Tình trạng nhiễm ihhnv ở tôm sú nuôi (peneaus monodon) trên các mô hình nuôi ở đồng bằng sông Cửu Long
Virus gây bệnh hoại tử cơ quan tạo máu và lập biểu mô (IHHNV) là nguyên nhân gây chết trên
tôm xanh, hội chứng biến dạng và còi cọc chậm lớn trên tôm thẻ chân trắng. Mẫu tôm sú được thu
từ các mô hình nuôi (thâm canh, bán thâm canh và quảng canh) và trại giống ở Đồng bằng sông
Cửu Long và miền Trung từ năm 2012-2013. Mẫu tôm thu ở các mô hình nuôi sẽ được theo dõi
và thu 4 đợt trong suốt vụ nuôi. Mẫu tôm bố mẹ và ấu trùng ở các trại giống sẽ thu theo giai đoạn
biến thái (Nauplii, Zoea, Mysis và Postlarve) được phân tích bằng PCR. Kết quả phân tích PCR
trên tôm sú trên mô hình nuôi quảng canh ở Cà Mau và Bạc Liêu là 46,59±10,52 và 32,53±10,07%.
Trên mô hình bán thâm canh ở Trà Vinh và Bạc Liêu có tỷ lệ nhiễm trung bình là 62,77 ±14,4% và
36,77±7,6%. Trong đó tỷ lệ nhiễm thấp nhất ở đầu vụ nuôi là 22,22±10,3% và cao nhất ở cuối vụ
nuôi là 92,31±14,5%. Trên mô hình thâm canh tỷ lệ nhiễm trung bình ở Kiên Giang là 38,64±14,4%
và ở Sóc Trăng là 31,25±22,7%, tỷ lệ thấp nhất là 16,67±21,1%, và cao nhất là 62,50±33,5%. Trên
trại giống, trại quy mô lớn có tỷ lệ nhiễm IHHNV thấp hơn so với trại ương nhỏ cả 2 vùng miền
Nam và miền Trung. Tỷ lệ nhiễm IHHNV ở con mẹ tham gia sinh sản tự nhiên có tỷ lệ nhiễm cao
hơn 50% quần đàn. Kết quả nghiên cứu cho thấy, ở tôm sú nuôi ở tất cả mô hình và trại giống đều
có hiện diện IHHNV. Tỷ lệ nhiễm IHHNV phụ thuộc vào thời gian, độ tuổi tôm nuôi, điều kiện môi
trường và quá trình chăm sóc, Kết quả điều tra cho thấy năng suất cũng không có sự khác biệt rõ
ràng giữa đàn tôm sú nhiễm và không nhiễm trong các mô hình nuôi. Tuy nhiên, để hạn chết sự lây
lan và tôm nuôi phát triển tốt nhất thì quần đàn đó không nhiễm bất cứ virus nào, chính vì vậy nên
xét nghiệm con mẹ và giống trước khi đưa vào sinh sản và ương nuôi.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Tóm tắt nội dung tài liệu: Tình trạng nhiễm ihhnv ở tôm sú nuôi (peneaus monodon) trên các mô hình nuôi ở đồng bằng sông Cửu Long
102 TAÏP CHÍ NGHEÀ CAÙ SOÂNG CÖÛU LONG - 4 - THAÙNG 10/2014 VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN 2 TÌNH TRẠNG NHIỄM IHHNV Ở TÔM SÚ NUÔI (Peneaus monodon) TRÊN CÁC MÔ HÌNH NUÔI Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG Cao Thành Trung1*, Nguyễn Hồng Lộc1, Phạm Công Nguyên2 và Nguyễn Văn Hảo3 TÓM TẮT Virus gây bệnh hoại tử cơ quan tạo máu và lập biểu mô (IHHNV) là nguyên nhân gây chết trên tôm xanh, hội chứng biến dạng và còi cọc chậm lớn trên tôm thẻ chân trắng. Mẫu tôm sú được thu từ các mô hình nuôi (thâm canh, bán thâm canh và quảng canh) và trại giống ở Đồng bằng sông Cửu Long và miền Trung từ năm 2012-2013. Mẫu tôm thu ở các mô hình nuôi sẽ được theo dõi và thu 4 đợt trong suốt vụ nuôi. Mẫu tôm bố mẹ và ấu trùng ở các trại giống sẽ thu theo giai đoạn biến thái (Nauplii, Zoea, Mysis và Postlarve) được phân tích bằng PCR. Kết quả phân tích PCR trên tôm sú trên mô hình nuôi quảng canh ở Cà Mau và Bạc Liêu là 46,59±10,52 và 32,53±10,07%. Trên mô hình bán thâm canh ở Trà Vinh và Bạc