Nhân lực trong các thư viện và trung tâm thông tin tại Việt Nam hiện nay

Bài viết tập trung vào các nội dung sau: Phân tích yêu cầu về nhân lực ngành thông

tin - thư viện hiện nay; Luận giải, đánh giá thực trạng nhân lực trong các thư viện và trung tâm thông

tin ở Việt Nam; Đề xuất giải pháp nâng cao chất lượng nhân lực thông tin - thư viện nhằm bảo đảm vận

hành hiệu quả các thư viện và trung tâm thông tin

Nhân lực trong các thư viện và trung tâm thông tin tại Việt Nam hiện nay trang 1

Trang 1

Nhân lực trong các thư viện và trung tâm thông tin tại Việt Nam hiện nay trang 2

Trang 2

Nhân lực trong các thư viện và trung tâm thông tin tại Việt Nam hiện nay trang 3

Trang 3

Nhân lực trong các thư viện và trung tâm thông tin tại Việt Nam hiện nay trang 4

Trang 4

Nhân lực trong các thư viện và trung tâm thông tin tại Việt Nam hiện nay trang 5

Trang 5

Nhân lực trong các thư viện và trung tâm thông tin tại Việt Nam hiện nay trang 6

Trang 6

Nhân lực trong các thư viện và trung tâm thông tin tại Việt Nam hiện nay trang 7

Trang 7

Nhân lực trong các thư viện và trung tâm thông tin tại Việt Nam hiện nay trang 8

Trang 8

Nhân lực trong các thư viện và trung tâm thông tin tại Việt Nam hiện nay trang 9

Trang 9

Nhân lực trong các thư viện và trung tâm thông tin tại Việt Nam hiện nay trang 10

Trang 10

pdf 10 trang viethung 10160
Bạn đang xem tài liệu "Nhân lực trong các thư viện và trung tâm thông tin tại Việt Nam hiện nay", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Nhân lực trong các thư viện và trung tâm thông tin tại Việt Nam hiện nay

