Biến đổi hôn nhân - gia đình và nhận thức của thanh niên về hôn nhân - gia đình

Các nghiên cứu trên thế giới và Việt Nam về nhận thức của thanh niên trong

hôn nhân - gia đình cho thấy, ý nghĩa của hôn nhân đã biến đổi phù hợp với mức độ phát

triển và biến đổi xã hội. Nhiều nghiên cứu ở Mỹ và các nước phát triển chỉ ra sự “lỏng

lẻo” của thiết chế hôn nhân dẫn đến tình trạng ly hôn, sống chung không kết hôn đã làm

thay đổi quan niệm và nhận thức của thanh niên về ý nghĩa của hôn nhân - gia đình. Các

yếu tố văn hóa và tôn giáo có ảnh hưởng quan trọng đến sự thay đổi nhận thức của thanh

niên về hôn nhân và gia đình. Mặc dù tiến hành công nghiệp hóa muộn hơn so với các

nước phương Tây nhưng Hàn Quốc, Nhật Bản, Đài Loan hay Ấn Độ đã đạt được mức độ

phát triển cao về kinh tế, tuy nhiên nhận thức hướng đến ly hôn hoặc sống chung không

kết hôn của thanh niên ở các nước này vẫn là tiêu cực. Sự khác biệt giới tác động đáng

kể đến nhận thức của thanh niên về hôn nhân và gia đình

Biến đổi hôn nhân - gia đình và nhận thức của thanh niên về hôn nhân - gia đình trang 1

Trang 1

Biến đổi hôn nhân - gia đình và nhận thức của thanh niên về hôn nhân - gia đình trang 2

Trang 2

Biến đổi hôn nhân - gia đình và nhận thức của thanh niên về hôn nhân - gia đình trang 3

Trang 3

Biến đổi hôn nhân - gia đình và nhận thức của thanh niên về hôn nhân - gia đình trang 4

Trang 4

Biến đổi hôn nhân - gia đình và nhận thức của thanh niên về hôn nhân - gia đình trang 5

Trang 5

Biến đổi hôn nhân - gia đình và nhận thức của thanh niên về hôn nhân - gia đình trang 6

Trang 6

Biến đổi hôn nhân - gia đình và nhận thức của thanh niên về hôn nhân - gia đình trang 7

Trang 7

Biến đổi hôn nhân - gia đình và nhận thức của thanh niên về hôn nhân - gia đình trang 8

Trang 8

pdf 8 trang viethung 6600
Bạn đang xem tài liệu "Biến đổi hôn nhân - gia đình và nhận thức của thanh niên về hôn nhân - gia đình", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Biến đổi hôn nhân - gia đình và nhận thức của thanh niên về hôn nhân - gia đình