Liêu có tỷ lệ nhiễm trung bình là 62,77 ±14,4% và 36,77±7,6%. Trong đó tỷ lệ nhiễm thấp nhất ở đầu vụ nuôi là 22,22±10,3% và cao nhất ở cuối vụ nuôi là 92,31±14,5%. Trên mô hình thâm canh tỷ lệ nhiễm trung bình ở Kiên Giang là 38,64±14,4% và ở Sóc Trăng là 31,25±22,7%, tỷ lệ thấp nhất là 16,67±21,1%, và cao nhất là 62,50±33,5%. Trên trại giống, trại quy mô lớn có tỷ lệ nhiễm IHHNV thấp hơn so với trại ương nhỏ cả 2 vùng miền Nam và miền Trung. Tỷ lệ nhiễm IHHNV ở con mẹ tham gia sinh sản tự nhiên có tỷ lệ nhiễm cao hơn 50% quần đàn. Kết quả nghiên cứu cho thấy, ở tôm sú nuôi ở tất cả mô hình và trại giống đều có hiện diện IHHNV. Tỷ lệ nhiễm IHHNV phụ thuộc vào thời gian, độ tuổi tôm nuôi, điều kiện môi trường và quá trình chăm sóc, Kết quả điều tra cho thấy năng suất cũng không có sự khác biệt rõ ràng giữa đàn tôm sú nhiễm và không nhiễm trong các mô hình nuôi. Tuy nhiên, để hạn chết sự lây lan và tôm nuôi phát triển tốt nhất thì quần đàn đó không nhiễm bất cứ virus nào, chính vì vậy nên xét nghiệm con mẹ và giống trước khi đưa vào sinh sản và ương nuôi. Từ khóa: IHHNV, PCR, tôm sú, mô hình nuôi tôm, trại giống. 1 Trung tâm Quốc gia Quan trắc Cảnh báo Môi trường và Phòng ngừa Dịch bệnh Thủy sản Khu vực Nam bộ, Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản 2. 2 Trường Đại học khoa học Tự nhiên Tp. Hồ Chí Minh. 3 Viện Nghiên cứu Nuôi trồng Thủy sản 2. * Email: thanhtrung77@yahoo.com. I. MỞ ĐẦU Ngành nuôi tôm công nghiệp trên toàn cầu đã phát triển mạnh trong những năm qua, với giá trị xuất khẩu lên đến hàng tỷ đô la và là ngành mũi nhọn trong nền kinh tế các nước ở Châu Á và Châu Mỹ. Tuy nhiên, bên cạnh những giá trị mang lại thì nghề nuôi tôm cũng đang đối mặt với các mối nguy dịch bệnh do virus, vi khuẩn làm ảnh hưởng đến năng suất cũng như sản lượng tôm nuôi. Virus hoại tử cơ quan lập biểu mô và cơ quan tạo máu (IHHNV) là một trong những tác nhân gây bệnh có độc lực rất cao đối với tôm xanh Thái Bình Dương (Litopenaeus stylirostris), tỷ lệ tôm chết lên trên 103TAÏP CHÍ NGHEÀ CAÙ SOÂNG CÖÛU LONG - 4 - THAÙNG 10/2014 VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN 2 90 % sau 14 ngày lây nhiễm đối với tôm 30-50 ngày tuổi. Tuy nhiên, đối với tôm thể chân trắng và tôm sú nuôi (Penaeus vannamei và Penaeus monodon) tôm có thể mang nhiễm virus này, nhưng không gây chết đã được ghi nhận. Chúng chỉ gây hội chứng chậm lớn và dị dạng trên tôm nuôi (Bell và Lightner., 1984; Primavera và Quinito., 2000). Sự lây nhiễm IHHNV trên tôm sú Penaeus monodon trước đây không được quan tâm. Mặc dù vậy, một số nghiên cứu chỉ ra rằng IHHNV hiện diện trên loài tôm này và cũng gây ra hội chứng RDS ở các mẫu tôm sú nuôi bị nhiễm IHHNV tại Philippine. Kết quả nghiên cứu ở Philippine và Ấn Độ cho thấy tôm sú nuôi nhiễm IHHNV làm cho tôm chậm lớn, kích thước nhỏ và biến dạng lớp kitin. Bên cạnh đó, sự biến dạng xuất hiện ở tôm kích thước lớn (hoặc nuôi lâu ngày) cho thấy hội chứng RDS biểu hiện phụ thuộc vào độ tuổi và kích thước tôm sú nuôi (Primavera và Quinito., 2000; Rai và ctv., 2009). IHHNV được phát hiện phân bố rộng rãi trong tôm