Tri thức dân gian trong lao động sản xuất được phản ánh qua tục ngữ Tày

Khảo sát tri thức dân gian nhằm giới thiệu, bảo tồn, phát huy những kinh

nghiệm quý báu của đồng bào dân tộc Tày đang là một nhu cầu cấp bách. Bởi

ngôn ngữ và văn hóa của các dân tộc thiểu số nói chung và dân tộc Tày nói

riêng đang đứng trước nguy cơ mang tính toàn cầu đó sự mai một và tiêu vong.

Khảo sát tri thức dân gian về lao động, sản xuất trong tục ngữ Tày thông qua

các ấn phẩm đã được xuất bản cho thấy đồng bào thường quan tâm đến những

kinh nghiệm về dự báo thời tiết, mùa vụ, trồng trọt, chăn nuôi, Những tri

thức dân gian này cần được lựa chọn để truyền dạy cho con em đồng bào dân

tộc Tày nói riêng và cộng đồng nói chung

Tri thức dân gian trong lao động sản xuất được phản ánh qua tục ngữ Tày trang 1

Trang 1

Tri thức dân gian trong lao động sản xuất được phản ánh qua tục ngữ Tày trang 2

Trang 2

Tri thức dân gian trong lao động sản xuất được phản ánh qua tục ngữ Tày trang 3

Trang 3

Tri thức dân gian trong lao động sản xuất được phản ánh qua tục ngữ Tày trang 4

Trang 4

Tri thức dân gian trong lao động sản xuất được phản ánh qua tục ngữ Tày trang 5

Trang 5

Tri thức dân gian trong lao động sản xuất được phản ánh qua tục ngữ Tày trang 6

Trang 6

pdf 6 trang minhkhanh 9560
Bạn đang xem tài liệu "Tri thức dân gian trong lao động sản xuất được phản ánh qua tục ngữ Tày", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Tri thức dân gian trong lao động sản xuất được phản ánh qua tục ngữ Tày