Nhân lực trong các thư viện và trung tâm thông tin tại Việt Nam hiện nay
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
3THÔNG TIN VÀ TƯ LIỆU - 2/2021
Mở đầu
Hiện nay, hoạt động thông tin - thư viện 
(TT - TV) tại Việt Nam đang trong một môi 
trường có nhiều sự thay đổi. Việc ứng dụng 
những thành tựu của cuộc Cách mạng 
công nghiệp 4.0 như: nền tảng công nghệ 
số, dữ liệu lớn, trí tuệ nhân tạo, Internet kết 
nối vạn vật, đã làm thay đổi nhiều hoạt 
động trong các thư viện (TV) và trung tâm 
thông tin (TTTT). Bên cạnh đó những điều 
kiện khác như xã hội thông tin, nền kinh tế 
tri thức cũng đã tác động trực tiếp tới hoạt 
động TT - TV, làm thay đổi sứ mệnh và 
vai trò của TV và TTTT. Các TV và TTTT 
không đơn thuần là nơi cung cấp tài liệu 
mà đang và sẽ thực hiện những vai trò 
khác. Từ những năm đầu của thế kỷ 21, 
Henczel [3] đã nhận định các TV và TTTT 
sẽ không chỉ tiếp tục thực hiện vai trò quản 
trị thông tin mà còn quản trị tri thức. Sự 
thay đổi này mang đến nhiều cơ hội, tuy 
nhiên nó cũng đặt ra nhiều thách thức, đặc 
biệt là với nhân lực TT - TV. Từ những luận 
điểm trên, việc nghiên cứu những yêu cầu 
đối với nhân lực TT - TV hiện đại, luận giải 
về những vấn đề đặt ra tại Việt Nam hiện 
nay cũng như đề xuất giải pháp hoàn thiện 
là mục tiêu của bài viết này.
1. Yêu cầu về nhân lực đối với ngành 
thông tin - thư viện hiện nay
- Yêu cầu về cơ cấu 
Theo Krishan Kumar [6], các vị trí công 
việc mới trong môi trường điện tử đã đặt ra 
những yêu cầu về trình độ, kỹ năng đối với 
người làm công tác TT - TV. Cơ cấu nhân lực 
trong thư viện cần lưu ý về tỷ lệ cán bộ giữa 
các lĩnh vực KH&CN, TT - TV; các TV và 
TTTT ngày nay ứng dụng nhiều thành tựu 
của KH&CN, đặc biệt là công nghệ thông 
tin (CNTT), vì vậy, trong cơ cấu nhân lực 
cần có những người được đào tạo về CNTT. 
Robert D. Stueart và Barbara B. Moran [8] 
đã phân loại cơ cấu lao động trong TV và 
TTTT thành 3 nhóm cơ bản sau:
Nhóm 1: Nhân viên thư viện chuyên 
nghiệp: đóng vai trò là người lãnh đạo thư 
viện, định hướng hoạt động cho toàn bộ tổ 
chức.
Nhóm 2: Nhân viên hỗ trợ: là những 
người thực hiện các công việc cụ thể trong 
thư viện. 
Nhóm 3: Lực lượng lao động làm việc theo 
thời vụ: thực hiện những công việc giản đơn.
NHÂN LỰC TRONG CÁC THƯ VIỆN VÀ TRUNG TÂM THÔNG TIN TẠI VIỆT NAM HIỆN NAY
Tóm tắt: Bài viết tập trung vào các nội dung sau: Phân tích yêu cầu về nhân lực ngành thông 
tin - thư viện hiện nay; Luận giải, đánh giá thực trạng nhân lực trong các thư viện và trung tâm thông 
tin ở Việt Nam; Đề xuất giải pháp nâng cao chất lượng nhân lực thông tin - thư viện nhằm bảo đảm vận 
hành hiệu quả các thư viện và trung tâm thông tin.
Từ khoá: Nhân lực; thông tin - thư viện; thư viện Việt Nam.
CURRENT HUMAN RESOURCES OF LIBRARIES AND INFORMATION CENTERS IN VIETNAM
Abstract: This article focuses on the following contents: Analysis of current requirements of 
library and information human resources; Interpretation and assessment of the present situation of 
human resources in libraries and information centers in Vietnam; Proposing solutions to improve the 
quality of library and information human resources to ensure the efficient operation of libraries and 
information centers.