sú nuôi khu vực Đông và Đông Nam Á nhưng dường như không ảnh đến sự phát triển của tôm nuôi cũng như số lượng trứng được đẻ và tỷ lệ nở trứng từ tôm mẹ nhiễm hay không nhiễm cũng như sản lượng nuôi về sản lượng (Flegel., 1997; Withyachumnarnkul và ctv., 2006). Một nghiên cứu khác ở Brazil mới đây trên tôm thẻ chân trắng cho thấy, mặc dù sự hiện diện của IHHNV với tỷ lệ rất cao nhưng khi phân tích thống kê thì thấy không có mối tương quan nào giữa sự nhiễm IHHNV và dấu hiệu RDS hay trọng lượng cơ thể tôm cũng như thời gian nuôi trong ao (Braz và ctv., 2009). Đây là điều rất thú vị và câu hỏi đặt ra là IHHNV có ảnh hưởng đến quần đàn tôm sú ở Việt Nam có hay không? Trên tôm sú nuôi ở Đồng bằng sông Cửu Long nói riêng và ở Việt Nam nói chung, có rất ít nghiên cứu liên quan đến việc phát hiện IHHNV nhiễm trên tôm sú và ảnh hưởng của nó. Nghiên cứu về tần xuất hiện diện và sự lan truyền của IHHNV trên tôm sú nuôi rất hạn chế. Chỉ có một vài nghiên cứu gần đây của nhóm nghiên cứu Hùng và ctv., (2009) đánh giá về tần xuất xuất hiện IHHNV trên tôm sú nhưng số lượng mẫu rất hạn chế, 307 mẫu (tỷ lệ nhiễm 160/307 ≈ 52,12%). Do đó, còn rất nhiều các vấn đề cần được làm rõ liên quan đến virus IHHN tại Việt Nam như: Tình trạng nhiễm IHHNV trên quần đàn tôm bố mẹ; Khả năng lây truyền của chúng sang thế hệ con trong điều kiện sản suất và an toàn sinh học thực tế tại Việt Nam; Tỷ lệ nhiễm IHHNV ở giai đoạn tôm sú giống xuất bán và các giai đoạn nuôi thương phẩm. Trong điều kiện nuôi trồng thực tế, các vật mang virus IHHN là một trong những yếu tố quan trọng góp phần lây lan tác nhân virus theo chiều ngang, vì thế những khảo sát về các vật mang IHHNV quanh khu vực nuôi cũng rất cần. Sự chậm lớn và kích thước nhỏ của tôm sú thương phẩm gần đây cũng đã đ ... là do đặc thù của vùng địa lý thổ nhưỡng và tập quán canh tác của từng vùng. Trong vùng nuôi ở Trà Vinh, hệ thống thủy lợi nhỏ hẹp, mọi hoạt động lấy nước cũng như thải nước đều diễn ra trên một dòng kênh nhỏ. Trong khi khu vực thu mẫu ở Bạc Liêu, nước nuôi được cung cấp từ những nguồn nước ở gần bờ biển. Theo Pantoja và ctv., (1999), nguồn nước bị ô nhiễm sẽ ảnh hưởng mạnh mẽ đến tỷ lệ nhiễm IHHNV trên tôm thẻ chân trắng và tôm xanh sống trong vùng này. Sự hiện diện của virus IHHN trên tôm xanh P. stylirostris khá cao ở quanh khu vực vịnh California, Mỹ và vịnh Sonora, Mehico do nguồn nước của 2 vịnh này thường xuyên bị ô nhiễm do hoạt động của ngành nông nghiệp. Ở mô hình nuôi thâm canh, tỷ lệ nhiễm IHHNV ở Kiên Giang là 38,64±14,4% và ở Sóc Trăng là 31,25±22,7%. Tuy nhiên, do những ao nuôi mà chúng tôi thu ở Sóc Trăng bị dịch bệnh gan tụy cấp nên đã chết sớm ở giai đoạn 1-2 tháng tuổi nên không thể nghi nhận tỷ lệ nhiễm IHHNV ở giai đoạn tôm nuôi 3-4 tháng tuổi. Ngoài ra, kết quả phân tích cũng cho thấy ở tất cả các mô hình nuôi khảo sát tỷ lệ tôm nhiễm IHHNV luôn cao nhất trong đợt thu mẫu tôm lúc hơn 4 tháng tuổi. Thời điểm này được ghi nhận là rơi vào mùa mưa, thời tiết có xu hướng lạnh hơn và độ mặn cũng giảm hơn. Do đó, tỷ lệ nhiễm cao hơn có thể do tôm lúc này dễ bị stress dưới