Tri thức dân gian trong lao động sản xuất được phản ánh qua tục ngữ Tày
No.18_Oct 2020|Số 18 – Tháng 10 năm 2020|p.98-103 DOI: 
1 
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC TÂN TRÀO 
ISSN: 2354 - 1431 
TRI THỨC DÂN GIAN TRONG LAO ĐỘNG SẢN XUẤT 
ĐƯỢC PHẢN ÁNH QUA TỤC NGỮ TÀY 
Hà Thị Chuyên1* 
1 Đại học Tân Trào 
* 
Email: hoahoctro8387@gmail.com 
Thông tin bài viết Tóm tắt 
Ngày nhận bài: 
15/7/2020 
Ngày duyệt đăng: 
20/9/2020 
 Khảo sát tri thức dân gian nhằm giới thiệu, bảo tồn, phát huy những kinh 
nghiệm quý báu của đồng bào dân tộc Tày đang là một nhu cầu cấp bách. Bởi 
ngôn ngữ và văn hóa của các dân tộc thiểu số nói chung và dân tộc Tày nói 
riêng đang đứng trước nguy cơ mang tính toàn cầu đó sự mai một và tiêu vong. 
Khảo sát tri thức dân gian về lao động, sản xuất trong tục ngữ Tày thông qua 
các ấn phẩm đã được xuất bản cho thấy đồng bào thường quan tâm đến những 
kinh nghiệm về dự báo thời tiết, mùa vụ, trồng trọt, chăn nuôi, Những tri 
thức dân gian này cần được lựa chọn để truyền dạy cho con em đồng bào dân 
tộc Tày nói riêng và cộng đồng nói chung. 
Từ khóa: 
tri thức, dân gian, lao 
động, sản xuất, tục ngữ Tày 
1. Mở đầu 
Tri thức dân gian (hay tri thức bản địa, tri thức địa 
phương) được hiểu theo nghĩa rộng là: các truyền 
thống lâu đời, kinh nghiệm, thực tiễn sống của một 
cộng đồng liên quan đến môi trường tự nhiên, xã hội, 
đời sống, tư duy của cộng đồng đó. Tri thức dân gian 
được truyền từ thế hệ này qua thế hệ khác, người này 
qua người khác, thông qua truyện kể, huyền thoại, văn 
học dân gian, các nghi lễ, lễ thức, tập quán, lề thói, 
quy định, luật tục. Đồng bào dân tộc Tày vốn là những 
cư dân nông nghiệp. Do vậy, để có một vụ mùa được 
thu hoạch, họ phải bỏ ra rất nhiều thời gian và công 
sức. Khi khoa học và các phương tiện thông tin đại 
chúng chưa phát triển, đồng bào chủ yếu dựa vào việc 
quan sát sự biến chuyển của vạn vật, từ năm này qua 
năm khác, sđời này qua đời khác để phát hiện ra các 
quy luật tự nhiên. Những quy luật ấy được đồng bào 
tích lũy thành vốn tri thức dân gian. 
Để có cơ sở về mặt định lượng cho việc nghiên 
cứu chúng tôi tiến hành khảo sát 2251 câu tục ngữ 
chúng tôi thấy rằng đồng bào dành sự quan tâm nhiều 
đến các phương diện như: thời tiết, mùa vụ, trồng trọt, 
chăn nuôi, buôn bán 
2. Nội dung 
2.1. Thời tiết 
 Nông nghiệp của người Tày trước kia phụ thuộc 
hoàn toàn vào tự nhiên. Vì vậy, thời tiết có ý nghĩa hết 
sức quan trọng và là mối quan tâm hàng đầu của đồng 
bào. Trước mỗi vụ trồng trọt, đồng bào thường quan 
sát môi trường xung quanh để đưa ra những dự báo 
thời tiết góp phần tạo nên những mùa vụ bội thu. Khảo 
sát các căn cứ đưa ra dự báo thời tiết được đồng bào 
dân tộc Tày sử dụng trong tục ngữ chúng tôi thu được 
kết quả sau: 
H.T.Chuyen/ No.18_Oct 2020|p.98-103 
Bảng 1 Căn cứ đưa ra các dự báo thời tiết 
STT Căn cứ dự báo Tần số 
1. 
Thiên tượng 
sấm 33 
2. trời 11 
3. mây 10 
4. sao 5 
5. gió 3 
6. cầu vồng 1 
7. 
Vật tượng 
