Phương pháp tuyên truyền bằng thơ của Hồ Chí Minh
Chủ tịch Hồ Chí Minh không những là nhà tư tưởng lớn mà còn là bậc thầy trong
tuyên truyền, vận động và tổ chức quần chúng cách mạng. Phương pháp tuyên
truyền bằng thơ ủ ồ h inh th hi n s sáng tạo và độ đáo, phù hợp với
hoàn cảnh, điều ki n Vi t Nam lúc bấy giờ. Phương pháp ấy đã góp phần rất lớn
trong vi c tạo ra s thành công cho cách mạng Vi t Nam. Bài viết tập trung khái
quát quá trình tuyên truyền bằng thơ ủa Hồ Chí Minh qua các thời kỳ cách
mạng, qu đó đ thấy được s sáng tạo và độ đáo ủ phương pháp tuyên
truyền này
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Bạn đang xem tài liệu "Phương pháp tuyên truyền bằng thơ của Hồ Chí Minh", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Phương pháp tuyên truyền bằng thơ của Hồ Chí Minh
1 CHUYÊN MỤC TRIẾT HỌC - CHÍNH TRỊ HỌC - XÃ HỘI HỌC PHƯƠNG PHÁP TUYÊN TRUYỀN BẰNG THƠ CỦA HỒ CHÍ MINH NGUYỄN THỊ NHÀN* Chủ tịch Hồ Chí Minh không những là nhà tư tưởng lớn mà còn là bậc thầy trong tuyên truyền, vận động và tổ chức quần chúng cách mạng. Phương pháp tuyên truyền bằng thơ ủ ồ h inh th hi n s sáng tạo và độ đáo, phù hợp với hoàn cảnh, điều ki n Vi t Nam lúc bấy giờ. Phương pháp ấy đã góp phần rất lớn trong vi c tạo ra s thành công cho cách mạng Vi t Nam. Bài viết tập trung khái quát quá trình tuyên truyền bằng thơ ủa Hồ Chí Minh qua các thời kỳ cách mạng, qu đó đ thấy được s sáng tạo và độ đáo ủ phương pháp tuyên truyền này. Từ khóa: phƣơng pháp, tuyên truyền, thơ, cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh, tuyên truyền bằng thơ Nhận bài ngày: 30/9/2019; đư vào biên tập: 10/10/2019; phản bi n: 19/10/2019; duy t đăng: 15/3/2020 1. DẪN NHẬP Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhà chính trị, nhà tƣ tƣởng lỗi lạc, đồng thời à nhà v n, nhà thơ cách mạng với phong cách v n thơ mới, mang đậm triết lý hành động. Những đóng góp của Hồ Chí Minh đối với nền v n học cách mạng Việt Nam là rất lớn. Tuy nhiên, trong bài viết này, ngƣời viết không đề cập đến toàn bộ sự nghiệp v n chƣơng của Hồ Chí Minh mà chỉ bàn đến một góc độ rất đặc biệt đó à phƣơng pháp tuyên truyền bằng thơ của Hồ Chí Minh. Phƣơng pháp tuyên truyền của Hồ Chí Minh là sự tổng hợp những cách thức, biện pháp tuyên truyền; là khoa học và nghệ thuật tuyên truyền mà Ngƣời đã tiếp thu, kế thừa, vận dụng một cách sáng tạo học thuyết Mác - Lênin, tinh hoa v n hóa của dân tộc và nhân loại, để giác ngộ, giải thích, cổ vũ và động viên mọi tầng lớp nhân dân tham gia, ủng hộ sự nghiệp cách * Trƣờng Đại học Quy Nhơn. NGUYỄN THỊ NHÀN – PHƢƠNG PHÁP TUYÊN TRUYỀN BẰNG THƠ 2 mạng. Ngƣời khẳng định: “Tuyên truyền à đem một việc gì nói cho dân hi u, dân nhớ, dân theo, dân làm” (Hồ Chí Minh, 2011: 776). Trong sự nghiệp cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh là một nhà tuyên truyền giàu kinh nghiệm, Ngƣời đã vận dụng một số phƣơng pháp tuyên truyền (tuyên truyền