ảnh hưởng của sự biến đổi nhiệt độ và độ mặn dẫn đến sự thay đổi áp suất thẩm thấu của tế bào chủ, khiến cho quá trình xâm nhiễm của virus xảy ra dễ dàng hơn (Jimenez và ctv., 1999). Theo Montgomery- Brock và ctv., (2007), virus sẽ lây truyền và phát triển nhanh ở nhiệt độ thấp. Cụ thể, khi lây nhiễm virus cho tôm bằng phương pháp tiêm ở nhiệt độ thấp 240C, sau 6 ngày thì virus bắt đầu nhân sinh mạnh, trong khi đó ở nhiệt độ 300C trở lên thì virus nhân sinh mạnh bắt đầu từ ngày thứ 17. Một nghiên cứu khác trên virus đốm trắng WSSV của Hảo và ctv., (2007) đã chỉ ra rằng tỷ lệ WSSV nhiễm trên tôm nuôi ở mô hình quảng canh trong mùa mưa ở ĐBSCL (tháng 9 dương lịch) rất lớn, chiếm 30% ao nuôi trong mùa mưa do sự thay đổi đột ngột môi trường về nhiệt độ cũng như độ mặn. Chính vì vậy nhiệt độ và độ mặn luôn là những nhân tố quan trọng, ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình lây nhiễm và nhân sinh của virus. Có rất nhiều thống kê cho thấy tỷ lệ nhiễm IHHNV rất cao trong các quần đàn tôm bố mẹ, đặc biệt trên tôm thẻ chân trắng. Theo Motte và ctv., (2003), tỷ nhiễm IHHNV trên quần đàn tôm bố mẹ rất cao 63% ở Ecuador và trên 95% IHHNV ở Panama. Tỷ lệ nhiễm virus cao và nhanh chóng lan truyền truyền dọc cho thế hệ con trong hệ thống nuôi trồng thủy sản mở đã được chứng minh (Pantoja và ctv., 1999). Bên cạnh đó, một số tôm mẹ nhiễm IHHNV không có biểu hiện lâm sàng về bệnh do virus này, nhưng chúng có thể mang mầm bệnh và truyền virus qua thế hệ con của chúng. Trong nghiên cứu này, ở những trại ương giống quy mô lớn ở miền Trung, giai đoạn Nauplii có tỷ lệ nhiễm 2,94±4,0% nhưng đến giai đoạn postlarvae, tỷ lệ nhiễm IHHNV tăng lên 26,47±10,5%. Trong khi ở trại ương quy mô nhỏ, tỷ lệ nhiễm IHHNV ở tất cả các giai đoạn đều cao hơn rất nhiều Nauplii: 47,83±14,4%, Zoea: 67,39±13,5%, Mysis: 80,43±11,5%, Postlarve: 80,43±11,5%. Tỷ lệ nhiễm virus trên tôm bố mẹ ở trại ương quy mô lớn là 45,3±13,4, cũng thấp hơn nhiều so với tỷ lệ nhiễm trên tôm bố mẹ ở trại ương quy mô nhỏ (73,33±15,8 %). Kết quả này chứng tỏ tỷ lệ nhiễm IHHNV có thể tùy thuộc vào tỷ lệ nhiễm IHHNV của con bố mẹ tham gia sinh sản. Tuy nhiên, có một ghi nhận khá thú vị là ở các trại ương quy mô 110 TAÏP CHÍ NGHEÀ CAÙ SOÂNG CÖÛU LONG - 4 - THAÙNG 10/2014 VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN 2 nhỏ ở miền Trung, tỷ lệ tôm bố mẹ nhiễm virus IHHN là 45,3 ±13,4%, không cao hơn so với tỷ lệ nhiễm của tôm bố mẹ trong những trang trại nhỏ ở miền Nam (51,43±16,6), nhưng tỷ lệ nhiễm virus ở tất cả các giai đoạn từ Nauplii đến postlarve đều cao hơn rất nhiều trên 47%. Ngoài ra, sự hiện diện của IHHNV trên quần đàn tôm sú ở các trại ương có tỷ lệ thuận với sự phát triển giai đoạn của ấu trùng trên cả hai loại trang trại. Sự tăng lên này có thể là do trong quá trình ương nuôi, trại giống đã không tuân thủ nghiêm ngặt các điều kiên về an toàn sinh học dẫn đến quá trình nhiễm chéo hay do quá trình lây lan virus theo đường truyền ngang do sự ăn lẫn nhau. Cũng có thể là khi những con bố mẹ nhiễm virus ở mức độ nhẹ thì trứng của chúng cũng có mức độ nhiễm nhẹ, hoặc