Động vật 
hoãng 4 
8. diều hâu 3 
9. cuốc 3 
10. cóc 2 
11. ếch 2 
12. hươu 2 
13. nai 2 
14. ong 2 
15. nhái 1 
16. trâu 1 
17. kiến 1 
18. quang quýnh 1 
19. cá 1 
20. con thiêu thân 1 
21. 
Thực vật 
cây gạo 2 
22. mắc mặt 1 
23. mác foòng 1 
24. cây lai 1 
25. 
Căn cứ khác 
lửa 4 
26. vòng sắt 2 
27. vòng đồng 2 
Tổng 102 
Qua bảng 1, chúng tôi thấy rằng, đồng bào dân tộc 
Tày căn cứ vào rất nhiều phương diện khác nhau để 
đưa các dự báo về thời tiết. Trong đó, thiên tượng là 
phương diện thường được đồng bào căn cứ để đưa các 
dự báo. Trong các hiện tượng tự nhiên sấm là yếu tố 
được đồng bào sử dụng nhiều nhất 33/ 102 lượt dùng. 
Người Tày sử dụng tiếng sấm để dự báo thời thời tiết 
bởi đồng bào quan niệm sấm là trống của trời. Bằng 
H.T.Chuyen/ No.18_Oct 2020|p.98-103 
kinh nghiệm của mình đồng bào dân tộc Tày đã đúc 
rút được: fạ đăng cón bấu luổn phân (trời sấm trước 
không hay mưa) [3, tr. 139]. Sấm trước khi mưa thì 
lượng mưa nhỏ, thời gian mưa ngắn, cục bộ, đôi khi là 
bên này đường thì mưa mà bên kia đường thì nắng. 
Hiện tượng này được khoa học giải thích là do khu 
vực đó chịu nhiệt nóng không đồng đều hình thành. 
Ngược lại, nếu mưa rồi mới có sấm chớp thì trận mưa 
đó sẽ to do nhiệt độ thấp sự ngưng tụ cao. Thời điểm 
xuất hiện tiếng sấm cũng là cơ sở để đồng bào Tày dự 
báo thời tiết Fạ đăng bươn chiêng phiêng lắt lý/ Fạ 
đăng bươn nhỉ chí thau mằn/ Fạ đăng bươn slam ham 
dủng doảng (Trời sấm tháng giêng nước tràn ngập/ 
Trời sấm tháng hai gỡ dây lang/ Trời sấm tháng ba 
khiêng đàng hoàng, không vội vã) [3, tr. 138] 
Ngoài căn cứ vào tiếng sấm để dự báo thời tiết 
người Tày còn quan sát các đám mây, màu sắc của 
mây, sự lưu chuyển của đám mây trên bầu trời, ánh 
sáng mặt trời, mặt trăng, các vì sao, hương vị của gió 
trong không khí để có thể đoán biết được diễn biến 
thời tiết. 
Fạ kết pja lẻ phân/ Fạ kết hên lẻ đét (Trời có mây 
hình vẩy cá thì mưa/ Trời có mây hình vẩy beo thì 
nắng) [3, tr.139] 
Ngoài việc quan sát mây để đưa ra các dự báo về 
thời tiết thì đồng bào dân tộc Tày còn căn cứ vào gió. 
- Lồm bưởng băc lẻ phân/ Lồm bưởng đông lẻ đet. 
(Gió hướng bắc thì mưa/ Gió hướng đông thì nắng.) 
[3, tr. 153] 
- Lồm pảo cón bấu phân/ Lai đao bân fạ đét (Gió 
thổi trước không mưa / Đêm nhiều sao ngày nắng.) [3. 
Tr. 153] 
Ngoài căn cứ vào thiên tượng, đồng bào dân tộc 
Tày còn căn cứ vào vật tượng để đưa ra các dự báo về 
thời tiết. Trong các vật tượng dùng để dự báo thời tiết 
đồng bào dân tộc Tày sử dụng động vật nhiều hơn 
thực vật. Các loài động vật hoang dã như: hoẵng, 
hươu, diều hâu, cuốc, ếch chiếm ưu thế tuyệt đối so 
với các loài vật nuôi gia đình. 
Trong các vật tượng dùng để dự báo thời tiết 
hoẵng có tần số cao hơn cả. 
- Nạn khóc vạ đét/ Quang keéc vạ phân (Hoãng kêu 
trời nắng/ Hươu kêu trời mưa) [3, tr. 158] 
- Nạn khuô vạ đét/ Quang ket fạ phân (Hoãng cười 
trời nắng/ Hươu giác trời mưa) [3, tr. 158] 
 Ngoài quan sát các loài thú trên rừng thì đồng 
