Thông tin bổ trợ ở box và ảnh trong tác phẩm phỏng vấn trên báo Đà Nẵng
Tác phẩm phỏng vấn là cuộc đối thoại giữa nhà báo và người trả lời phỏng vấn về sự kiện, vấn đề thời sự hoặc nhân vật
mà công chúng quan tâm. Tác phẩm phỏng vấn được cấu thành bởi các thông tin chính (đề tài, đối tượng trả lời phỏng vấn, câu
hỏi, câu trả lời, tít, lời mở đầu) và thông tin bổ trợ (hộp dữ liệu – box và ảnh). Thông tin bổ trợ này có tác dụng bổ sung, minh họa
làm nổi bật thông tin chính. Trong nhiều trường hợp, thông tin bổ trợ còn là yếu tố “bắt mắt”, “níu giữ” độc giả khiến họ tìm hiểu
nội dung hỏi – đáp trong bài. Bài viết này tập trung nghiên cứu thực trạng sử dụng thông tin bổ trợ là box và ảnh trong tác phẩm
phỏng vấn báo in trên Báo Đà Nẵng năm 2017, 2018, 2019 và đưa ra một số gợi ý về việc sử dụng box và ảnh nhằm nâng cao
chất lượng tác phẩm phỏng vấn đáp ứng nhu cầu thông tin ngày càng cao của độc giả.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tóm tắt nội dung tài liệu: Thông tin bổ trợ ở box và ảnh trong tác phẩm phỏng vấn trên báo Đà Nẵng
UED Journal of Social Sciences, Humanities & Education, ISSN: 1859 - 4603 https://doi.org/10.47393/jshe.v11i1.926 TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI, NHÂN VĂN VÀ GIÁO DỤC 12 | Tạp chí Khoa học Xã hội, Nhân văn và Giáo dục, Tập 11, Số 1 (2021), 12-21 Cite this article as: Tran, T. T. (2021). Additional information boxes and photos in interview articles in Da Nang Newspaper. UED Journal of Social Sciences, Humanities and Education, 11(1), 12-22. https://doi.org/10.47393/jshe.v11i1.926 THÔNG TIN BỔ TRỢ Ở BOX VÀ ẢNH TRONG TÁC PHẨM PHỎNG VẤN TRÊN BÁO ĐÀ NẴNG Trần Thị Tuyết Trường Đại học Sư phạm - Đại học Đà Nẵng, Việt Nam Tác giả liên hệ: Trần Thị Tuyết - Email: tttuyet@ued.udn.vn Ngày nhận bài: 30-3-2021; ngày nhận bài sửa: 27-4-2021; ngày duyệt đăng: 17-6-2021 Tóm tắt: Tác phẩm phỏng vấn là cuộc đối thoại giữa nhà báo và người trả lời phỏng vấn về sự kiện, vấn đề thời sự hoặc nhân vật mà công chúng quan tâm. Tác phẩm phỏng vấn được cấu thành bởi các thông tin chính (đề tài, đối tượng trả lời phỏng vấn, câu hỏi, câu trả lời, tít, lời mở đầu) và thông tin bổ trợ (hộp dữ liệu – box và ảnh). Thông tin bổ trợ này có tác dụng bổ sung, minh họa làm nổi bật thông tin chính. Trong nhiều trường hợp, thông tin bổ trợ còn là yếu tố “bắt mắt”, “níu giữ” độc giả khiến họ tìm hiểu nội dung hỏi – đáp trong bài. Bài viết này tập trung nghiên cứu thực trạng sử dụng thông tin bổ trợ là box và ảnh trong tác phẩm phỏng vấn báo in trên Báo Đà Nẵng năm 2017, 2018, 2019 và đưa ra một số gợi ý về việc sử dụng box và ảnh nhằm nâng cao chất lượng tác phẩm phỏng vấn đáp ứng nhu cầu thông tin ngày càng cao của độc giả. Từ khóa: thông tin bổ trợ; hộp dữ liệu; box; ảnh; tác phẩm phỏng vấn; Báo Đà Nẵng. 1. Mở đầu Một tác phẩm phỏng vấn thành công bên cạnh việc mời đúng, trúng đối tượng trả lời; việc đề xuất hệ thống câu hỏi nhằm khai thác được