chưa nhiễm cho nên tỷ lệ nhiễm ở các đàn ấu trùng giai đoạn đầu thấp. Điều này cũng đã được chứng minh trên những trại ương tôm sú và tôm thẻ chân trắng trong các nghiên cứu của Motte và ctv., (2003) và Withyachumnarnkul và ctv., (2006). Những nghiên cứu trước đây cho thấy sự hiện diện trong quần đàn tôm bố mẹ tự nhiên và trong quần đàn tôm nuôi có mối liên hệ mật thiết với nhau trong việc lan truyền của virus từ trại giống đến các ao nuôi (Motte và ctv., 2003). Sự hiện diện IHHNV trong quần đàn tôm sú bố mẹ ở Phú Yên là 63,83%, cao hơn ở Rạch Gốc 58,51±8,3% và Đà Nẵng 46,01±9,2%. Có thể vì ở Phú Yên có địa lý gần với các tỉnh Ninh Thuận, Bình Thuận và Khánh Hòa là những tỉnh có mật độ trại sản xuất tôm giống rất cao dẫn đến ô nhiễm môi trường và phát tán các mầm bệnh ra môi trường. Chính điều này có thể đã tạo điều kiện mầm bệnh phát tán ra quần đàn tôm bố mẹ tự nhiên dễ dàng hơn. Ngoài ra, mối liên hệ về sự thay đổi về địa lý vùng với sự hiện diện IHHNV cũng đã được Pantoja và ctv., (1999) chứng minh. Sự thay đổi điều kiện địa lý như độ sâu của nước, sự bay hơi, hay lưu lượng luân chuyển giữa vùng nông và vùng sâu dẫn đến sự hiện diện IHHNV cao trong quần tôm xanh ở Vùng Gulf nằm giữa sông Colorado đến đảo Angel de la Guarda và Tiburón của Mexico. Thêm vào đó, còn có một nguyên nhân khác liên quan đến quá trình đánh bắt và bảo quản tôm bố mẹ. Ở Việt Nam, sau khi đánh bắt tôm bố mẹ tự nhiên thường được nuôi dưỡng trong thời gian dài trước khi bán cho các trại sản xuất giống dẫn đến sự lây truyền lẫn nhau giữa những con mang virus và con không mang virus. Mặc dù IHHNV hiện diện ở tỷ lệ nhiễm ở mức cao trong tất cả các gia đoạn của tôm sú từ ấu trùng, tôm nuôi và bố mẹ ở nhiều mô hình ương nuôi khác nhau. Tuy nhiên, kết quả điều tra cho thấy sự tác động của IHHNV không lớn về năng suất thu hoạch. Ở những ao nuôi tôm sú nhiễm và không nhiễm IHHNV không có sự chênh lệch về năng suất nuôi. Trung bình ở mô hình quảng canh là 30 kg/tháng/ha, mô hình nuôi bán thâm canh 5-7 tấn/ha. Ở trại giống, tỷ lệ nở của trứng của các con mẹ trong trại ương không có thay đổi về chất lượng và số lượng đàn ấu trùng khi ương. Kết quả nghiên cứu này phù hợp với những trên nghiên cứu tôm sú ở trưởng thành và tôm sú bố mẹ nuôi ở Thái Lan, IHHNV không có sự ảnh hưởng đến trọng lượng thân ở tôm nuôi và số lượng trứng cũng như nauplii từ con mẹ nhiễm và không nhiễm (Withyachumnarnkul và ctv., 2006) Nghiên cứu này cũng cho thấy rằng, tôm bố mẹ có nguồn gốc ở Việt Nam có tỷ lệ nhiễm IHHNV cao hơn rất nhiều. Do đó, Việt Nam cần phải chú ý hơn nữa trong việc quản lý môi trường, hạn chế tối đa việc sử dụng những con mẹ cho sinh sản không xét nghiệm các mầm bệnh. Đồng thời cần phải nâng cao kiến thức về nuôi dưỡng tôm mẹ sau khi đánh bắt cho ngư dân và quản lý trại ương nuôi. 111TAÏP CHÍ NGHEÀ CAÙ SOÂNG CÖÛU LONG - 4 - THAÙNG 10/2014 VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN 2 TÀI LIỆU THAM KHẢO Tài liệu tiếng Việt Nguyễn Văn Hảo, 2007. Các giải pháp quản lý bệnh virus cho nghề nuôi tôm ở Việt Nam. Nhiệm vụ hợp tác quốc tế về khoa học, công