thông qua sử dụng hệ thống thông tin đại chúng, sách báo, tranh ảnh; tuyên truyền thông qua các hoạt động v n hóa, v n nghệ, thể thao, tổ chức lễ hội truyền thống, báo cáo điển hình, học tập gƣơng ngƣời tốt, việc tốt) một cách sáng tạo và hiệu quả, phục vụ thiết thực cho sự nghiệp cách mạng. Một trong những phƣơng pháp tuyên truyền mà Ngƣời kế thừa trong truyền thống hàng nghìn n m lịch sử của dân tộc là lối tuyên truyền miệng thông qua những câu vè, ca dao để từ đó hình thành nên một phƣơng pháp tuyên truyền sáng tạo và độc đáo: tuyên truyền bằng thơ. Đây à phƣơng pháp tuyên truyền phù hợp với một nƣớc An Nam thời thực dân Pháp thống trị với 95% ngƣời dân không biết chữ; đồng thời cũng thích hợp với đời sống v n hóa tinh thần thấm đ m âm hƣởng ca dao, dân ca của ngƣời Việt Nam. Phƣơng pháp tuyên truyền này thể hiện tầm nhìn bao quát và sâu sắc của Hồ Chí Minh về thực tiễn cách mạng Việt Nam. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh không khi nào nhận mình à “nhà thơ” hoặc có ch ng cũng chỉ à “nhà thơ bất đắc dĩ”. Những bài thơ của Ngƣời luôn đƣợc sáng tác trong những điều kiện, hoàn cảnh rất đặc biệt và thƣờng gắn liền với những sự kiện trọng đại của cách mạng Việt Nam. Tập thơ Ngục trung nhật ký(1) là một ví dụ điển hình. Có thể nói, phƣơng pháp tuyên truyền bằng thơ đƣợc Chủ tịch Hồ Chí Minh lựa chọn từ rất sớm và phƣơng pháp ấy đƣợc Ngƣời sử dụng xuyên suốt trong tiến trình cách mạng Việt Nam. 2. THỜI KỲ TRƯỚC NĂM 1930 Xã hội Việt Nam cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX đứng trƣớc sự khủng hoảng, bế tắc trầm trọng về đƣờng lối cứu nƣớc. Tìm lối ra khỏi cuộc khủng hoảng ấy là yêu cầu bức thiết của cách mạng Việt Nam. Giữa úc đó, anh thanh niên Nguyễn Tất Thành bƣớc ên vũ đài chính trị. Nhằm đáp ứng công tác tuyên truyền mục tiêu, nhiệm vụ cách mạng, chỉ ra con đƣờng cứu nƣớc, giải phóng dân tộc, Nguyễn Ái Quốc đã dịch Bản yêu sách của nhân dân An Nam ra tiếng Việt theo thể thơ ục bát để tuyên truyền cho đồng bào trong nƣớc dƣới nhan đề Vi t Nam yêu cầu ca. Từ một Bản yêu sách bằng tiếng Pháp, Nguyễn Ái Quốc đã thể hiện sự tài tình khi chuyển tải toàn bộ nội dung thành 56 câu thơ theo thể lục bát truyền thống. Từ tác phẩm này, ngƣời dân trong nƣớc và cả thế giới lần đầu tiên biết đến cái tên Nguyễn Ái Quốc – một ngƣời Việt Nam yêu nƣớc dũng cảm, một chiến sĩ cách mạng kiên cƣờng. “ ột xin tha kẻ đồng bào, Vì hưng h nh trị mắc vào tù giam. Hai xin phép luật sửa sang, Người Tây người Vi t h i phương TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 5 (261) 2020 3 ùng đồng. Những tò đặc bi t bất công, Giám xin bỏ dứt rộng dung dân lành. Ba xin rộng phép học hành, Mở mang kỹ ngh , lập thành công thương. Bốn xin được phép hội hàng, Năm xin nghĩ ngợi nói bàn t do. Sáu xin được phép lịch du, Bốn phương mặc sứ , năm hâu mặc tình Bảy xin hiến pháp ban hành, Trăm đều phải có thần linh pháp quyền Tám xin được