bào dân tộc Tày còn quan sát sự vật động của những 
loài vật gần gũi với sinh hoạt như: ếch, nhái, chim 
- Cốp khuyết loỏn fạ phân/ Lẳm quạ bân fạ đét 
(Ếch nhái kêu trời mưa/ Diều hâu lượn cao trời nắng) 
[3, tr. 135] 
- Mèng mẩu khẩu dắp đén nhao nhao / Bấu lồm tố 
phân bấu quá đai (Thiêu thân thi nhau lao vào đèn/ 
Không gió cũng mưa chắc chắn.) [ 3, tr 155] 
Thời tiết không chỉ được đồng bào dân tộc Tày dự 
đoán thông qua quan sát các hiện tượng xung quanh 
mà đồng bào còn quan tâm đến các hiện tượng. Qua 
khảo sát các phương diện dự báo thời tiết trong tục 
ngữ dân tộc Tày chúng tôi thu được kết quả sau: 
Bảng 2. Các hiện tượng thời tiết được đồng bào dự báo qua tục ngữ 
ST
T 
Các hiện tượng Tần số STT Các hiện tượng Tần số 
1 Mưa 29 6 Được mùa 5 
2 Lũ lụt 14 7 Mất mùa 4 
3 Nắng 13 8 Nóng 2 
4 Rét 12 9 Gió to 2 
5 Hạn hán 11 Tổng 92 
Qua bảng 2, chúng tôi thấy rằng, trong tục ngữ Tày, 
hiện tượng mưa được đồng bào đề cập đến nhiều nhất, 
sau đó là lũ lụt. Điều này có lẽ xuất phát từ thực tế sản 
xuất, bởi người Tày vốn là những cư dân nông nghiệp. 
Mà trong hoạt động sản xuất nông nghiệp nước là yếu 
tố hàng đầu ảnh hưởng tới quá trình sản xuất. 
Qua khảo sát chúng tôi thấy rằng số lượng các câu 
tục ngữ phản ánh hiện tượng thời tiết rét có tần số sử 
dụng không nhỏ. Những câu tục ngữ phản ánh hiện 
tượng thời tiết rét góp phần phản ánh đặc điểm cư trú 
của người Tày. Họ sống chủ yếu ở trung du và miền 
núi phía Bắc nước ta. Nơi có hai kiểu thời tiết phân 
H.T.Chuyen/ No.18_Oct 2020|p.98-103 
hóa rõ rệt là nóng và rét. Điều này làm nên đặc trưng 
riêng biệt cho tục ngữ của họ. Một nét riêng biệt nữa 
về thời tiết được phản ánh trong tục ngữ Tày đó là các 
tri thức về thời tiết biển hoàn toàn không được phản 
ánh. Điều này có thể được lí giải do không gian sinh 
sống của người Tày xa biển. 
2.2. Mùa vụ 
Sống hòa mình với thiên nhiên, các hiện tượng gần 
gũi như: quả chín, hoa nở, mùa láđã trở thành dấu 
hiệu để người Tày nhận biết thời điểm canh tác. 
Đồng bào dân tộc Tày cư trú ở miền núi phía Bắc 
nước ta, nơi có diện tích rừng khá lớn. Do vậy, đồng 
bào thường căn cứ vào dấu hiệu mùa quả chín để dự 
báo nông vụ: “Mác lót rường hang, mương phai lèo 
chướng” (quả nhót đỏ trôn, mương phai lo sửa). Quả 
nhót thường chín vào cuối tháng 2 âm lịch. Đây là thời 
điểm vùng núi phía Bắc nước ta bước sang mùa xuân 
khí hậu dần ấp áp. Do vậy, đồng bào cần chuẩn bị cho 
một vụ mùa mới. Ngoài dựa vào mùa quả nhót chín thì 
để dự báo mùa vụ người Tày còn dựa vào một số loại 
quả đặc trưng của vùng như: Mác phầy ốt rù đăng ván 
chả, mác phầy cắm hăm mạ đăm nà” (quả dâu da vừa 
lỗ mũi gieo mạ, dâu da tím dái ngựa cấy lúa). Dâu da 
chín bắt đầu từ tháng 3 tới hết tháng 5 âm lịch. Thời 
điểm này thời tiết nóng và mưa nhiều, ngày dài (nhiều 
ánh sáng), rất thuận lợi cho việc làm đất. Đồng bào 
dân tộc Tày thường gieo mạ vào tháng 3, nhưng cũng 
có năm thời tiết thất thường, tháng 3 vẫn rét chưa gieo 