Keywords: Human resources; library and information; Vietnamese libraries.
TS Nguyễn Văn Thiên
Khoa Thông tin - Thư viện, Trường Đại học Văn hóa Hà Nội
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
4 THÔNG TIN VÀ TƯ LIỆU - 2/2021
Theo Đoàn Phan Tân [9], nhân lực trong 
TV và TTTT tự động hóa gồm các thành 
phần sau:
+ Kỹ sư tin học: Giám sát vận hành và 
bảo trì hệ thống.
+ Nhà phân tích hệ thống: Nghiên cứu 
các lĩnh vực ứng dụng tự động hóa.
+ Nhà lập trình: Viết các chương trình 
cho máy tính, giải quyết các công việc do 
nhà phân tích đặt ra.
+ Thao tác viên: Vận hành và khai thác 
hệ thống.
+ Cán bộ chuyên môn lĩnh vực thư viện: 
Vận hành, xây dựng và khai thác hệ thống.
Có thể thấy, tuy tiếp cận từ những 
phương diện khác nhau nhưng tựu chung 
lại, các nhà khoa học đều nhấn mạnh đến 
sự thay đổi về cơ cấu nhân lực trong TV 
và TTTT hiện nay. Nếu như trong thư viện 
truyền thống, nhân lực chủ yếu là những 
người có chuyên môn về TT - TV thì trong 
TV và TTTT hiện nay, nhân lực cần có sự 
đa dạng, trong đó chủ chốt là từ hai lĩnh vực 
TT - TV và CNTT.
- Yêu cầu về năng lực chuyên môn
Theo các nhà thư viện học phương Tây [4], 
nghề TT - TV theo quan điểm hiện đại được 
gọi chung là nghề liên đới tới các công việc: 
sản xuất, xử lý, biến đổi, quản trị và sử dụng 
các dạng thông tin phục vụ cho các mục 
đích xã hội. Người cán bộ TT - TV cần có đủ 
năng lực để thực hiện bốn nhóm công việc 
chức năng có tên gọi liên quan đến bốn chữ 
cái C của tiếng Anh. 
+ C1 - Kiến tạo các sản phẩm thông tin 
(Creators).
+ C2 - Thu thập thông tin (Collectors).
+ C3 - Tinh chế và biến đổi thông tin 
(Consolidators). 
+ C4 - Truyền thông (Communicators).
TV và TTTT hiện đại là nơi sử dụng các 
phương tiện, công nghệ để thu thập, xử lý, 
tổ chức thông tin và cung cấp các dịch vụ 
thúc đẩy việc tạo ra tri thức. Chính vì vậy, 
nó đòi hỏi từ người làm công tác TT - TV 
những năng lực để thực hiện những công 
việc mới. TV và TTTT truyền thống yêu cầu 
ở người cán bộ khả năng thu thập, xử lý, 
tổ chức và cung cấp thông tin, tài liệu. TV 
và TTTT hiện đại ngoài những yêu cầu trên 
còn đòi hỏi khả năng sử dụng các phương 
tiện công nghệ để phân tích, biến đổi, đánh 
giá thông tin tạo ra các sản phẩm thông tin 
và dịch vụ gia tăng đáp ứng những yêu cầu 
ngày càng cao của người dùng tin. 
Nhìn từ một phương diện vai trò, TV và 
TTTT ngày nay không đơn thuần là nơi quản 
lý tài liệu, quản trị thông tin mà còn thực hiện 
vai trò quản trị tri thức. Theo Gandhi [1], quản 
trị tri thức là một phương tiện để mở rộng 
phạm vi tham gia hoạt động của các chuyên 
gia TT - TV. Theo Martin [7], các chuyên gia 
TT - TV cũng là chuyên gia về quản lý nội 
dung. Sự khác biệt giữa quản trị tri thức so 
với quản lý tài liệu được thể hiện ở ngay 
trong những đặc điểm của trí th ... đào tạo về lĩnh vực TT - TV cách thời điểm 
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
9THÔNG TIN VÀ TƯ LIỆU - 2/2021
hiện nay là 20 năm, trong trường hợp không 
được đào tạo cập nhật kiến thức sẽ tạo ra 
những khó khăn cho người quản lý trong 
việc tiếp cận các công nghệ mới. 
+ Tỷ lệ cán bộ lãnh đạo quản lý không 
phải là những người được đào tạo căn bản 
về lĩnh vực TT - TV khá cao. Có 8/72 cán 
bộ quản lý thư viện có trình độ tiến sỹ, tuy 