Biến đổi hôn nhân - gia đình và nhận thức của thanh niên về hôn nhân - gia đình
Biến đổi hôn nhân 45
Biến đổi hôn nhân - gia đình và nhận thức 
của thanh niên về hôn nhân - gia đình
Nguyễn Thị Thu Nguyệt(*)
Tóm tắt: Các nghiên cứu trên thế giới và Việt Nam về nhận thức của thanh niên trong 
hôn nhân - gia đình cho thấy, ý nghĩa của hôn nhân đã biến đổi phù hợp với mức độ phát 
triển và biến đổi xã hội. Nhiều nghiên cứu ở Mỹ và các nước phát triển chỉ ra sự “lỏng 
lẻo” của thiết chế hôn nhân dẫn đến tình trạng ly hôn, sống chung không kết hôn đã làm 
thay đổi quan niệm và nhận thức của thanh niên về ý nghĩa của hôn nhân - gia đình. Các 
yếu tố văn hóa và tôn giáo có ảnh hưởng quan trọng đến sự thay đổi nhận thức của thanh 
niên về hôn nhân và gia đình. Mặc dù tiến hành công nghiệp hóa muộn hơn so với các 
nước phương Tây nhưng Hàn Quốc, Nhật Bản, Đài Loan hay Ấn Độ đã đạt được mức độ 
phát triển cao về kinh tế, tuy nhiên nhận thức hướng đến ly hôn hoặc sống chung không 
kết hôn của thanh niên ở các nước này vẫn là tiêu cực. Sự khác biệt giới tác động đáng 
kể đến nhận thức của thanh niên về hôn nhân và gia đình.
Từ khóa: Hôn nhân - gia đình, Biến đổi hôn nhân, Nhận thức về hôn nhân - gia đình, 
Thanh niên
Abstract: International and Vietnamese studies on young people’s perceptions of marriage 
and family indicate that the meaning of marriage has altered in line with the social 
development and change. Studies in developed countries, including the US, have shown 
that the “laxness” in marriage institution leading to divorce or cohabitation has changed 
the youth’s perception and awareness about its meaning. Cultural and religious factors also 
have a major impact on this. While South Korea, Japan, Taiwan or India have achieved high 
economic growth regardless of their late industrialization compared to Western countries, 
their youth’s perception of divorce or cohabitation is pessimistic. Last but not least, gender 
diff erences signifi cantly aff ect young people’s perceptions of marriage and family.
Keywords: Marriage and Family, Changes in Marriage and Family, Perception of 
Marriage and Family, Young People 
1. Dẫn nhập1 
Nghiên cứu biến đổi hôn nhân và gia 
đình từ quan điểm cấu trúc xã hội và tương 
(*) ThS., Viện Thông tin Khoa học xã hội, Viện Hàn 
lâm Khoa học xã hội Việt Nam; 
Email: thunguyetxhh@gmail.com
tác biểu trưng cho thấy có những biến đổi 
trong hệ giá trị, những chuẩn mực liên 
quan đến hôn nhân và gia đình. Quá độ 
nhân khẩu học cũng như những biến đổi về 
chuẩn mực xã hội đưa đến sự thay đổi trong 
ý nghĩa của hôn nhân và tổ chức của gia 
Thông tin Khoa học xã hội, số 11.201946
đình. Những thay đổi cấu trúc đó đã dẫn 
đến sự chuyển đổi đáng kể trong niềm tin 
xã hội và thực hành gắn liền với lựa chọn 
giáo dục, lựa chọn hôn nhân và lối sống 
(Knox và Schacht, 2009). 1
Ở Việt Nam, biến đổi kinh tế - xã hội 
kể từ khi Đổi mới đã dẫn đến những biến 
đổi gia đình. Theo Quỹ Dân số Liên Hợp 
Quốc (UNFPA), Việt Nam đang trong thời 
kỳ “cơ cấu dân số vàng” với khoảng 70% 
dân số trong độ tuổi 15-24 (UNFPA, 2016). 
Tuy nhiên, những vấn đề liên quan đến hôn 
nhân và gia đình ở nhóm thanh niên còn ít 
được nghiên cứu (Alexa DiFiore, 2011). 
2. Biến đổi hôn nhân - gia đình 
Nghiên cứu hôn nhân - gia đình trên 