mạ được. Do vậy, để có thể xác định chính xác thời 
gian gieo mạ đồng bào dân tộc Tày thường quan sát 
kích thước quả dâu da, vì quả dâu da đủ nhiệt độ, độ 
ẩm, ánh sáng thì nó mới phát triển. 
Đồng bào dân tộc Tày không chỉ căn cứ vào mùa 
quả chín để xác định nông lịch mà còn căn cứ vào 
những loại cây đặc trưng cho vùng trung du và miền 
núi phía Bắc: Bâư xâu kheo/ Noọng slao dá lỉn (Lá 
xau xau xanh/ Con gái chớ đi chơi) [3, tr. 188]. Cây 
xau xau là loại cây thân gỗ, thường mọc trên rừng. Khi 
mùa xuân sang, cây nẩy lộc, đâm chồi rất mạnh. Ngoài 
căn cứ vào xau xau thì đồng bào dân tộc Tày còn căn 
cứ vào một số loài hoa đặc trưng: Bjoóc cháu tốc tỉ / 
Khẩu tẩy slỉa tôm (Hoa chẩu rơi / Ngô vãi đất) [3, tr 
189]. Cứ vào độ tháng 3 tháng 4, hoa chẩu lại bung nở 
với vô vàn những bông trắng muốt, tinh khôi. Nó làm 
bừng sáng cả núi rừng và đó cũng là dấu hiệu để đồng 
bào dân tộc Tày bắt đầu một mùa tra ngô. 
Để xác định nông vụ ngoài căn cứ vào những dấu 
hiệu như: quả chín, hoa nở, mùa lá đồng bào dân 
tộc Tày còn căn cứ các tiết khí trong nông lịch: Đăm 
nà quá hạ chí/Slí tháp ngám đảy gòn (Cấy lúa sau hạ 
chí/mười gánh mới được một dậu). Tiết Hạ chí vào 
tháng 5 âm lịch là thời điểm giữa của mùa hạ. Bán cầu 
Bắc vào thời gian tiết hạ chí sẽ ngả về phía mặt trời 
nhiều hơn so với bán cầu Nam. Chính vì vậy, nước ta 
nhận lượng bức xạ lớn, ngày dài hơn đêm. Đây là thời 
điểm tốt nhất cho sự phát triển của cây lúa. Nếu đồng 
bào cấy muộn sau tháng 5 thì tiết trời chuyển sang thu, 
nhiệt độ hạ dần, ánh sáng kém làm lúa phát triển yếu, 
thỉnh thoảng có đợt gió mùa đông bắc nhiệt độ dưới 
18 độ sẽ hạn chế lúa ra đòng, thụ phấn yếu, hạt lép dẫn 
tới năng suất kém. 
Ngoài việc xác định mùa vụ, trong tục ngữ, người 
Tày còn đúc kết được kinh nghiệm chọn giống sao cho 
thích hợp với thời tiết: Gẳm bươn pét slíp hả/Rủng 
đây đăm co lả/Láp lá đăm co thua (Đêm 15 tháng 
8/trăng sáng trong trồng giống lúa muộn/trăng sáng 
mờ mờ cấy giống lúa sớm). Đồng bào dân tộc Tày căn 
cứ vào ánh trăng rằm tháng 8 để chọn giống lúa, nếu 
trăng tròn vành vạnh, ánh sáng trong thì vụ tới cần 
chọn giống lúa muộn để cấy còn trăng chỉ sáng mờ mờ 
thì nên chọn giống lúa sớm để cấy. 
Tục ngữ Tày không chỉ đúc rút kinh nghiệm trồng 
lúa mà còn đưa ra những kinh nghiêm trồng một số 
loại cấy khác: Bươn chiêng nẳm qua tặng/ Slí hả ván 
thúa ngà (Tháng giêng trồng dưa leo /Tháng tư, tháng 
năm gieo vừng đỗ) [3, tr. 192]. Cây vừng là loại cây 
nhiệt đới, ưa khí hậu nóng ẩm. Do vậy, mỗi vùng miền 
ở nước ta sẽ có thời điểm gieo trồng khác nhau. Theo 
quan niệm của đồng bào Tày, thời vụ thích hợp nhất 
để trồng là tháng 4 – tháng 5. 
Như vây, qua tục ngữ đồng bào dân tộc Tày đã đúc 
rút được nhiều kinh nghiệm về thời điểm gieo trồng 
hiệu quả. Nhưng kinh nghiệm ấy đã được thế hệ con 
em đồng bào thực hành trong sản xuất và góp phần 
mang lại cuộc sống no ấm cho người Tày. 
2.3. Trồng trọt 
Trong nông nghiệp kĩ thuật trồng trọt là yếu tố cốt 