cử nghị viên, Qua Tây thay mặt giữ quyền thổ dân” (Hồ Chí Minh, 2011: 612). Ngày 11/11/1924, Nguyễn Ái Quốc từ Liên Xô về tới Quảng Châu (Trung Quốc) với tƣ cách à đại biểu của Quốc tế Cộng sản để nắm tình hình, gây dựng phong trào và thành lập chi bộ Đảng Cộng sản Đông Dƣơng. Tháng 6/1925, Ngƣời thành lập Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên - tiền thân của Đảng Cộng sản Việt Nam. Cùng thời gian đó, Ngƣời xuất bản một số tác phẩm lý luận quan trọng nhƣ Bản án chế độ th c dân Pháp; Đường cách m nh, và trực tiếp dịch bản Quốc tế ca ra dạng thơ ục bát để tuyên truyền về cách mạng vô sản. Điều đó đã minh chứng Nguyễn Ái Quốc luôn quan tâm và sử dụng phƣơng pháp tuyên truyền bằng thơ ở mọi lúc, mọi nơi. Chính phƣơng pháp tuyên truyền đặc biệt này đã àm cho nội dung của Bản yêu sách, Quốc tế nhanh chóng đến đƣợc với nhân dân An Nam. Những câu thơ dễ hiểu, giản dị, dung dị, gần gũi đối với tất cả mọi ngƣời góp phần giúp nhân dân ý thức về các quyền tự do, các quyền dân chủ tối thiểu, biết đến con đƣờng cách mạng vô sản. 3. THỜI KỲ 1930 - 1945 Sau khi Đảng Cộng sản Việt Nam đƣợc thành lập (3/2/1930), cách mạng Việt Nam bƣớc sang giai đoạn mới: giai đoạn đấu tranh dƣới sự ãnh đạo của Đảng. Nguyễn Ái Quốc có một dự định rất táo bạo là viết một tác phẩm v n học để giới thiệu nƣớc Nga Xô viết với nhân dân Việt Nam và yêu cầu các đồng chí ở Quốc tế Cộng sản giúp đỡ tƣ iệu. Ban đầu, tác phẩm này có tiêu đề là Những kỷ ni m về cuộc du lịch của tôi. Nhƣng cuối cùng tiêu đề tác phẩm đƣợc Ngƣời sửa lại là Nhật ký chìm tàu(2). Điều đặc biệt trong tác phẩm này là mỗi chƣơng trong tất cả 24 chƣơng đều có từ 2 đến 4 câu thơ ục bát khái quát ý chính. Một số câu thơ tiêu biểu trong Nhật ký chìm tàu thể hiện tƣ duy sáng tạo trong phƣơng pháp tuyên truyền của Ngƣời nhƣ: “Nước Nga có chuy n lạ đời. Biến người nô l thành người t do”. (Hồ Chí Minh, 2011: 843). Tác phẩm Nhật ký chìm tàu do Nguyễn Ái Quốc viết đã trực tiếp truyền lửa cho cao trào Xô viết Nghệ Tĩnh. Thời điểm đó, các đồng chí đảng viên đã bí mật chuyền cho nhau đọc Nhật ký chìm tàu, xem đó nhƣ à NGUYỄN THỊ NHÀN – PHƢƠNG PHÁP TUYÊN TRUYỀN BẰNG THƠ 4 tài liệu tham khảo chính (Trần Minh Siêu, 2011). Qua tác phẩm này, Nguyễn Ái Quốc kêu gọi nhân dân Việt Nam, trong đó có nhân dân Nghệ An và Hà Tĩnh noi gƣơng nƣớc Nga Xô viết đứng lên chiến đấu, không ngại hi sinh, gian khổ để giành lại nền độc lập, xây dựng cuộc sống tự do, ấm no, hạnh phúc dƣới sự ãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Thành công và sức lan tỏa của tác phẩm chính một phần là ở phƣơng pháp tuyên truyền bằng thơ rất đặc sắc của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Ngay khi trở về nƣớc sau 30 n m bôn ba hải ngoại (28/1/1941), Hồ Chí Minh bắt tay ngay vào việc chỉ đạo, lãnh đạo cách mạng Việt Nam. V n là phƣơng pháp tuyên truyền bằng thơ bình dị, hiệu quả và phục vụ cho số đông, Ngƣời đã sáng