thế giới cho thấy một bức tranh đa dạng 
về sự biến đổi của thiết chế hôn nhân - 
gia đình. Sự thay đổi của các giá trị và 
chuẩn mực trong hôn nhân để thích nghi 
với các điều kiện xã hội mới dẫn đến 
1, 2 Số liệu năm 2015 và 2017 được cập nhật từ 
ViewTableAction.do
3, 4, 5 Nguồn: https://www.cdc.gov/nchs/data/dvs/
national-marriage-divorce-rates-00-17.pdf
những thay đổi trong khuôn mẫu hôn nhân 
truyền thống như sống chung không kết 
hôn (cohabitation) hoặc sống độc thân 
(single), từ đó kéo theo những biến đổi 
của tổ chức gia đình và mối quan hệ giữa 
các thế hệ.
Dữ liệu về hôn nhân thế giới trong gần 
nửa thế kỷ qua chỉ ra rằng, tỷ lệ kết hôn 
hàng năm ở hầu hết các nước phương Tây 
đều suy giảm (Xem bảng 1).
So sánh khuôn mẫu hôn nhân trong các 
giai đoạn khác nhau của sự phát triển và 
biến đổi xã hội cho thấy hôn nhân và gia 
đình đã biến đổi, đặc biệt từ giai đoạn bắt 
đầu cách mạng công nghiệp và quá trình 
công nghiệp hóa ở phương Tây. Quan niệm 
về hôn nhân như một thiết chế phụ thuộc 
và phục vụ cho sự tồn tại của thiết chế gia 
đình từng tồn tại trong lịch sử đang bị thách 
thức trước những biến đổi văn hóa và xã 
hội đương đại. Nếu như trong quá khứ, 
mục tiêu trung tâm của 
hôn nhân là thực hiện 
những nghĩa vụ xã hội và 
gia đình (như thừa kế về 
tài sản và truyền thống), 
thì trong môi trường mới, 
hạnh phúc trong đời sống 
liên cá nhân trở thành 
mục tiêu chủ yếu của hôn 
nhân, và hôn nhân trở 
thành phương tiện chủ 
yếu đáp ứng nhu cầu về 
tình cảm hoặc nhu cầu về 
sự thân mật (intimacy) - 
sự xúc cảm gắn liền với 
sự tin tưởng. 
Phân tích quá trình 
biến đổi hôn nhân trong 
xã hội Mỹ và Tây Âu đương đại, các nhà 
nghiên cứu đã làm rõ hơn sự biến đổi về 
ý nghĩa của hôn nhân, từ hôn nhân như 
một thiết chế đến hôn nhân như là sự đồng 
Bảng 1: Tỷ lệ kết hôn ở một số nước phương Tây (Đơn vị: %)
Nước 1970 1985 1995 2000 20151 20172
Bỉ 7,6 5,8 5,1 4,3 4,3 3,9
Canada 8,8 7,3 5,5 4,7 - -
Pháp 7,8 4,9 4,4 4,3 3,6 3,5
Đức 7,4 6,4 5,3 4,5 4,9 4,9
Ý 7,4 5,3 5,1 4,2 3,2 3,2
Hà Lan 9,5 5,7 5,3 4,4 3,8 3,8
Thụy Điển 5,4 4,6 3,8 5,0 5,3 5,2
Thụy Sĩ 7,4 6,0 5,8 5,4 5,0 4,8
Anh 8,5 7,0 5,6 4,5 4,4 -
Mỹ 10,6 10,1 8,8 8,23 6,94 6,95
 Nguồn: World Marriage Data (Dẫn theo: Engelen & Puschmann, 
2011).
Biến đổi hôn nhân 47
hành (companionship marriage) và hôn 
nhân là sự lựa chọn cá nhân (individualised 
marriage) (Cherlin, 2004; Mace, 1991). 
Những xu hướng nhân khẩu học cùng với 
sự suy giảm của các chuẩn mực xã hội về 
hôn nhân dẫn đến sự thay đổi tâm thế hướng 
đến hôn nhân hoặc là sự giải thể của thiết 
chế hôn nhân (Blankenhorn, 2007; Cherlin, 
2004); tỷ lệ ly hôn tăng; tỷ lệ kết hôn giảm, 
tuổi trung bình kết hôn tăn ... sự lựa chọn: kết hôn, sống chung 
không kết hôn và sống độc thân. Trong khi 
kết hôn là điều lý tưởng thì sống chung 
không kết hôn và độc thân có thể là sự lựa 
chọn hợp lý cho những người có thu nhập 
thấp (Xem: Jayakody & Cabrera, 2002).
Nhận thức về việc sống chung không 
kết hôn của thanh niên ở châu Á có sự khác 
biệt giữa các quốc gia và đang thay đổi. Ở 
Hàn Quốc, nhận thức về sống chung không 
kết hôn còn khá bảo thủ, trong khi nhận 
thức của thanh niên hướng đến sống chung 
không kết hôn ở Nhật Bản và Trung Quốc 
lại khá tích cực. Tuy nhiên, việc sống chung 
không kết hôn ở Nhật Bản và Trung Quốc 