chiều sâu thông tin từ người trả lời cũng đóng vai trò quan trọng (Trần, 2019). Bên cạnh đó, hệ thống thông tin bổ trợ là box và ảnh cũng góp phần quan trọng giúp bài phỏng vấn tăng khả năng tiếp cận nhiều đối tượng bạn đọc. Nếu trước khi thực cuộc phỏng vấn, việc chuẩn bị sẵn các câu hỏi để khai thác chiều sâu thông tin là bước căn bản quan trọng thì sau khi hoàn thành bài phỏng vấn, việc thể hiện thông tin bổ trợ để làm nổi bật, nhấn mạnh chủ đề cũng là điều được phóng viên luôn lưu tâm. Thông tin bổ trợ trong tác phẩm phỏng vấn bao gồm hộp dữ liệu - box và ảnh. Theo Lê Thị Nhã, có 5 dạng box thường xuất hiện trong tác phẩm phỏng vấn là: box chứa thông tin, số liệu liên quan đến sự kiện, vấn đề, nhân vật; box chứa văn bản, quy định pháp luật; box trích dẫn câu nói ấn tượng của người trả lời; box nêu ý kiến của một hoặc nhiều người khác liên quan; box nêu tiểu sử, thành tích của người được phỏng vấn (Lê, 2015, 148). Tác phẩm phỏng vấn cũng thường xuất 3 dạng ảnh chính: ảnh chân dung người trả lời phỏng vấn; ảnh sự kiện, vấn đề, bối cảnh liên quan đến chủ đề cuộc phỏng vấn; ảnh nhân vật trả lời kết hợp bối cảnh liên quan. Bài viết này nghiên cứu việc sử dụng box và ảnh trong tác phẩm phỏng vấn báo in trên Báo Đà Nẵng năm 2017, 2018 & 2019. Qua việc phân tích một số ưu điểm, hạn chế của box và ảnh, chúng tôi đề xuất một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng của việc sử dụng box và ảnh trong tác phẩm phỏng vấn trên Báo Đà Nẵng nhằm phục vụ tốt hơn nhu cầu tiếp nhận thông tin của độc giả. 2. Cơ sở lý thuyết và phương pháp nghiên cứu 2.1. Cơ sở lý thuyết 2.1.1. Lý thuyết truyền thông của C. Shannon Theo Lê Ngọc Hùng (2019), lý thuyết này được đưa ra năm 1949, nhấn mạnh quá trình truyền thông được thực hiện qua các bước: thông tin được bắt đầu từ nguồn phát (chủ thể truyền thông), sau khi thông điệp được mã hóa sẽ truyền tải các kênh truyền thông, thông điệp sẽ được giải mã và đến với người tiếp nhận thông điệp. ISSN: 1859 - 4603, UED Journal of Social Sciences, Humanities and Education, Vol. 11, No. 1 (2021), 12-21 13 Ngoài những đặc điểm chung kế thừa từ lý thuyết truyền thông một chiều của Lasswell (người gửi – thông điệp – kênh – người nhận), lý thuyết truyền thông Shannon còn bổ sung thêm yếu tố “nhiễu” có thể gây ảnh hưởng tới tính rõ ràng, sự chính xác của thông điệp hay làm giảm khả năng tiếp nhận thông điệp của người nhận và yếu tố “phản hồi” giữa người nhận với nguồn phát. Điều này khẳng định truyền thông là một quá trình trao đổi thông tin hai chiều, luôn diễn ra trong bối cảnh của các mối quan hệ tương tác giữa các cá nhân. Lý thuyết này thừa nhận: công chúng tiếp nhận thông điệp đóng vai trò quan trọng trong quá trình truyền thông, trở thành nguồn phát thông tin và giúp truyền thông trở thành quy trình khép kín. Lý thuyết này cho phép chúng tôi làm sáng tỏ chất lượng thông điệp là sự sống còn của tác phẩm báo chí. Thông tin có chất lượng làm