợp lý. 
Tỷ lệ SDD ghi nhận được bằng phương pháp 
BMI có sự khác biệt đáng kể so với 2 phương 
pháp SGA và Albumin là (11,9% so với 20,3% và 
32,2%) thể hiện sự giới hạn về độ nhạy của 
phương pháp BMI trong việc chẩn đoán SDD, 
đặc biệt là ở những bệnh nhân có tiền căn thừa 
cân/béo phì. Tỷ lệ thừa cân/béo phì ghi nhận 
được trong nghiên cứu này khá cao là 30,5%. 
Một vài nghiên cứu đã chứng minh béo phì là 
một trong những yếu tố nguy cơ mắc BTM và 
suy thận mạn giai đoạn cuối(7,10). Những phân 
tích về mặt sinh học đã chứng minh tình trạng 
thừa cân/béo phì có tiềm năng dẫn đến những 
tổn thương thận, ví dụ như làm rối loạn yếu tố 
nội tiết, tình trạng viêm, stress oxy hóa và những 
rối loạn chức năng nội mô(3). Điều này cho thấy 
việc chẩn đoán phát hiện và điều chỉnh kịp thời 
tình trạng thừa cân/béo phì cùng với việc ngăn 
ngừa các biến cố tim mạch có thể giúp ngăn 
ngừa và làm giảm tốc độ tiến triển của BTM. 
Lựa chọn phương pháp đánh giá những rối 
loạn tình trạng dinh dưỡng ở bệnh nhân 
BTM có hay không có ĐTĐ chưa lọc thận 
Phương pháp đánh giá tình trạng suy dinh 
dưỡng 
Đã từ lâu nồng độ albumin huyết thanh 
được sử dụng rộng rãi như là chỉ số tiêu chuẩn 
cho việc đánh giá tình trạng dinh dưỡng. Sự 
suy giảm nồng độ albumin huyết thanh cho 
thấy có liên quan đến sự gia tăng tỷ lệ bệnh tật 
và tử vong ở những bệnh nhân BTM. Chỉ số 
albumin huyết thanh có độ đặc hiệu cao trong 
việc chẩn đoán tình trạng SDD nên trong rất 
nhiều nghiên cứu đánh giá dinh dưỡng, 
albumin huyết thanh luôn là thông số đánh 
giá quan trọng không thể thiếu. 
Dựa trên cơ sở đó, chúng tôi lựa chọn 
albumin huyết thanh là thông số tiêu chuẩn để 
so sánh hệ số tương quan. Kết quả cho thấy 
phương pháp SGA tương quan tốt với chỉ số 
albumin huyết thanh (r = 0,649, p = < 0,001), 
trong khi phương pháp BMI tương quan kém 
hơn với chỉ số albumin huyết thanh (r = 0,257, p 
= 0,005) (bảng 5). Kết quả phân tích này xác nhận 
mặt hạn chế trong việc chẩn đoán SDD của 
phương pháp BMI là độ nhạy kém đặc biệt trong 
trường hợp đánh giá SDD ở bệnh nhân có tiền 
sử béo phì(13), đồng thời xác nhận độ tin cậy cao 
trong chẩn đoán xác định tình trạng SDD của 
phương pháp SGA. 
Trong thực hành lâm sàng, phương pháp 
SGA có tính ứng dụng cao và nổi bật hơn so với 
phương pháp albumin với một số ưu điểm: là 
phương pháp không xâm lấn, cho kết quả gần 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013 Nghiên cứu Y học
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Chợ Rẫy Năm 2012 127
như lập tức, không tốn kém, có thể thực hiện tại 
giường. Nhiều nghiên cứu đã được thực hiện 
trên đối tượng bệnh nhân BTM đang điều trị lọc 
thận hay thẩm phân phúc mạc đưa ra kết luận 
phương pháp SGA thực sự là công cụ có giá trị 
để chẩn đoán tình trạng SDD(2,5,19). Và hiện nay 
với kết quả từ nghiên cứu này, chúng tôi nhận 
thấy phương pháp SGA thích hợp cho việc chẩn 
đoán tình trạng SDD cho đối tượng bệnh nhân 
BTM có hay không có ĐTĐ chưa lọc thận. 
Phương pháp đánh giá tình trạng thừa cân/béo 
phì 
Phương pháp albumin huyết thanh và 
phương pháp SGA có thể xác định rối loạn tình 
trạng dinh dưỡng dạng SDD với độ đặc hiệu 
cao(17). Tuy nhiên các phương pháp này không 
thể đánh giá được rối loạn dạng thừa cân/béo 
phì. Với những bệnh nhân được chẩn đoán thừa 
cân/ béo phì ở nghiên cứu này, đánh giá phân 
loại bằng phương pháp SGA và phương pháp 
albumin cho kết quả là dinh dưỡng bình thường. 