chỉ được xem như một bước đệm đối với hôn 
nhân hơn là hình thức đi ngược lại với việc 
kết hôn (Raymo and at al, 2015). Ở Ấn Độ, 
sống chung không kết hôn không bị coi là 
bất hợp pháp nhưng không được chấp nhận 
về mặt xã hội và đạo đức. Nhận thức của 
thanh niên về hôn nhân còn bị ảnh hưởng 
bởi những yếu tố như phong tục gia đình, sự 
thừa nhận của cộng đồng, những quy định 
Biến đổi hôn nhân 49
về mặt đẳng cấp và tôn giáo. Sống chung 
không kết hôn không phải là lựa chọn phổ 
biến của thanh niên ở Ấn Độ (Ramsheena 
and Nagaraju Gundemeda, 2015).
Nam giới và nữ giới đều có nhiều kỳ 
vọng về hôn nhân trong cuộc sống của mình. 
Nếu trước đây hôn nhân do cha mẹ quyết 
định thì nay đã thay đổi, điều này được phản 
ánh trong cả hành vi và tư tưởng của hai 
giới. Nghiên cứu của N. Bhavana, Dr.K.S. 
Roopa (2015) và Tatheer Fatima (2015) nêu 
rõ, tâm thế hướng đến hôn nhân của nữ giới 
tích cực hơn so với nam giới. Phần lớn nam 
giới cho rằng có con là cần thiết để trông 
nom bố mẹ già và kéo dài sự tồn tại của gia 
đình, trong khi nữ giới nhấn mạnh đến sự 
thỏa mãn tình cảm của cha mẹ.
Thang bậc giá trị trong tự do hôn nhân 
của nam giới cao hơn nữ giới. Nam và nữ 
có quan điểm khác nhau về quyết định hôn 
nhân từ cha mẹ. Trong khi nữ giới cho rằng 
hôn nhân nên do cha mẹ quyết định, thì trái 
lại nam giới cho rằng hôn nhân cần được 
quyết định bởi bản thân người trong cuộc. 
Những khác biệt này là do hệ thống giá trị 
phát triển và thay đổi theo thời gian. 
Ở Việt Nam, nhận thức về hôn nhân và 
gia đình của thanh niên là một trong những 
vấn đề được quan tâm, đặc biệt là thời kỳ 
sau Đổi mới. Hôn nhân như một giá trị và 
định hướng của thanh niên. Trong các tiêu 
chuẩn lựa chọn bạn đời, định kiến giới là 
khá phổ biến.
Kết quả nghiên cứu biến đổi hôn nhân 
ở Việt Nam trong giai đoạn 1965-1992 cho 
thấy, ý nghĩa của hôn nhân trong giai đoạn 
trước Đổi mới (1965-1985) mang tính chất 
tập thể nhiều hơn cá nhân. Nó bị chi phối 
bởi quyền lợi của gia đình, cộng đồng và 
đôi khi cả tổ chức xã hội (Daniele Belanger 
và Khuất Thu Hồng, 1996). 
Xu hướng thanh niên tự quyết định 
hôn nhân của mình cũng sẽ là một hướng 
tất yếu khi môi trường giao tiếp và làm 
việc của họ rộng mở hơn. Đặc biệt, với 
sự trợ giúp của công nghệ thông tin, các 
mối quan hệ của con cái dần vượt khỏi tầm 
kiểm soát của cha mẹ. Việc hỏi ý kiến cha 
mẹ trong quyết định hôn nhân đã chuyển 
biến cơ bản về nội dung khi nó chủ yếu 
mang ý nghĩa thể hiện sự kính trọng của 
con cái chứ không phải để bố mẹ can thiệp. 
Sự thay đổi nhận thức này trong giới trẻ 
mang giá trị tích cực (Vũ Tuấn Huy và các 
đồng nghiệp, 2004; Kết quả của nghiên 
cứu Điều tra gia đình Việt Nam 2006; Lê 
Thi, 2009; Nguyễn Văn Lượt, Nguyễn Đỗ 
Hồng Nhung, 2010).
Nghiên cứu của Lindy Williams (2009) 
về tâm thế hướng đến hôn nhân và những 
đối chọi của hôn nhân ở miền Bắc Việt 
Nam cho thấy, có sự nhất trí cao giữa các 
nhóm trong luận điểm hôn nhân vẫn hết sức 
quan trọng ở Việt Nam. Tuy nhiên, có sự 
khoan dung đáng kể đối với những người 
không hoặc chưa kết hôn do điều kiện hoặc 
hoàn cảnh nào đó. Có sự khác biệt trong 
nhận thức về việc sống chung không kết 
hôn và quan hệ tình dục trước hôn nhân ở 
Việt Nam theo thế hệ và có sự khác biệt 
giữa đô thị - nông thôn. 
Các nghiên cứu đã xem xét về nhận 