nhiên chỉ có 1/8 được đào tạo về lĩnh vực 
TT - TV, số còn lại được đào tạo từ các lĩnh 
vực khác. Thực tế này cũng tạo ra những 
khó khăn trong quản lý TV và TTTT nếu họ 
không được đào tạo, bồi dưỡng về nghiệp 
vụ thư viện hay không có cơ chế phối hợp 
linh hoạt phù hợp với các cấp quản lý khác 
trong TV và TTTT. Việc điều chuyển, bổ 
nhiệm cán bộ lãnh đạo quản lý từ các lĩnh 
vực khác sang quản lý TV và TTTT dễ tạo 
ra những bất cập trong quản lý, đặc biệt là 
quản lý các hoạt động chuyên môn trong 
thư viện hiện đại. Có gần 10% cán bộ lãnh 
đạo quản lý trong TV và TTTT Việt Nam 
hiện nay chưa tham gia khóa đào tạo nào 
về quản lý, đây cũng là điểm yếu cần khắc 
phục. Thực tế này cũng được thể hiện trong 
kết quả khảo sát, có tới 12,5% cán bộ lãnh 
đạo quản lý không xác định được mô hình 
cơ cấu tổ chức TV và TTTT mình đang quản 
lý thuộc loại nào.
Qua phân tích các kết quả khảo sát thực 
trạng nhân lực trong các TV và TTTT ở Việt 
Nam có thể thấy, cùng với quá trình áp dụng 
thành tựu KH&CN, các TV và TTTT đã có 
sự quan tâm nhất định đến phát triển nhân 
lực. Thực tế này thể hiện qua cơ cấu nhân 
lực trong các TV và TTTT, về đội ngũ cán 
bộ lãnh đạo quản lý có trình độ khá cao và 
có thâm niên trong quản lý. Tuy nhiên, bên 
cạnh những mặt tích cực, còn có nhiều tồn 
tại trong đó tập trung vào: Cơ cấu nhân lực 
trong các TV và TTTT có có sự chênh lệch 
khá lớn, nhiều TV và TTTT chưa tuyển dụng 
được nhân viên có trình độ về CNTT. Phần 
lớn nhân lực trong các TV và TTTT đã tốt 
nghiệp cách thời điểm hiện nay khá lâu, 
lại không được đào tạo bồi dưỡng thường 
xuyên nên ít được cập nhật kiến thức về thư 
viện hiện đại. Đội ngũ cán bộ lãnh đạo quản 
lý có độ tuổi trung bình cao sẽ khó khăn 
trong việc tiếp cận với những công nghệ mới 
của thư viện hiện đại. 
Để nhân lực trong các TV và TTTT Việt 
Nam có đủ năng lực vận hành và khai thác 
hiệu quả các thư viện hiện đại, cần thực hiện 
nhiều giải pháp nhằm khắc phục những hạn 
chế trên.
3. Giải pháp nâng cao chất lượng nhân 
lực thông tin - thư viện
3.1. Đào tạo bồi dưỡng cập nhật kiến 
thức 
- Đối với cán bộ lãnh đạo quản lý 
Từ những phân tích về thực tế đội ngũ 
cán bộ lãnh đạo quản lý trong các TV và 
TTTT ở Việt Nam trên đây có thể thấy, đội 
ngũ cán bộ lãnh đạo quản lý có trình độ 
khá cao. Tuy nhiên, vì độ tuổi cũng như thời 
điểm tốt nghiệp khá lâu nên việc đào tạo 
nâng cao trình độ quản lý, trình độ chuyên 
môn thư viện hiện đại là rất cần thiết. Theo 
Lê Văn Viết [13], đã đến lúc phải tiến hành 
mở lớp đào tạo riêng cho tất cả những người 
làm công tác quản lý thư viện. 
Tính đến thời điểm hiện nay, chưa một 
cơ sở đào tạo nào tại Việt Nam có chương 
trình đào tạo riêng dành cho cán bộ lãnh 
đạo quản lý TV và TTTT. Kiến thức về tổ 
chức quản lý TV và TTTT chủ yếu được lồng 
ghép vào các chương trình đào tạo chung. 
Với thực tiễn Việt Nam hiện nay, việc xây 
dựng một chương trình đào tạo riêng dành 
cho cán bộ lãnh đạo quản lý tại các cơ sở 
đào tạo nhân lực TT - TV là rất cần thiết. 
Chương trình và các khóa đào tạo này phải 
được xây dựng và tổ chức linh hoạt với thời 
lượng và các nội dung khác nhau cho nhiều 
đối tượng cán bộ lãnh đạo quản lý. Việc đào 
tạo này cần được tiến hành một cách khoa 
học trên cơ sở phân hoạch đội ngũ cán bộ 