tác rất nhiều bài thơ để động viên, cổ vũ, giác ngộ, vận động mọi thành phần, mọi đối tƣợng tham gia, ủng hộ Việt Minh với ngôn từ dễ hiểu, dễ nhớ và đi sâu vào mọi đối tƣợng, tạo sức mạnh tuyên truyền. Điển hình nhƣ các bài: Dân cày; Phụ nữ; Kêu gọi thiếu nhi; Công nhân; Bài l nh; ười chính sách của Vi t inh Đáng chú ý, ở bài ười chính sách của Vi t Minh (1941), Hồ Chí Minh đã khéo éo chuyển thể 10 chính sách lớn của Việt Minh bằng 46 câu thơ ục bát. Bài thơ đƣợc Ngƣời kết lại nhƣ một tƣ tƣởng chỉ đạo trong phƣơng châm hoạt động của Mặt trận Việt Minh: “Khuyên i nên nhớ chữ đồng, Đồng tình, đồng sứ , đồng lòng, đồng minh” (Hồ Chí Minh, 2011: 712). Những điều nêu trong bài thơ ười chính sách của Vi t Minh đã góp phần tuyên truyền cho nhân dân thấy rõ sức mạnh của sự đoàn kết thống nhất. Từ đó nhân dân tự nguyện nghe, tin, theo tổ chức hợp thành sức mạnh vô địch làm nên thắng lợi to lớn trong Cách mạng tháng Tám 1945. N m 1942, tình hình cách mạng có nhiều chuyển biến mới, Hồ Chí Minh tiếp tục chuyển tải đƣờng lối chủ trƣơng của Đảng, chính sách của Mặt trận qua cách tuyên truyền bằng thơ rất đặc sắc của mình, Ngƣời liên tục cho ra đời những vần thơ gần gũi, trong sáng và có sức lan tỏa sâu rộng trong phong trào quần chúng nhân dân nhƣ: Mừng xuân 1942; Lịch sử nước ta; Ca sợi chỉ; òn đá; on áo và tổ ong; Nhóm lử ; hơi giăng; Trẻ chăn trâu; Bài du k h Đặc biệt, trong bài Lịch sử nước ta (2/1942), Hồ Chí Minh đã tài tình tóm tắt lịch sử hơn bốn nghìn n m dựng nƣớc và giữ nƣớc của dân tộc bằng 128 câu thơ lục bát. Đất nƣớc đã có rất nhiều bộ lịch sử với những nhà sử học có uy tín nhƣ Lê V n Hƣu, Ngô Sĩ Liên, Trần Trọng Kim, Đặng Xuân Bảng nhƣng vì sao Ngƣời lại phải viết Lịch sử nước ta? Đó à để vận động nhân dân tham gia Việt Minh, tuyên truyền tinh thần yêu nƣớc bằng cách dễ nhớ cho đông đảo quần chúng nhân dân úc đó đa số là mù chữ. Với thể thơ ục bát, tất cả những sự kiện, thời đại, nhân vật trong lịch sử Việt Nam từ thời Hồng Bàng đến n m 1941 đƣợc TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 5 (261) 2020 5 Ngƣời viết đầy đủ, chi tiết. Điều đó đã làm cho hiệu quả tuyên truyền của tác phẩm đƣợc nhân lên gấp bội. Đặc biệt, phần cuối của Lịch sử nước ta, điểm lại các mốc son lịch sử của dân tộc, Hồ Chí Minh đƣa ra một dự đoán chính xác: “1945 - Việt Nam độc lập” (Hồ Chí Minh, 2011: 712). Cuối n m 1942, với tƣ cách à đại biểu của Đồng minh, Hồ Chí Minh lên đƣờng sang Trung Quốc thì bị chính quyền Tƣởng Giới Thạch vô cớ bắt giam. Chính trong điều kiện bị giam cầm, ngƣời chiến sĩ cách mạng - nhà v n hóa Hồ Chí Minh đã cho ra đời tập thơ Ngục trung nhật ký với 134 bài thơ bằng chữ Hán, nhiều bài thơ trong đó có thể sánh ngang với thơ Đƣờng, thơ Tống. Với Ngục trung nhật ký, Hồ Chí Minh đã ên án chế độ nhà tù hà khắc của chính quyền Tƣởng Giới Thạch và thể hiện tinh thần chịu đựng gian khổ, khắc phục khó kh n, tinh thần lạc quan cách mạng