thức và hành vi của thanh niên đô thị ở Việt 
Nam liên quan đến những vấn đề trong quá 
trình hẹn hò, tìm hiểu của thanh niên, như: 
ý nghĩa của các quan hệ thân mật giữa hai 
giới; vấn đề trinh tiết - nhất là đối với phụ 
nữ; quan hệ tình dục trước hôn nhân và sống 
chung không kết hôn; giáo dục giới tính; 
các yếu tố ảnh hưởng đến tâm thế của thanh 
niên về hôn nhân và gia đình (như hệ tư 
tưởng Nho giáo, gia đình, trường học, bạn 
bè và mạng xã hội,). Kết quả cho thấy, ở 
Việt Nam, có tình trạng thiếu thông tin và 
thảo luận về vấn đề tình dục, có những định 
kiến trong nhận thức của thanh niên nói 
Thông tin Khoa học xã hội, số 11.201950
chung về hôn nhân và gia đình cũng như 
sự chưa đồng nhất trong các kết quả nghiên 
cứu (Xem: Alexa DiFiore, 2011).
3. Kết luận
Bước sang thế kỷ XXI, chúng ta đã chứng 
kiến sự thay đổi trong nhận thức của thanh 
niên về hôn nhân - gia đình không những ở 
Việt Nam và cả trên thế giới. Những thay đổi 
đó đã phá vỡ các quan niệm, ý tưởng cũ về 
gia đình và đòi hỏi những khám phá, tìm tòi 
mới về bản chất của gia đình. 
Thanh niên ngày nay được tự do lựa 
chọn bạn đời và quyết định việc hôn nhân 
theo quan điểm của mình. Hành vi chọn 
bạn đời đúng đắn, phù hợp là cơ sở đầu tiên 
để mỗi người tạo dựng một gia đình hạnh 
phúc cho chính mình. Tuy nhiên, có thể do 
quá tự do trong việc kết hôn, nhiều thanh 
niên nhận thức việc hôn nhân không còn 
quan trọng như trước đây. Trong gia đình, 
sự bình đẳng trong quan hệ vợ chồng đôi 
khi “quá mức” dẫn đến cảnh xung đột, ý 
thức trách nhiệm với gia đình giảm sút. 
Nhiều thanh niên nhận thức: khi vợ chồng 
xung đột với nhau, không còn yêu nhau 
thì ly hôn là cách tốt nhất, là giải thoát cần 
thiết cho mỗi người và họ luôn đặt cái tôi 
của mình cao hơn quyền lợi của con cái. Do 
đó, có thể thấy, ngày nay tỷ lệ ly hôn trong 
các gia đình trẻ cao hơn nhiều so với trước 
kia, thời gia đình phong kiến. Điều đó cho 
thấy: sự bền vững của gia đình liên quan 
trực tiếp đến nhận thức của mỗi người về 
gia đình, về vai trò, trách nhiệm của người 
vợ, người chồng trong gia đình.
Ở nhiều nước phương Tây, vai trò của 
người cha truyền thống gắn liền với các 
khái niệm như “chủ gia đình”, “trụ cột gia 
đình”, “quyền uy người cha”,... đã dần biến 
mất cùng với sự thay đổi của các quan hệ 
hôn nhân và gia đình. Hiện nay ở phương 
Tây, tỷ lệ trẻ em sống trong những gia đình 
đơn thân, chỉ có cha hoặc mẹ với những 
đứa con chưa trưởng thành (lone parent 
families), đang ngày càng tăng lên do kết 
quả của tình trạng ly hôn, ly thân, phụ nữ 
sống độc thân có con.
Những thay đổi trong nhận thức về gia 
đình của thanh niên ngày nay cho dù nhanh 
hay chậm nhưng tương đối nhất quán về nội 
dung giữa gia đình phương Tây và phương 
Đông. Các nghiên cứu đều chỉ ra rằng, gia 
đình đang phải đối diện với những biến 
động và hệ quả của sự biến động về nhận 
thức trong hôn nhân - gia đình của giới trẻ. 
Sự biến động đó đang khiến nhiều quốc 
gia trở nên khó khăn trong việc nghiên cứu 
để giữ gìn những giá trị chuẩn mực có tác 
động tích cực đến sự phát triển nhân cách 
của con người trong gia đình truyền thống 
nhưng không mâu thuẫn với việc xây dựng 
những chuẩn giá trị mới phù hợp với thời 
đại và giao lưu quốc tế 
Tài liệu tham khảo
Tiếng Việt
1. Mai Kim Châu (1983), “Những giá 