nghệ và môi trường. Trang 68. Phạm Văn Hùng, Nguyễn Tấn Bình, Nguyễn Đăng Ninh, Phạm Hùng Vân, Phạm Thành Hổ, 2009. Sự phổ biến của virus gây bệnh hoại tử dưới vỏ và cơ quan tạo máu trên tôm sú nuôi tại Việt Nam. Tạp chí Y Học TP. Hồ Chí Minh. Tập 13 (2). Trang 234-238 Tài liệu tiếng Anh Bell, T.A., and Lightner, D.V., 1984. IHHN virus: Infectivity and pathogenicity studies in Penaeus stylirostris and Penaeus vannamei. Aquaculture 38: 185-194. Braz RFS, Silva CPRO, Reis L.G., Martins P.C.C., Sales M.P.,, Meissner R.V., 2009. Prevalence of infectious hypodermal and hematopoietic necrosis virus (IHHNV) in Penaeus vannamei cultured in Northeastern Brazil. Aquaculture. 288:143–6 Claydon, K., Haji-Tajir, R,A., Said, H.M., Lakim, M.H., Tamat, W., 2010. Prevalence of shrimp viruses in wild Penaeus monodon from Brunei Darussalam. Aquaculture. 308:71–4 Flegel, T.W., 1997. Special Topic Review: Major viral diseases of the black tiger prawn (Penaeus monodon) in Thailand. World Journal of Microbiology and Biotechnology 13: 433-442. Lightner, D.V., Redman, R.M., Bell, T.A., Brock, J.A., 1983. Detection of IHHN virus in Penaeus stylirostris and Penaeus vannamei imported into Hawaii. J. World Maricult. Soc., 14: 212-225 Lightner, D.V., Redman, R.M., Nunan, L.N., Mohney, L.L., Mari, J.L., Poulos, B.T., 1997. Occurrence of WSSV, YHV and TSV in Texas shrimp farms in 1995: Possible mechanisms for introduction. World Aquaculture ’97 Book of Abstracts, World Aquaculture Society, Baton Rouge, LA. p 288 Montgomery-Brock, D., Tacon, A.G.J., Poulos, B., & Lightner, D.V., 2007. Reduced replication of infectious hypodermal and hematopoietic necrosis virus (IHHNV) in Litopenaeus vannamei held in warm water. Aquaculture, 265, 41–48. Motte, E., Yugcha, E., Luzardo, O.J., Castro, F., Leclercq, G., Rodrisguezj, J., Miranda, P., Borja, O., Serrano, J., Terreros, M., Montalvo, K., Narvasez, A., Tenorio, N., Cedno, V., Mialhe, E., and Boulo, V., 2003. Prevention of IHHNV vertical transmission in the white shrimp Litopenaeus vannamei. Aquaculture. 219, 57–70. OIE, 2009. Diagnostic Manual for Aquatic Animal Diseases 6th Edition. Office International des Epizooties (OIE), Paris. Chapter 2.2.2. Infectious Hypodermal and Hematopoietic Necrosis. pp. 78-95. Pantoja Lightner, D.V., and Holtschmit, K.H., 1999. Prevalence and Geographic Distribution of Infectious Hypodermal and Hematopoietic Necrosis Virus (IHHNV) in Wild Blue Shrimp Penaeus stylirostris from the Gulf of California, Mexico. Journal of Aquatic Animal Health. 1, 23-34. Primavera, J.H., Quinitio, E.T., 2000. Runt-deformity syndrome in cultures of the giant tiger prawn Penaeus monodon. J. Crust. Biol. 20, 796–802. Rai, P., Pradeep B., Safeena, M.P., Krabsetsve, K., La Fauce, K., Owens, L., and Karunasagar, I., 2013. Genomics, molecular epidemiology and diagnostics of infectious hypodermal and hematopoietic necrosis virus. Indian Journal of Virology, 23 (2). pp. 203-214 Withyachumnarnkul, B., Chayaburakul, K., Supak, L.A., Plodpai, P., Sritunyalucksana, K., Nash, G., 2006. Low impact of infectious hypodermal and hematopoietic necrosis virus (IHHNV) on growth and reproductive performance of Penaeus monodon, Dis. Aquat. Org. 69:129–136. 