lõi. Do vậy, kinh nghiệm về trồng trọt là một phần 
không thể thiếu trong tục ngữ Tày. 
Đồng bào thường truyền nhau kinh nghiệm canh 
tác: rẩy óm chà, nà óm nặm (rẫy ủ cành, ruộng dầm 
nước), nghĩa là làm rẫy thì ủ cành lá cho mục, cho khô 
để đốt lấy tro làm phân bón cho cây trồng; còn làm 
ruộng thì ngâm nước cho đất ngấu. Khi làm đất đồng 
bào quan niệm: Thây nà lập đông, khẩu thuổm chang 
tổng, lậm cằn nưa phưa cằn tẩư (cày ruộng lập đông, 
lúa ngập đầy đồng, nặng trĩu đan nhau bờ trên bờ 
dưới) Trong trồng trọt, đồng bào dân tộc Tày không 
H.T.Chuyen/ No.18_Oct 2020|p.98-103 
chỉ chú trọng kĩ thuật làm đất mà họ còn rất quan tâm 
đến kĩ thuật trồng slíp co lả bấu tấng hả co hua (mười 
cây mạ cấy muộn không bằng năm cây mạ cấy sớm); 
Đăm nà tẳm ngoảng á, khẩu bấu quá ngài chiêng 
(Cấy ruộng tới lúc ve ran, gạo không qua cơm tết). 
Phân bón đóng góp không nhỏ cho sự sinh trưởng 
của cây lúa, tập quán làm phân, ủ phân đã được đồng 
bào dân tộc Tày sử dụng thành thạo: Khủn lồng cằn 
nưa/ Khẩu phưa cằn tâử (Phân bón bờ trên/ Lúa ken 
bờ dưới) [3, tr.238]; Đăm chay lèo pỏn khỉ/ Khẩu bắp 
chắng đảy chình (Trồng, cấy phải bón phân / Ngô lúa 
mới bội phần) [3, tr. 211]. 
Đồng bào dân tộc Tày canh tác song hành ruộng 
nước và nương rẫy. Với mỗi loại hình canh tác đồng 
bào có kĩ thuật canh tác riêng: Hết rẩy ốm chà, hết nà 
ốm nặm (Làm nương phải dấm lá cây, làm ruộng phải 
ngâm nước) [3,tr. 226]; Lảy đảy bươn lẻ quà / Nà đảy 
bươn lả quát (Rẫy đày tháng làm cỏ/ Ruộng được 
tháng sục bùn) [3, tr 241] 
Những kinh nghiệm về trồng trọt được đúc kết qua 
tục ngữ là nguồn tài liệu nông học quan trọng được 
đồng bào dân tộc Tày truyền từ đời này qua đời khác. 
Nó như kim chỉ nam cho hoạt động trồng trọt của 
đồng bào dân tộc Tày. 
2.4. Chăn nuôi 
Cũng giống như nhiều dân tộc khác, người Tày 
trong quá trình sinh sống ngoài tích lũy kinh nghiệm 
về hoạt động trồng trọt còn tích lũy được không ít 
kinh nghiệm chăn nuôi, săn bắn. 
Để chăn nuôi đạt hiệu quả kinh tế cao thì việc lựa 
chọn vật nuôi đòi hỏi phải có kinh nghiệm từ khâu chọn 
giống đến chăm sóc. Trong khâu chọn giống, đồng bào 
chú trọng nhiều tới việc lựa chọn con cái: Vài mè lẻ xa 
tua toọng tòa (Trâu cái giống thì chọn con bụng to ) 
[3, tr. 107]; Xa lùa chiêm tái, dự vài chiêm mẻ (Kén 
dâu xem bà mẹ, kén trâu giống xem con cái.) [3, tr. 
109]; Mu mè chẻ xu lình (Nuôi lợn sề thiến như mộc 
nhĩ ngâm) [3, tr.92]. 
Chọn giống vật nuôi ngoài căn cứ vào đặc điểm 
giới tính thì đồng bào dân tộc Tày còn dựa vào các 
yếu tố về hình thức: Bấu dảo mò khẻo lài/ Bấu tạu wài 
khẻo phước (Không nuôi bò răng vằn/ Không tậu trâu 
răng đen.) [3, tr. 73]; Mạ khúy xa tua ấc pháng (ngựa 
cưỡi cần tìm con rộng ngực) [3, tr. 89]. 
Trong tục ngữ Tày kinh nghiệm chọn giống vật 
nuôi được đồng bào tập trung phản ánh là chọn trâu, 
bò, ngựa, lợn Điều này có lẽ bởi người Tày nói 
riêng và người Việt nói chung vốn là những cư dân 
nông nghiệp nên trong điều kiện sản xuất chưa phát 