lãnh đạo quản lý và có những chương trình 
đào tạo hợp lý.
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
10 THÔNG TIN VÀ TƯ LIỆU - 2/2021
Đối với cán bộ quản lý được điều chuyển 
từ lĩnh vực khác sang quản lý TV và TTTT, 
cần được đào tạo những kiến thức cơ bản 
về lĩnh vực TT - TV, trong đó, trọng tâm là 
những kiến thức chuyên môn về thư viện 
hiện đại.
Đối với những cán bộ lãnh đạo quản lý 
chưa được tham gia bất kỳ khóa đào tạo 
nào về tổ chức quản lý, cần được đào tạo 
bồi dưỡng những kiến thức căn bản về khoa 
học quản lý.
Đối với tất cả cán bộ lãnh đạo quản lý 
trong các TV và TTTT, cần được đào tạo 
bồi dưỡng những kiến thức về quản lý thư 
viện hiện đại, trong đó, tập trung vào các 
nội dung như những thay đổi căn bản trong 
quản lý thư viện hiện đại, ứng dụng các 
công nghệ mới vào quản lý trong thư viện 
hiện đại.
- Đối với nhân viên thư viện
Thực tế cho thấy, trong thời gian gần 
đây, để nâng cao chất lượng đào tạo đáp 
ứng nhu cầu xã hội, các cơ sở đào tạo nhân 
lực ngành TT - TV tại Việt Nam đã có nhiều 
đổi mới, trong đó tập trung vào chương trình 
đào tạo, cũng như điều kiện thực hành nghề 
nghiệp cho sinh viên. Các chương trình đào 
tạo được cập nhật theo hướng hiện đại, 
giảm tải các kiến thức về thư viện truyền 
thống, tăng cường kiến thức về ứng dụng 
CNTT, quản trị thông tin và quản trị tri thức. 
Số liệu thống kê trong Bảng 1 là những học 
phần mới trong chương trình đào tạo ngành 
TT - TV và quản lý thông tin đang được áp 
dụng tại Trường Đại học Văn hóa Hà Nội. 
Số liệu thống kê cho thấy, có rất nhiều học 
phần theo hướng ứng dụng công nghệ trong 
thư viện hiện đại được cập nhật thay thế 
cho các học phần cũ không còn phù hợp. 
Bên cạnh đó, từ năm 2019 nhà trường đã 
chính thức khai trương hệ thống thực hành 
trực tuyến gồm các phần mềm thư viện tích 
hợp và hệ thống thư viện số do Hoa Kỳ và 
New Zealand phát triển. Với hệ thống này, 
gần như toàn bộ các môn học thuộc chuyên 
ngành TT - TV, sinh viên được thực hành 
nghề nghiệp trực tiếp trên máy tính ngay tại 
cơ sở đào tạo.
Phân tích thực trạng nhân lực đang làm 
việc trong các TV và TTTT ở Việt Nam cho 
thấy, phần lớn đội ngũ nhân lực đã được đào 
tạo cách thời điểm hiện nay trên 10 năm và 
nhiều người chưa được tham gia các khóa 
đào tạo bồi dưỡng cập nhật kiến thức. Vì 
vậy, giải pháp đào tạo cập nhật kiến thức 
về TT - TV hiện đại là rất cần thiết. Tương 
tự như đối với cán bộ lãnh đạo quản lý, để 
việc đào tạo đạt hiệu quả cao, các TV và 
TTTT cần có sự phân hoạch nhân lực, từ đó 
có các kế hoạch đào tạo phù hợp. Đối với 
đội ngũ cán bộ được đào tạo từ ngành khác, 
cần được đào tạo bồi dưỡng thêm những 
kiến thức căn bản về lĩnh vực TT - TV. Đối 
với những cán bộ đã được đào tạo cách thời 
điểm hiện nay khá lâu, cần được đào tạo bồi 
dưỡng cập nhật thêm các kiến thức mới về 
lĩnh vực chuyên môn trong thư viện hiện đại.
TT Tên môn học phần mới Thời lượng (TC)
1 Tin học đại cương 3
2 Nhập môn năng lực thông tin 2
3 Mạng máy tính 2
4 Xác suất thống kê 2
5 Nhập môn cơ sở dữ liệu 2
6 Khoa học quản lý 3
7 Chính sách thông tin 2
8 Thông tin và tổ chức 2
Bảng 1. Các học phần mới trong chương trình đạo ngành TT - TV tại Trường Đại học 
Văn hóa Hà Nội
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