112 TAÏP CHÍ NGHEÀ CAÙ SOÂNG CÖÛU LONG - 4 - THAÙNG 10/2014 VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN 2 PREVELENCE OF IHHNV INFECTED BLACK TIGER SHIMPS IN DIFFERENCE OF CULTURE SYSTEMS IN MEKONG DELTA. Cao Thanh Trung1*, Nguyen Hong Loc1, Pham Cong Nguyen2, Nguyen Van Hao3 ABSTRACT Infectious hypodermal and hematopoietic necrosis virus (IHHNV) is the causative agent of patho- genic for Litopeneaus stylirostris whereas in Peneaus vannamei shrimp known to induce develop- ment and grown abnormalities. The survey performed at different black tiger shrimp state in dif- ference of culture systems (intensive, semi-extensive and extensive) and the harcheries in Mekong Delta and Centrer Region during from 2012-2013. The presence of IHHNV infected samples at the farms and the hatcheries will be analyzed by PCR assay. The PCR results, showed the average prevalence of IHHNV infection to be 46,59±10,52 and 32,53±10,07% in shrimp of intensive cul- ture in Ca Mau and Bac Lieu province, 62,77 ±14,4% and 36,77±7,6% in shrimp of semi-extensive culture in Tra Vinh and Bac Lieu province. In it the lowest infection rates in the first crop is 22,22 ± 10,3% and the highest at the end of the crop was 92,31 ± 14,5%. The average prevalence off IHHNV infected shrimp in the culture intensive in Kien Giang and Soc Trang are 38,64 ± 14,4% and 31,25 ± 22,7. The lowest infection rate in shrimp culture intensive was 16,67 ± 21,1%, and the highest infection rate was 62,50±33,5%. On the hatcheries in the southern and central regions, IHHNV prevalence infected shirmp in the large hatcheries is lower than both the small hatcheries in 2 regions. The captured wild brookstoks were also analyzed by PCR assay. The result showed that average prevalence of IHHNV infection was more than 50% in wild populations of peneaus mon- odon. The survey demonstrated that IHHNV had widespread distribution in all P. monodon shrimp state of the different culture system in a region. Prevalent of IHHNV rate in shrimp was depent on the shrimp age, culture time, environment condition and management. The survey show that shirmp production are not clear diffence between unfected and infected IHHNV shrimp or negatively affect the growth of their offspring. However, to limit the wildspread virus, the shrimp populations that are not yet infected with any virus and the brookstock and postlarvae were tested negative for these viruses before breeding, rearing and stocking. Keywords: Hatchery; PCR; Penaeus monodon; Culture system Người phản biện: TS. Lê Hồng Phước Ngày nhận bài: 10/8/2014 Ngày thông qua phản biện: 28/8/2014 Ngày duyệt đăng: 05/9/2014 1 Southern Monitoring Center for Aquaculture Environment and Epidemic, Research Institute for Aquaculture No2. 2 University of Science Ho Chi Minh City. 3 Research Institute for Aquaculture No2. * Email: thanhtrung77@yahoo.com.
File đính kèm:
- tinh_trang_nhiem_ihhnv_o_tom_su_nuoi_peneaus_monodon_tren_ca.pdf