Phương pháp đo chỉ số khối cơ thể (BMI) là 
phương pháp kinh điển trong việc đánh giá 
phân loại tình trạng dinh dưỡng. Phương pháp 
này đã và đang được sử dụng một cách phổ biến 
trên thế giới đặc biệt hữu dụng trong việc chẩn 
đoán thừa cân/béo phì. Phương pháp BMI với 
nhiều ưu điểm là phương pháp không xâm lấn, 
cho kết quả nhanh chóng, dễ thực hiện với dụng 
cụ đơn giản và ít tốn kém. Đặc biệt khi sử dụng 
phương pháp BMI để đánh giá phân loại dinh 
dưỡng tình trạng dinh dưỡng ở người lớn thì có 
điều thuận lợi đó là chỉ số này không phụ thuộc 
vào tuổi và giống nhau ở cả hai giới(20). 
Phương pháp BMI rất hữu dụng trong phân 
loại tình trạng dinh dưỡng theo trọng lượng cơ 
thể, nhưng phương pháp BMI có một vài hạn 
chế đó là chỉ số BMI không phân biệt giữa khối 
lượng cơ và mỡ trong cơ thể, nên không thể 
phân biệt được giữa những người nặng cân vì 
chất béo và những người nặng cân vì khối cơ 
bắp. Giới hạn này có thể dẫn tới kết quả là 
phương pháp BMI có xu hướng đánh giá quá 
cao mỡ trong cơ thể ở người có nhiều cơ bắp và 
đánh giá thấp lượng mỡ trong cơ thể ở những 
người rất ít vận động (ít cơ bắp)(13). Phương pháp 
BMI chỉ liên quan đến sự phân bố rộng khắp của 
phần trăm chất béo trong cơ thể nên không xác 
định chính xác nơi phân bố của chất béo trong cơ 
thể. Trong khi chất béo vùng bụng mang lại 
nhiều nguy cơ sức khỏe lớn nhất. Nhiều chuyên 
gia y tế cho rằng tỷ lệ phần trăm mỡ cơ thể là 
một chỉ báo về nguy cơ thừa cân/béo phì tốt hơn 
chỉ số BMI. Tỷ lệ phần trăm lượng mỡ cơ thể có 
thể được xác định bằng phương pháp đo trở 
kháng sinh điện (Bioelectrical impedance analysis – 
BIA), phương pháp đo độ dày nếp gấp da tại 4 vị 
trí cơ: tam đầu, nhị đầu, dưới xương vai, mào 
chậu. Tuy nhiên việc áp dụng các phương pháp 
này gặp nhiều khó khăn trong việc đo đạc, tính 
toán kết quả, thiết bị đắt tiền. Có lẽ vì vậy mà 
hiện nay trên thế giới đa số các nghiên cứu về 
mối liên hệ giữa thừa cân/béo phì và bệnh thận 
mạn đều sử dụng phương pháp BMI để chẩn 
đoán thừa cân béo phì(9,10). Ngoài ra, chỉ số BMI 
có thể còn được sử dụng như là chỉ số tiên lượng 
kết quả lâm sàng, sự tăng cao chỉ số BMI được 
chứng minh là có liên quan đến nguy cơ mắc các 
bệnh không lây nhiễm như: bệnh tim mạch (nhồi 
máu cơ tim, đột quỵ), bệnh tiểu đường, viêm 
xương khớp, một số bệnh ung thư (nội mạc tử 
cung, vú, đại tràng). Dựa vào những phân tích 
trên, chúng tôi gợi ý sử dụng phương pháp đo 
chỉ số BMI trong việc đánh giá chẩn đoán tình 
trạng thừa cân/béo phì cho cộng đồng bệnh 
nhân BTM có hay không có ĐTĐ chưa lọc thận. 
KẾT LUẬN 
Những rối loạn tình trạng dinh dưỡng 
(thừa cân/béo phì, SDD) ở bệnh nhân BTM do 
ĐTĐ tương tự như ở bệnh nhân BTM không có 
ĐTĐ. Tỷ lệ SDD ở bệnh nhân BTM có hay 
không có ĐTĐ ghi nhận được theo từng 
phương pháp BMI, SGA, Albumin tương ứng 
là 11,9%, 32,2%, 20,3%. Bên cạnh đó tỷ lệ thừa 
cân/ béo phì xác định được bằng phương pháp 
BMI là 30,5%. Tình trạng dinh dưỡng ở bệnh 
nhân BTM không phụ thuộc vào bệnh căn 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 17 * Phụ bản của Số 1 * 2013
Hội Nghị Khoa Học Kỹ Thuật Bệnh Viện Chợ Rẫy Năm 2012 128
nguyên mà luôn có chiều hướng suy giảm cùng 
với tiến triển của BTM. Phương pháp SGA có 
nhiều ưu điểm trong chẩn đoán SDD, trong khi 
phương pháp BMI được sử dụng phổ biến 
trong chẩn đoán tình trạng nặng cân/béo phì. 