trị định hướng việc hôn nhân của 
thanh niên”, Tạp chí Xã hội học, số 4, 
Hà Nội.
2. Belanger, Daniele và Khuất Thu Hồng 
(1996), “Một số biến đổi trong hôn 
nhân và gia đình ở Hà Nội trong những 
năm 1965-1992”, Trong: Tương Lai 
(chủ biên, 1996), Những nghiên cứu 
xã hội học về Gia đình Việt Nam, Nxb. 
Khoa học xã hội, Hà Nội.
3. Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Tổng 
Cục Thống kê, Viện Nghiên cứu Gia 
đình và Giới và UNICEF (2008), Kết 
quả điều tra gia đình Việt Nam năm 
2006, Hà Nội.
4. Vũ Tuấn Huy (chủ biên, 2004), Xu 
hướng gia đình ngày nay (Một vài đặc 
điểm từ nghiên cứu thực nghiệm tại Hải 
Dương), Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.
Biến đổi hôn nhân 51
5. Nguyễn Văn Lượt, Nguyễn Đỗ Hồng 
Nhung (2010), “Định hướng giá trị 
trong việc lựa chọn bạn đời của sinh 
viên”, Tạp chí Tâm lý học, số 4, tr. 42-
49, Hà Nội.
6. Lê Thi (2009), Sự tương đồng và khác 
biệt trong quan niệm về hôn nhân gia 
đình giữa các thế hệ người Việt Nam 
hiện nay, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.
7. UNFPA (2016), Báo cáo tác động của 
biến đổi cơ cấu tuổi dân số đến kinh tế 
Việt Nam và đề xuất chính sách, https://
vietnam.opendevelopmentmekong.net/
vi/dataset/ 
Tiếng Anh
8. Alexa DiFiore (2011), Youth Dating 
Culture in Urban Vietnam: Attitudes, 
Behaviors, and Infl uences, Collection, 
collection/1059
9. Bhavana, N. & Roopa, K.S. (2015), 
Youth Attitude towards Marriage 
and Changing Trends in Marriage, 
International Journal of Science and 
Research, Vol. 4, No. 7.
10. Blankenhorn, D. (2007), The future of 
marriage, Encounter Press, New York.
11. Bumpass, L.L. & Lu, H.H. (2000), 
Trends in cohabitation and implications 
for children’s family contexts in the 
United States, Population Studies, Vol. 
54, No. 1 (2000): p. 19-41.
12. Carroll, J.S., Willoughby, B., Badger, S., 
Nelson, L.J., Barry, C.M., & Madsen, 
S.D. (2007), So close, yet so far away: 
The impact of varying marital horizons 
on emerging adulthood, Journal of 
Adolescent Research, Vol. 22: p. 
219-247.
13. Cherlin, A.J. (2004), The 
deinstitutionalization of American 
marriage, Journal of Marriage and 
Family, Vol. 66: p. 848-861.
14. Engelen, T., Puschmann, P. (2011), How 
unique is the Western European marriage 
pattern? A comparison of nuptiality in 
historical Europe and the contemporary 
Arab world, https://www.researchgate.
net/figure/The-development-of-the-
crude-marriage-rate-in-some-Western-
countries_tbl1_230764864
15. Jayakody, R. & Cabrera N. (2002), 
What are the choices for low-income 
families?: Cohabitation, Marriage, and 
remaining Single, Inc Publishers.
16. Jones, Gavin W. (2010), Changing 
Marriage Patterns in Asia, Asia 
Research Institute Singapore.
17. Jones, G. and Nelson, E. (1996), 
Expectations of marriage among college 
students from intact and non-intact 
homes, Journal of Divorce & Remarriage, 
Vol. 26, No. 1-2: p. 171-189.
18. Kay Nicole Margaret (2012), The 
Changing Meaning of Marriage: An 
Analysis of Contemporary Marital 
Attitudes of Young Adults, Theses and 
Dissertations, https://scholarsarchive.
byu.edu/etd/2969)
19. Kiernan, Kathleen (2001), “The rise 
of cohabitation and childbearing 
outside marriage in Western Europe”, 
Internation Journal of Law, Policy and 
the Family, Vol. 15: p. 1-21.