và tình cảm nhân đạo cộng sản chủ nghĩa cao đẹp. Đó là một tác phẩm v n học lớn của một chiến sĩ cộng sản vĩ đại. Giá trị tuyên truyền về ý chí kiên cƣờng, lạc quan của ngƣời tù cách mạng trong tập thơ Nhật ký trong tù đến nay v n còn nguyên vẹn. 4. THỜI KỲ 1945 - 1969 Từ n m 1944 trở về sau, mặc dù phải tập trung cao độ vào việc trực tiếp chỉ đạo, ãnh đạo cách mạng Việt Nam trong đấu tranh giành chính quyền cũng nhƣ thực hiện đồng thời hai nhiệm vụ chiến ƣợc: kháng chiến và kiến quốc, nhƣng Chủ tịch Hồ Chí Minh v n tranh thủ viết một số bài thơ mỗi khi có dịp hoặc khi tết đến, xuân về để tuyên truyền, cổ vũ, động viên quần chúng nhân dân tích cực, h ng hái tham gia vào sự nghiệp cách mạng. Những bài thơ tiêu biểu của Ngƣời theo từng n m cụ thể nhƣ sau: hú năm mới, Cảnh khuya, Tặng các cụ du kích, Khen tặng hai cháu liên lạc trong bộ đội chiến khu II (1947); Thơ chúc tết Mậu Tý (1948); Chúc tết 1949, Đi thuyền trên sông Đáy (1949); Sáu mươi tuổi, Khuyên thanh niên (1950); Thơ hú tết Tân Mão (1951); Thơ chúc Tết Nhâm Thìn (1952); Thơ mừng tết Quý Tỵ, Gửi các cháu nhi đồng nhân dịp tết Trung thu 1953 (1953); Thơ hú Tết Giáp Ngọ, Quân ta toàn thắng ở Đi n Biên Phủ (1954); Mở mang thủy lợi (1958); Tặng công n nhân dân vũ tr ng, Trồng cây (1959); Thơ mừng năm mới, Đảng ta (1960); Thăm lại hang Pác Bó (1961); Chúc mừng năm mới (1964); Mừng xuân 1967 (1967); Mừng xuân 1968, Khen 11 cháu dân quân gái thành phố Huế, Nhị vật - Hai chớ (1968); Mừng xuân 1969 (1969). Những bài thơ trong giai đoạn này với những lời lẽ mộc mạc, giản dị, vừa mang màu sắc dân gian vừa mang màu sắc hiện đại, đặc biệt là những bài thơ chúc tết hàng n m của Hồ Chí Minh có sức truyền cảm vô cùng lớn ao và mang ý nghĩa truyền lửa cho công cuộc cách mạng của dân tộc. Đáng chú ý trong giai đoạn này là bài thơ Khuyên thanh niên đƣợc Ngƣời tặng một đơn vị thanh niên xung NGUYỄN THỊ NHÀN – PHƢƠNG PHÁP TUYÊN TRUYỀN BẰNG THƠ 6 phong trên đƣờng đi chiến dịch Biên giới (9/1950). Bài thơ này à ời của Ngƣời đối với lớp lớp thế hệ thanh niên Việt Nam: “Không ó vi c gì khó, Chỉ sợ lòng không bền, Đào núi và lấp bi n, Quyết chí ắt làm nên” . (Hồ Chí Minh, 2011: 633). Ngoài ra, có thể kể đến bài thơ Quân ta toàn thắng ở Đi n Biên Phủ, một bài thơ đƣợc Ngƣời viết xuất phát từ cảm xúc cao độ về chiến thắng Điện Biên Phủ vang dội của quân ta. Điểm đặc sắc của bài thơ này ở chỗ là lối kể chuyện đánh giặc và niềm vui chiến thắng đƣợc thể hiện qua bốn đoạn thơ với bút pháp khéo éo để tuyên truyền cho chiến thắng “ ừng y n m châu, chấn động địa cầu”, nhằm động viên quân và dân ta vững tin ở sự lớn mạnh của mình mà tiến lên xây dựng đất nƣớc. Thế là quân t đã toàn thắng Toàn thắng là vì rất cố gắng Chiến sĩ viết thư dâng ụ Hồ: “Xin Bá vui lòng mà nhận cho, Món quà chúc thọ sinh nhật Bác, Chúng cháu cố gắng đã sắm đượ ”. (Hồ Chí Minh, 2011: 647). Trƣớc khi Chủ tịch Hồ Chí Minh kính yêu từ biệt chúng