nên giá trị tác phẩm, là bước quyết định đầu tiên khiến công chúng tìm đến báo chí. Chất lượng thông điệp cũng làm gia tăng uy tín của cơ quan báo chí, tạo được niềm tin của bạn đọc đối với tòa soạn. Và để có tác phẩm phỏng vấn thành công cần phản ánh đúng vấn đề thời sự; chọn đúng, trúng đối tượng trả lời; đặt ra hệ thống câu hỏi sắc đáng. Ngoài ra, việc sử dụng tốt các thông tin bổ trợ như box và ảnh cũng góp phần quan trọng trong việc giúp độc giả nắm bắt nhanh thông tin về vấn đề và người trả lời phỏng vấn. Trong nhiều trường hợp, độc giả quyết định đọc toàn văn bài phỏng vấn nhờ sự độc đáo, thú vị từ thông tin của box và hình ảnh được thiết kế một cách “bắt mắt”, ấn tượng cả về nội dung lẫn hình thức trình bày. 2.1.2. Lý thuyết “người gác cổng” Theo Nguyễn Thành Lợi (2016), khái niệm “người gác cổng” được nhà xã hội học người Mỹ Kurt Lewin đưa ra lần đầu tiên khi ông nghiên cứu vai trò “gác cổng” của các bà nội trợ đối với nguồn thực phẩm của gia đình. Năm 1947, trong cuốn sách Frontiers in Group Dynamics: II. Channels of Group Life, Kurt ... (năm 2019). Số ảnh được sử dụng trong bài trung bình từ 1 – 3 ảnh. Các dạng ảnh được sử dụng trong bài phỏng vấn gồm có: dạng 1: ảnh bối cảnh liên quan đến cuộc phỏng vấn (số lượng từ 1-2 ảnh); dạng 2: ảnh kết hợp giữa ảnh chân dung người trả lời và ảnh sự kiện, vấn Trần Thị Tuyết 18 đề, bối cảnh liên quan đến chủ đề cuộc phỏng vấn (số lượng từ 2-3 ảnh). 3.2.2. Tổ chức nội dung ảnh Tỉ lệ ảnh chân dung nhân vật chiếm khoảng một nửa số ảnh được sử dụng trong bài. Việc giới thiệu diện mạo người trả lời một cách trực diện thông qua ảnh chân dung làm tăng sự chú ý và tạo sức thuyết phục đối với độc giả. Ví dụ: Trong bài Tối ưu hóa công tác quản lý, điều hành giao thông đô thị (BĐN cuối tuần 03-03-2019), trao đổi với phóng viên, ông Lê Văn Trung, Giám đốc Sở Giao thông vận tải đã chia sẻ những nỗ lực trong công tác quy hoạch, quản lý, điều hành giao thông đô thị thời gian qua. Ông cũng cho biết, so với yêu cầu mới, hạ tầng giao thông ở Đà Nẵng còn rất nhiều việc phải làm. Đặc biệt, hiện trạng quy hoạch thành phố với nhiều khu vực phân lô, tạo nên nhiều nút giao thông với mật độ lớn và khoảng cách gần, vừa giảm khả năng thông hành vừa dễ gây xung đột, tiềm ẩn nguy cơ gây tai nạn giao thông. Việc sử dụng ảnh ông Lê Văn Trung, Giám đốc Sở Giao thông vận tải TP Đà Nẵng trong bài phỏng vấn đã giúp độc giả có thêm “cửa” thông tin qua thần thái nhân vật mà hình ảnh thể hiện. Việc đăng kèm hình ảnh trong bài phỏng vấn còn là kênh giao tiếp giúp độc giả có cơ hội đối thoại nhân vật như ngoài đời thực. Bài phỏng vấn lúc này không chỉ đăng tải cuộc trò chuyện giữa phóng viên với nhân vật mà còn giúp độc giả tham gia vào câu chuyện khi họ vừa được đọc thông tin qua phần câu hỏi và phần trả lời vừa được thấy diện mạo, sắc thái của người trả lời qua ảnh. Các bài phỏng vấn thời sự, phỏng vấn chuyên gia đều có ảnh đính kèm. Thường là ảnh người trả