triển thì trâu, bò là sức kéo không thể thay thế. Ngoài 
ra địa bàn cư trú của người Tày chủ yếu ở vùng núi, 
nơi có địa hình không bằng phẳng, nhiều dốc, phương 
tiện đi lại hiện đại còn hạn chế nên từ xa xưa đồng bào 
chủ yếu dùng sức người và sức ngựa. Do vậy, ngựa trở 
thành phương tiện giao thông nhanh, tiện lợi và phù 
hợp nhất. Lợn là vật nuôi để cung cấp thực phẩm cho 
bữa ăn hằng ngày, đồng thời cũng là con vật dùng để 
hiến tế trong các nghi lễ quan trọng. 
3. Kết luận 
Tri thức dân gian về lao động, sản xuất được phản 
ánh qua tục ngữ Tày là vốn kinh nghiệm vô cùng quý 
báu mà đồng bào muốn truyền dạy cho con cháu. 
Trong đó, đồng bào đã đưa ra những dự báo về thời 
tiết dựa trên thiên tượng, dự báo mùa vụ căn cứ vào 
các hiện tượng gần gũi như: quả chín, hoa nở, mùa lá, 
các tiết khí trong nông lịch. Để mùa vụ bội thu đồng 
bào truyền cho con cái những kinh nghiệm về làm đất, 
thời điểm và kĩ thuật canh tác. Trong chăn nuôi, đồng 
bào đã đúc rút kinh nghiệm chọn giống trâu, bò, ngựa, 
lợn... căn cứ trên các đặc điểm về giới tính và hình 
thức. Những tri thức dân gian này được đúc kết ngắn 
gọn, hàm súc và có giá trị lâu bền không chỉ trong sản 
xuất của người Tày mà có thể áp dụng rộng rãi. 
References 
1. Tran Thi An, Proverbs of Vietnamese Ethnic 
Minorities, Volume 1, Social Science Publishing 
House, 2013. 
2. Tran Thi An, Proverbs of Vietnamese Ethnic 
Minorities, Volume 2, Social Science Publishing 
House, 2013. 
3. Tran Thi An, Proverbs of Vietnamese Ethnic 
Minorities, Volume 3, Social Science Publishing 
House, 2013. 
4. Trieu An, Hoang Quyet, Dictionary of idioms 
and proverbs of the Tay ethnic, National Cultural 
Publishing House, 1996. 
5. Hoang Quyet, Hoang Trieu An, Idioms, 
proverbs, folk songs of Tay ethnic , Culture and 
Information Publishing House, 2014. 
6. Do Huu Chau, Vietnamese Vocabulary - 
Semantics, Education Publishing House, 1999. 
7. Dinh Trong Lac, Nguyen Thai Hoa, Vietnamese 
Language Learning Style, Education Publishing 
House, 1996. 
H.T.Chuyen/ No.18_Oct 2020|p.98-103 
FOLK KNOWLEDGE IN PRODUCTION REFLECTED 
IN TAY ETHNIC’S PROVERBS 
Article info Abstract 
Recieved: 
15/7/2020 
Accepted: 
20/9/2020 
 Surveying folk knowledge in order to introduce, preserve and promote valuable 
experiences of the Tay ethnic is an urgent need. Because the language and culture 
of the ethnic minorities in general and Tay ethnic in particular are facing that 
global risk of lost gradually and perish. Surveying folk knowledge about labor and 
production in Tay ethnic’s proverbs, through published publications shows that 
people often pay attention to experiences in weather forecasting, seasons, 
cultivation, and breeding These folk knowledge should be selected to teach 
children of the Tay ethnic in particular and the community in general. 
Keywords: 
folk, knowledge, 
prodution, labor, Tay 
ethnic’s proverbs. 

File đính kèm:

  • pdftri_thuc_dan_gian_trong_lao_dong_san_xuat_duoc_phan_anh_qua.pdf