ta để về với thế giới ngƣời hiền, Ngƣời đã dành rất nhiều thời gian (từ tháng 5/1965 đến tháng 5/1969) và tâm sức viết bản Di chúc để lại cho toàn Đảng, toàn dân Việt Nam. Hơn 40 n m đã trôi qua, nhƣng giá trị của bản Di chúc - một tác phẩm “đại tổng kết về lý luận” v n đang đƣợc các nhà khoa học tiếp tục nghiên cứu và làm sáng tỏ. Đặc biệt trong tác phẩm lớn này, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng khéo éo sử dụng phƣơng pháp tuyên truyền đặc biệt bằng hai câu thơ nhƣ một lời nhắn nhủ, c n dặn toàn Đảng, toàn quân và toàn dân: “ òn non, òn nướ , òn người, Thắng giặc Mỹ, ta sẽ xây d ng hơn mười ngày n y”. (Hồ Chí Minh, 2011: 782). 5. KẾT LUẬN Khởi nguồn phƣơng pháp tuyên truyền bằng thơ với Vi t Nam yêu cầu ca (1919) và kết thúc tròn 50 n m sau cũng bằng phƣơng pháp ấy trong bản Di chúc thiêng iêng (1969) đã minh chứng cho một phƣơng pháp tuyên truyền rất đặc biệt, rất dung dị, đời thƣờng nhƣng ại vô cùng hiệu quả của Hồ Chí Minh. Điều đó thể hiện Ngƣời không những là lãnh tụ thiên tài, nhà tƣ tƣởng lớn mà còn là bậc thầy trong tuyên truyền, giác ngộ, vận động và tổ chức quần chúng cách mạng. Phƣơng pháp đó đã trở thành “diệu pháp tuyên truyền” mang phong cách của Hồ Chí Minh và cũng trở thành nền tảng tƣ tƣởng chỉ đạo toàn bộ hoạt động tuyên truyền cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam, tạo nên sức mạnh của toàn dân tộc, góp phần quyết định đến mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Phƣơng pháp tuyên truyền bằng thơ của Hồ Chí Minh cần đƣợc nghiên cứu đầy đủ, nghiêm túc và vận dụng một cách TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 5 (261) 2020 7 sáng tạo vào công tác tuyên truyền của Đảng trong giai đoạn hiện nay và mãi mãi về sau. CHÚ THÍCH (1) Đây à à cuốn sổ đƣợc Chủ tịch Hồ Chí Minh ghi chép trong thời gian Ngƣời bị nhà cầm quyền địa phƣơng của Tƣởng Giới Thạch giam giữ tại các nhà lao, tỉnh Quảng Tây (Trung Quốc) từ tháng 8/1942 đến 9/1943. Ngục trung nhật ký phản ánh tâm hồn đại trí, đại nhân, đại dũng của ngƣời chiến sĩ cách mạng không chịu khuất phục trƣớc kẻ thù. Nét nổi bật dễ nhận thấy nhất trong toàn bộ tác phẩm là tinh thần yêu nƣớc, lạc quan cách mạng, biến những điều trông thấy, những cảnh khổ cực, đọa đày ở trong tù trở thành niềm tin, tinh thần vƣơn ên khát khao đối với tự do, bình đẳng. (2) Nhật ký chìm tàu đƣợc viết bằng Quốc ngữ và Nôm, vào n m 1930 - khi phong trào Xô viết Nghệ Tĩnh ở quê hƣơng Bác vừa bị dập tắt. Ngƣời viết với mong muốn giữ vững lòng tin cho đồng bào, đồng chí trong nƣớc, sau một cơn khủng bố trắng, qua những trang kể về nƣớc Nga. TÀI LIỆU TRÍCH DẪN 1. Hồ Chí Minh. 2011. Toàn tập, tập 1, 3, 5, 6, 12, 15. Hà Nội: Nxb. Chính trị Quốc gia. 2. Trần Minh Siêu. 2011. “Tác phẩm Nhật ký chìm tàu truyền lửa cho cao trào Xô viết Nghệ Tĩnh”. Báo Nghệ An, số ra ngày 09/9/2011.
File đính kèm:
- phuong_phap_tuyen_truyen_bang_tho_cua_ho_chi_minh.pdf