lời phỏng vấn và ảnh liên quan đến chủ đề cuộc phỏng vấn. Bài “Cần "cú hích" cho khởi nghiệp” (BĐN số 6710 ngày 13-2-2019) phỏng vấn và đăng ảnh chuyên gia kinh tế Võ Duy Khương. Sự xuất hiện hình ảnh chuyên gia giúp bài phỏng sinh động hơn. Bởi hình ảnh nhân vật đăng kèm có thể mang lại cảm giác thư thái cho độc giả, giúp họ tiếp nhận thông tin cách linh hoạt, nhẹ nhàng hơn. Dạng bài phỏng vấn anket chủ yếu sử dụng 1 ảnh sự kiện, vấn đề, bối cảnh liên quan đến nội dung chủ đề bài. Ví dụ: bàn về vấn đề làm gì để hạn chế ùn tắc giao thông, phóng viên sử dụng ảnh người dân lưu thông trên đường phố với nhiều phương tiện cá nhân, trong giờ cao điểm ùn tắc ở một số nút giao thông quan trọng. Bên cạnh những ưu điểm như trên, ảnh trong bài phỏng vấn trên Báo Đà Nẵng thời gian qua còn có những hạn chế nhất định. Nhiều ảnh nhân vật trả lời phỏng vấn còn được chụp theo môtip nghiêm trang, ngay ngắn, ít biểu hiện sắc thái biểu cảm. Ảnh được chụp theo góc máy ngang, chính diện theo kiểu chứng minh thư nhân dân. ISSN: 1859 - 4603, UED Journal of Social Sciences, Humanities and Education, Vol. 11, No. 1 (2021), 12-21 19 Ngoài góc máy cơ bản là ngang, chính diện, những góc máy khác ít được sử dụng nên chưa phát huy được chiều sâu thông tin đằng sau khuôn hình. Sự sinh động, hấp dẫn của hỉnh ảnh nhân vật chưa được chú ý đúng mức, theo đó hiệu quả tương tác thông qua hình ảnh chưa được phát huy tối ưu. Hiện tượng sử dụng lặp lại ảnh trong các bài phỏng vấn vẫn còn tồn tại. Ví dụ: Bài Phát huy hiệu quả nhiều mô hình tiêu biểu phỏng vấn Đại tá Nguyễn Hải, Bí thư Đảng ủy, Chính ủy BĐBP thành phố (BĐN số 6526 ngày 6-8-2018) và Bài Đẩy mạnh phong trào Thi đua quyết thắng để hoàn thành tốt nhiệm vụ phỏng vấn Đại tá Nguyễn Hải, Bí thư Đảng ủy, Chính ủy BĐBP thành phố (BĐN số 6618 ngày 6-11-2018) sử dụng chung một ảnh đại tá. Hơn nữa, số lượng ảnh “động” thể hiện thần thái của người trả lời còn hạn chế. Tỉ lệ ảnh nhân vật “thị sát” tại các sự kiện, vấn đề, bối cảnh liên quan còn quá khiêm tốn. Có một bài phỏng vấn sử dụng hình ảnh Nguyên Bí thư Thành ủy Nguyễn Xuân Anh trao đổi về đề án quy hoạch cán bộ trẻ dưới 35 tuổi tiến cử vào đội ngũ lãnh đạo của chính quyền thành phố với tiêu đề: Đừng lo cán bộ trẻ làm “hư bột hư hồ” sử dụng ảnh nhân vật đi thị sát nhà máy cấp nước Đà Nẵng. Tuy nhiên, ảnh này lại không phải do phóng viên Báo Đà Nẵng chụp. Toàn bộ nội dung cuộc phỏng vấn và hình ảnh được chụp là của phóng viên Tuổi trẻ. Báo Đà Nẵng đăng lại bài này. Một số bài phỏng vấn đăng ảnh của người trả lời quá nhỏ, khó “bắt mắt” độc giả. Ảnh chân dung nhân vật trả lời phỏng vấn cùng một môtip, gây sự đơn điệu, nhàm chán. 4. Kết luận Tác phẩm phỏng vấn được xem như cuộc đấu trí giữa phóng viên với nhân vật đối thoại. Trong tác phẩm phỏng vấn, câu hỏi và câu trả lời có vai trò quan trọng, quyết định đến hàm lượng thông tin mà bài báo muốn truyền tải cho công chúng. Để thông tin trong phần hỏi – đáp phát