20. Knox, D., Schacht, C. (2009), Choices 
in Relationships: An Introduction to 
Marriage and the Family, 10th Edition, 
Cengage Learning Publisher, USA.
21. Mace David R. (1991), Contemporary 
Issues in Marriga. In Sociololical 
Footprints - Introductory Readings 
in Sociology, Fifth edition, Cengage 
Learning Publisher, USA: p. 135-141.
22. Miller, R.S., Perlman D., & Brehm, S.S. 
(2005), Intimate relationships Fouth 
edition, McGraw-Hill Press, New York.
Thông tin Khoa học xã hội, số 11.201952
23. Mohan, A.K, Gangotri Dash (2016), 
“Perception of youth on marrige 
practices: A study in Dodda Birana 
Kuppe Gram Panchayat, HD Kote 
Taluc, Mysuru District”, International 
Journal of Research - Granthaalayah, 
Vol. 4, No. 3 (2016): p. 42-52. 
24. Ramsheena, C.A. and Nagaraju 
Gundemeda (2015), Youth and 
Marriage: A Study of Changing Marital 
Choices among the University Students 
in India, https://www.researchgate.
net/publication/321215042_Youth_and
_Marriage_A_Study_of_Changing_
Marital_Choices_among_the_University
_Students_in_India
25. Raymo, James M., Hyunjoon Park, Yu 
Xie and Wei-jun Jean Yeung (2015), 
“Marriage and Family in East Asia: 
Continuity and Change”, The Annual 
Review of Sociology, Vol. 41 (2015): p. 
8.1-8.22.
26. Regnerus, M. & Uecker, J. (2011), 
Premarital sex in America: How young 
Americans meet, mate, and think about 
marrying, Oxford University Press, 
Oxford.
27. Reis, H.T. and Rusbult, C.E. (2004), 
Close Relationships: Key Readings, 
Psychology Presss.
28. Tatheer Fatima (2015), “Attitude of 
adolescents towards marriage and family 
life”, International Journal of Innovative 
Social Science & Humanities Research, 
Vol. 2, No.3: p. 2454-1826 (Online). 
29. Thornton, A. & Young-DeMarco, L. 
(2001), “Four decades of trends in 
attitudes toward family issues in the 
United States: The 1960s through 
the 1990s”, Journal of Marriage and 
Family, Vol. 63: p.1009-1037. 
30. Villeneuve-Gokalp, C. (1991), “From 
marriage to informal union: Recent 
changes in the behaviour of French 
couples. Population Review”, Vol. 3: p. 
81-111. 
31. Weeks, J., Heaphy, B., & Donovan, C. 
(2001), Same sex intimacies: Families 
of choice and other life experiments, 
Routledge Press, London.
32. Weston, K. (1991), Families we choose: 
Lesbians, gays, kinship, Columbia 
University Press, New York.
33. Williams, Lindy (2009), “Attitudes 
toward marriage in northern Vietnam: 
what qualitative data reveal about 
variations across gender, generation, 
and geography”, Journal of Population 
Research, Vol. 26, N4 (12/2009): p. 
285-304 . 
(tiếp theo trang 22)
3. Xuân Tùng (2019), Truy tố 21 bị can 
trong vụ bán đất công sản tại Đà Nẵng 
liên quan Vũ “nhôm”, 
hanoimoi.com.vn/tin-tuc/phap-dinh/
948239/truy-to-21-bi-can-trong-vu-ban
-dat-cong-san-tai-da-nang-lien-quan-
vu-nhom
4. Nam Trần - Trí Tuệ (2019), Điểm mặt 
những dự án sai phạm ‘choáng váng’ 
của Mường Thanh giữa thủ đô, https://
tuoitre.vn/diem-mat-nhung-du-an-sai-
pham-choang-vang-cua-muong-thanh-
giua-thu-do-20190715132514063.htm
5. Nhóm phóng viên Tuổi trẻ (2019), 
Điều tra: Asanzo có lừa dối người tiêu 
dùng?, https://tuoitre.vn/dieu-tra-asanzo
-co-lua-doi-nguoi-tieu-dung-20190624
075641521.htm

File đính kèm:

  • pdfbien_doi_hon_nhan_gia_dinh_va_nhan_thuc_cua_thanh_nien_ve_ho.pdf