Từ kết quả của nghiên cứu này đã mở ra một 
hướng nghiên cứu mới về việc kết hợp những 
ưu điểm của phương pháp SGA và phương 
pháp BMI để tạo ra một phương pháp đánh giá 
tình trạng dinh dưỡng mới có thể chẩn đoán 
những rối loạn dạng suy dinh dưỡng lẫn dạng 
thừa cân/béo phì với độ nhạy và độ tin cậy cao 
cho đối tượng bệnh nhân BTM. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Bostrom G, Eliasson M (2006), “Major public health problems 
– overweight and obesity”, Scandinavian Journal of Public 
Health, 34(67), pp. 69–77. 
2. Cooper BA et al (2002), “Validity of subjective global 
assessment as a nutritional marker in end-stage renal disease”, 
Am J Kidney Dis, 40, pp.126-132. 
3. De Jong PE et al (2002), “Obesity and target organ damage: the 
kidney”, Int J Obes Relat Metab Disord, 26 (4), S21–S24. 
4. Detsky AS, McLaughlin JR, Baker JP, Johnston N, Whittaker S, 
Mendelson RA & Jeejeebhoy KN (1987), “What is subjective 
global assessment of nutritional status”, Journal of Parenteral 
and Enteral Nutrition, 11(1), pp.8–13. 
5. Enia G, Sicuso C et al (1993), “Subjective global assessment of 
nutrition in dialysis patients”, Nephrol Dial Transplant, 8, 
pp.1094-1098. 
6. Fiaccadori E et al (1999)," Prevalence and clinical outcome 
associated with preexisting malnutrition in acute renal failure: 
a prospective cohort study”, J Am Soc Nephrol, 10(3), pp.581-
93. 
7. Gelber RP et al (2005), “Association between body mass index 
and CKD in apparently healthy men”, Am J Kidney Dis, 46, 
pp.871-880. 
8. Heimburger DC (2008), “Malnutrition and nutritional 
assessment”, Harrison’s primciples of internal medicine, 17th 
ed, The M. C. Graw Hill companies. Inc, pp.450 – 454. 
9. Hsu CY et al (2006), “Body mass index and risk for end-stage 
renal disease”, Ann Intern Med, 144, pp.21– 28. 
10. Iseki K et al (2004), “Body mass index and the risk of 
development of end-stage renal disease in a screened cohort”, 
Kidney Int, 65, pp.1870– 1876. 
11. Jane A et al (2001), “Prevalence and Prognostic Significance of 
Malnutrition in Chronic Renal Insufficiency”, Journal of Renal 
Nutrition, 11(1), pp 16-22.xz 
12. K. Eeg-Olofsson et al (2009), “Risk of cardiovascular disease 
and mortality in overweight and obese patients with type 2 
diabetes: an observational study in 13,087 patients”, 
Diabetologia, 52, pp.65–73. 
13. Kruizenga HM et al (2005), “Effectiveness and cost-
effectiveness of early screening and treatment of malnourished 
patients”, Am J Clin Nutr, 82, pp.1082-1089. 
14. Lawson JA et al (2001), “Prevalence and prognostic 
significance of malnutrition in chronic renal insufficiency”, J 
Ren Nutr, 11, pp.16-22. 
15. National Kidney Foundation (2002), “K/DOQI clinical practice 
guidelines for chronic kidney disease: evaluation, 
classification, and stratification”, Am J Kidney Dis, 39, pp.1-
266. 
16. O’Bryan GT, Hostetter TH (1997), “The renal hemodynamic 
basis of diabetic nephropathy”, Semin Nephrol, 17, pp.93-100. 
17. Oliveira CM; Kubrusly M et al (2010), “Malnutrition in 
chronic kidney failure: what is the best diagnostic method to 
assess?”, J Bras Nefrol, 32 (1), pp.55-68. 
18. Stenvinkel P et al (1999), “Strong association between 
malnutrition, inflammation, and atherosclerosis in chronic 
renal failure”, Kidney Int, 55, pp.1899-1911. 
19. Tapiawala S et al (2006), “Subjective global assessment of 
nutritional status of patients with chronic renal insufficiency 
and end stage renal disease on dialysis”, J Assoc Physicians 
India, 54, pp.923-926. 
20. WHO expert consultation (2004), “Appropriate body-mass 
index for Asian populations and its implications for policy 
and intervention strategies”, The Lancet, 363, pp.157–163. 
21. World Health Organization (2000), “Obesity: Preventing and 
managing the global epidemic”, Report of WHO Consultation 
on Obesity, pp. 9. 

File đính kèm:

  • pdfvai_tro_cua_chi_so_khoi_co_the_va_bang_phan_loai_sga_trong_v.pdf