huy được hiệu quả cần có sự linh hoạt trong việc thiết kế và sử dụng box, ảnh, tít và sapo. Sử dụng box tốt nhằm bổ trợ thông tin theo chiều sâu mà dung lượng bài phỏng vấn không cho phép hoặc việc bố trí thông tin trong box ở một vị trí khác có thể không làm nổi bật thông tin cần thiết của bài phỏng vấn. Thông tin trong box và ảnh minh họa trong bài là những điểm nhấn quan trọng “thu hút”, “níu kéo” bạn đọc dành thời gian đọc những phần khác trong bài phỏng vấn. Box và ảnh cũng là cách thể hiện nghệ thuật của người Trần Thị Tuyết 20 phỏng vấn trong việc lựa chọn, thiết kế thông tin và kỹ năng chụp ảnh báo chí. Trong 223 tác phẩm phỏng vấn được khảo sát trên Báo Đà Nẵng năm 2017, 2018 và 2019, các dạng box và ảnh được sử dụng một cách linh hoạt và tỏ ra có hiệu quả. Mỗi loại box, ảnh được sử dụng đều có những ưu thế riêng và khi kết hợp với tít, sapo đã làm nổi bật chủ đề bài phỏng vấn. Tuy nhiên, kết quả nghiên cứu cho thấy vẫn còn xuất hiện nhiều box có thông tin chưa được chọn lọc, ít có tính độc đáo; hình thức box còn rập khuôn, đóng khung, ít có tính sinh động, gây khó khăn cho việc tiếp nhận thông tin của bạn đọc. Ảnh đi kèm chủ yếu là ảnh chân dung theo kiểu chứng minh thư nhân dân, đơn điệu, ít thể hiện thần thái nhân vật. Điều này chưa chứng minh được lao động sáng tạo của phóng viên trong nghiệp vụ “săn ảnh”. Hơn nữa, việc thiếu dạng bài phỏng vấn chân dung trên Báo Đà Nẵng thời gian qua cũng là lý do của sự vắng bóng các loại ảnh mang tính nghệ thuật về nhân vật điển hình. Để nâng cao hiệu quả việc sử dụng box và ảnh trong tác phẩm phỏng vấn trên Báo Đà Nẵng, chúng tôi đưa ra một số gợi ý sau: Một là, phóng viên cần rèn luyện kỹ năng “lẩy thông tin” làm box trong quá trình sáng tạo tác phẩm phỏng vấn. Kỹ năng này cần sự phối hợp với các kỹ năng tìm kiếm đề tài, lựa chọn đối tượng phỏng vấn và kỹ năng đặt câu hỏi. Khi có được góc tiếp cận độc đáo, mới, lạ, phóng viên có đủ thông tin đưa ra câu hỏi sắc bén. Câu hỏi sắc bén sẽ cho câu trả lời có hàm lượng thông tin cao. Từ đó, phóng viên có thể rút một thông tin trong câu trả lời làm box độc lập nhằm nhấn mạnh, tạo ấn tượng với độc giả. Bên cạnh đó, từ một thông tin, quan điểm mà người trả lời phỏng vấn nêu trong bài, phóng viên có thể mở rộng bằng việc tổng hợp ý kiến của các đối tượng liên quan đến vấn đề mà công chúng đang quan tâm. Hai là, tòa soạn chú trọng kênh thông tin đồ họa như là một “cửa” thông tin quan trọng. Khi chú ý “cửa” thông tin này, box và ảnh sẽ được đầu tư về mặt nội dung và hình thức để tạo sự thu hút đối với độc giả. Tòa soạn cũng cần nâng cao khả năng chụp hình cho các phóng viên, khuyến khích phóng viên có ý tưởng thiết đồ họa phục vụ cho bài phỏng vấn nói riêng và các dạng bài khác nói chung. Ngoài việc cho nội dung gì xuất hiện trong box, phóng viên có thể đề xuất vị trí đặt box, màu sắc, cỡ chữ và đường viền để box luôn tạo được điểm nhấn của bài báo, trang báo. Tòa soạn cần có đội