11THÔNG TIN VÀ TƯ LIỆU - 2/2021
9 An toàn thông tin 2
10 Trình bày thông tin khoa học 2
11 Nhập môn quản trị tri thức 2
12 Đánh giá thông tin 3
13 Tổ chức thông tin 3
14 Phân tích dữ liệu 3
15 Hệ thống tìm tin 3
16 Thiết kế và quản trị website 3
17 Phân tích, quản trị hệ thống thông tin 3
18 Hệ thống thông tin quản lý 3
19 Quản trị nguồn lực thông tin số 3
20 Truyền thông hiện đại 3
21 Tài nguyên giáo dục mở 2
22 Tự động hóa hoạt động TT - TV 3
23 Xây dựng và quản lý dự án trong lĩnh vực TT - TV 3
Tổng số 59
Về hình thức, có thể áp dụng đa dạng 
hóa các hình thức đào tạo bồi dưỡng nâng 
cao trình độ cho nhân lực TT - TV: 
+ Đào tạo dài hạn, tập trung cho những 
cán bộ nòng cốt.
+ Đào tạo ngắn hạn, tập huấn nghiệp vụ 
cho những cán bộ cần cập nhật kiến thức.
+ Đào tạo tại nơi làm việc đối với các thư 
viện có số lượng nhân viên cần đào tạo lớn, 
hay đối với những nội dung đào tạo cần sự 
hướng dẫn trực tiếp.
+ Tham gia các khóa do các cơ sở đào 
tạo tổ chức ở nhiều trình độ khác nhau 
(ngắn hạn, đại học, sau đại học).
+ Cử cán bộ tham gia các khóa đào tạo 
tại nước ngoài, các quốc gia có nền khoa 
học thư viện phát triển.
3.2. Đổi mới mô hình cơ cấu tổ chức 
các thư viện và trung tâm thông tin
Mô hình cơ cấu tổ chức có ý nghĩa quyết 
định rất lớn đến việc phát huy khả năng của 
nhân lực làm việc trong TV và TTTT. Kết 
quả khảo sát cho thấy, phần lớn các TV và 
TTTT ở Việt Nam hiện nay đang áp dụng mô 
hình cơ cấu tổ chức trực tuyến, chức năng. 
Các mô hình cơ cấu tổ chức này, bên cạnh 
những ưu điểm đã bộc lộ nhiều bất cập, đặc 
biệt là trong bối cảnh phát triển mạnh mẽ 
các TV và TTTT Việt Nam hiện nay. Mô hình 
này thường chỉ tập trung giải quyết các vấn 
đề trong nội bộ của tổ chức mà ít chú ý đến 
những mối liên hệ, những nhân tố tác động 
từ môi trường bên ngoài. Khi môi trường xã 
hội và môi trường công nghệ thay đổi thì 
tổ chức đó khó có thể thích nghi một cách 
nhanh chóng và linh hoạt. Các TV và TTTT 
hiện nay là nơi ứng dụng các thành tựu của 
KH&CN nên sẽ có những thay đổi nhanh 
chóng xảy ra ở các môi trường bên ngoài, 
bên trong. Mô hình tổ chức đang áp dụng 
phổ biến hiện nay trong các TV và TTTT ở 
Việt Nam sẽ bộc lộ những nhược điểm và 
tạo ra những khó khăn trong quản lý cũng 
như không thể phát huy tối đa khả năng của 
nguồn nhân lực. Bên cạnh đó, với mô hình 
cơ cấu tổ chức theo chức năng sự phối hợp 
hoạt động giữa các bộ phận trong tổ chức, 
phòng ban trong TV và TTTT bị hạn chế 
bởi ranh giới về chức năng và nhiệm vụ cụ 
thể đã được xác định. Mô hình này không 
thể phát huy hết tiềm năng của mỗi đơn vị, 
cá nhân trong TV và TTTT theo hướng mở, 
liên kết đa chiều. Chính vì vậy, để phát huy 
tốt khả năng của nguồn nhân lực trong các 
TV và TTTT ở Việt Nam hiện nay, việc đổi 
mới mô hình cơ cấu tổ chức là giải pháp hữu 
ích. Xu hướng chung của các TV và TTTT 
trên thế giới hiện nay là sử dụng mô hình 
NGHIÊN CỨU - TRAO ĐỔI
12 THÔNG TIN VÀ TƯ LIỆU - 2/2021
lai ghép nhằm tạo ra một ma trận với sự 
liên kết đa chiều. Mô hình này có sự linh 
hoạt mềm dẻo đáp ứng được các yêu cầu 
về chuyên môn về TT - TV hiện đại, có khả 
năng thích ứng với sự thay đổi nhanh chóng 
từ môi trường bên trong và bên ngoài, đặc 
biệt là môi trường KH&CN. Đồng thời mô 