ngũ thiết kế đồ họa đủ mạnh (về số lượng, chất lượng) để đảm bảo luôn đáp ứng tối đa nhu cầu tiếp nhận thông tin và thị hiếu thẩm mĩ của mọi đối tượng bạn đọc. Ba là, tòa soạn cần chú trọng công tác đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ cho phóng viên về nghiệp vụ “săn ảnh”. Muốn thực hiện được một tác phẩm phỏng vấn có chất lượng, với hình ảnh có sắc thái biểu cảm, mang tính “hoạt động”, “thị sát”, phóng viên cần biết kết hợp việc hỏi thông tin và biết nắm thời cơ bắt được khoảnh khắc đặc biệt của nhân vật Do vậy, các cơ quan báo chí nên kết hợp với các cơ sở đào tạo báo chí để tổ chức các khóa bồi dưỡng ngắn hạn cho đội ngũ phóng viên về nghiệp vụ nhiếp ảnh. Trong số báo đặc biệt (tết nguyên đán, quốc khánh), cần có phóng viên ảnh đi cùng phóng viên viết bài. Bốn là, tòa soạn cũng cần bổ sung dạng bài phỏng vấn điều tra và phỏng vấn chân dung (trong 223 bài được khảo sát, không có hai dạng bài này). Đây là các dạng bài tạo “đất diễn” cho việc đăng tải những bức ảnh sinh động. Hơn nữa, việc đổi mới trang báo về mặt hình thức (dàn trang, đồ họa, màu sắc) cũng cần được tòa soạn quan tâm nhằm tận dụng tối đa khả năng tiếp cận của độc giả, qua mọi “cửa” thông tin mà họ đọc lướt. Tài liệu tham khảo Ba, V. (2018). Promoting the campaign Competing positively to accomplish goals (Đẩy mạnh phong trào Thi đua quyết thắng để hoàn thành tốt nhiệm vụ). Da Nang Newspaper. 5. Dinh, V. H. (2011). Genres of newspapers (Các thể loại báo chí thông tấn). Vietnamese Education. Doan, S. (2017). Developing Hai Chau as a model civilized city (Xây dựng Hải Châu thành đô thị văn minh kiểu mẫu). Da Nang Newspaper. 5. Duyen, A. (2019). "Impetus" is in need for starting up a business (Cần cú “hích” cho khởi nghiệp). Da Nang Newspaper. 3. Ha, T. (2018). Relieving stress for teachers - Responsibility of managerial staff (Giảm áp lực cho giáo viên – trách nhiệm của cán bộ quản lí). Da Nang Newspaper. 2. Hoang, H. (2018). Promoting the impact of typical models (Phát huy hiệu quả nhiều mô hình tiêu biểu). Da Nang Newspaper. 5. ISSN: 1859 - 4603, UED Journal of Social Sciences, Humanities and Education, Vol. 11, No. 1 (2021), 12-21 21 Huu, T. (1997). Journalistic work (Công việc của người viết báo). Education. Le. (2015). Textbook: Journalistic interview (Giáo trình Phỏng vấn báo ch). News agency. Ngoc, H. (2018). Raising standards of teachers at kindergartens and primary schools: A rise in teacher quality (Nâng chuẩn giáo viên bậc mầm non, tiểu học: Chất lượng giáo viên tăng). Da Nang Newspaper. 3. Ngoc, P. (2019). Staying alert to news on social networks (Cần tỉnh táo khi tiếp nhận thông tin từ mạng xã hội). Da Nang Newspaper. 7. Nguyen, T. L. (2016). Leaving Press to take control of Internet news (Để báo chí làm chủ thông tin trong không gian internet). The News Writers. tin-trong-khong-gian-internet-n2278.html Nguyen, T. T. (2011). Textbook: Journalistic works (Giáo trình Tác phẩm báo chí). Education. Phuong, T. (2017). Management of pupils' meals are tightened in boarding schools (Tăng cường quản lý bữa ăn bán trú cho học sinh). Da Nang Newspaper. 5. Phuong, U. (2017). Many suggest a decrease in personal vehicle use (Nhiều ý kiến đề nghị giảm phương tiện cá nhân). Da Nang Newspaper. 3. Quynh, Quynh, T. (2019). Optimization in monitoring and operating city traffic (Tối ưu hóa công tác quản lý, điều hành giao thông đô thị). Da Nang Newspaper - Weekend edition, 4. Son, T. (2017). New points in human resource development policy (Nhiều điểm mới trong chính sách phát triển nguồn nhân lực). Da Nang Newspaper. 3. Son, T. (2018). Monitoring improper gift giving and taking during Tet holiday: Self-respect and exemplary behaviors of a leader (Kiểm soát tặng, nhận quà tết sai quy định: Lòng tự trọng và gương mẫu của người đứng đầu). Da Nang Newspaper. 3. The National Assembly. (2016). Laws on Journalism (Luật Báo chí). Hanoi. Tran, T. T. (2019). Interview work in Da Nang newspaper-from the perspective of the interviewee. UED Journal of Social Sciences, Humanities and Education, 9(4), 70-76. https://doi.org/10.47393/jshe.v9i4.116 Tran, T. T. (2019). SAPO in interview articles on Da Nang Newspaper. UED Journal of Social Sciences, Humanities and Education, 10(Special), 181-187. https://doi.org/10.47393/jshe.v10iSpecial.836 Tran, T. T. (2019). Question in the interview work in Da Nang Newspaper. UED Journal of Social Sciences, Humanities and Education, 37(01), 68-77. https://doi.org/10.47393/jshe.v10i1.27 ADDITIONAL INFORMATION IN BOXES AND PHOTOS IN INTERVIEW ARTICLES IN DA NANG NEWSPAPER Tran Thi Tuyet The University of Danang - University of Science and Education, Vietnam Author corresponding: Tran Thi Tuyet - Email: tttuyet@ued.udn.vn Article History: Received on 30th March 2021; Revised on 27th April 2021; Published on 17th June 2021 Abstract: An interview article is considered a dialogue between a journalist and an interviewee about an event, a current issue or a figure of public interest. Interview articles consist of key information (topic, interviewee, questions, answers, title, and lead-in) and additional information (data boxes and photos). The additional information is used to support, illustrate, and highlight the key information. In many cases, the additional information has to be "eye-catching" and hold readers’ attention, urging them to explore the article. This paper is aimed to study the current status of using additional information, provided in boxes and photos, in interview articles in printed Da Nang Newspaper during 2017, 2018, and 2019, and then to make recommendations on the use of boxes and photos to improve article quality for readers’ increasing need of information. Key words: additional information; data box; photo; interview article; Da Nang Newspaper.
File đính kèm:
- thong_tin_bo_tro_o_box_va_anh_trong_tac_pham_phong_van_tren.pdf