hình này cũng phát huy được tối đa nội lực 
của các thành viên trong TV và TTTT.
3.3. Cải cách về tiền lương và chế độ 
đãi ngộ đối với nhân lực ngành thông 
tin - thư viện 
Tiền lương và chế độ đãi ngộ luôn là yếu 
tố quan trọng tạo động lực cho người lao 
động trong bất cứ tổ chức nào. Thực tế cho 
thấy rằng, so với nhiều lĩnh vực khác, người 
làm việc trong lĩnh vực TT - TV có thu nhập 
thấp. Đây không phải là lĩnh vực có sự hấp 
dẫn người lao động. Khảo sát thực tế cho 
thấy, nhiều TV và TTTT không thể tuyển 
dụng được nhân lực có trình độ về CNTT, 
thậm chí gần đây tại một số TV và TTTT, 
nhiều cán bộ đã xin chuyển sang làm công 
việc khác hoặc thôi việc. TV và TTTT ngày 
nay có nhiều thay đổi về qui trình, phương 
thức thực hiện công việc theo hướng ứng 
dụng công nghệ, cần phải có sự khác biệt 
về cơ cấu nhân lực. Để có thể thu hút được 
nhân lực có trình độ cao làm việc trong TV 
và TTTT, cần có giải pháp cải cách về tiền 
lương, cũng như chế độ đãi ngộ đối với 
nhân lực.
Kết luận
Việc ứng dụng những thành tựu của 
KH&CN, đã tạo ra nhiều thay đổi trong hoạt 
động của các TV và TTTT ở Việt Nam. Bên 
cạnh đó, những thay đổi nhiều mặt của điều 
kiện xã hội đã ảnh hưởng đến vai trò của 
các TV và TTTT. Sự thay đổi này là tất yếu 
và là xu thế chung của các TV và TTTT 
hiện nay. Nó mang đến nhiều mặt tích cực, 
tuy nhiên sự thay đổi này cũng đặt ra những 
vấn đề đối với nhân lực TT - TV bởi thực 
trạng nhân lực làm việc trong các TV và 
TTTT ở Việt Nam hiện nay chưa thật sự đáp 
ứng được các yêu cầu đặt ra. Để giải quyết 
được vấn đề này, các TV và TTTT cần thực 
hiện đồng bộ nhiều giải pháp khác nhau. 
Chỉ như vậy, nhân lực ngành TT - TV mới 
đáp ứng được những yêu cầu mới trong vận 
hành thư viện hiện đại.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Gandhi, S. 2004. Knowledge management 
and reference services. Journal of Academic 
Librarianship 30 (5):368-381.
2. Grey, D. 1996. What is knowledge 
management? The Knowledge Management 
Forum. March 1996, 
t000008.htm.
3. Henczel, S. 2004. Supporting the KM 
environment: The roles, responsibilities, and 
rights of information professionals. Information 
Outlook 8 (1):14-19.
4. Nguyễn Hữu Hùng (2005). Thông tin: Từ 
lý luận đến thực tiễn, Văn hóa thông tin, Hà Nội.
5. Kimiz Dalkir (2011). Knowledge Management 
in Theory and Practice. The MIT Press Cambridge, 
Massachusetts London, England.
6. Krishan Kumar (2007). Library Management 
in Electronic Environment, Har-Anand, S.D. India.
7. Martin, B., A. Hazen, and M. Sarrafzadeh 
(2006). Knowledge management and the LIS 
professions: Investigating the implications for 
practice and for educational provision. Australian 
Library Journal 27 (8):12-29.
8. Robert D. Stueart và Barbara B. Moran (2007). 
Library and Information Center Management, 
Library and Information Science Text Series, 
Libraries Unlimited, NewYork.
9. Đoàn Phan Tân (2009). Tin học tư liệu, 
Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
10. Nguyễn Văn Thiên (2017). Quản lý thư 
viện hiện đại tại Việt Nam: Luận án tiến sỹ, 
Trường Đại học Văn hóa Hà Nội.
11. Trường Đại học Văn hóa Hà Nội (2019). 
Chương trình đào tạo ngành Quản trị thông tin, 
Trường Đại học Văn hóa Hà Nội, Hà Nội.
12. Trường Đại học Văn hóa Hà Nội (2019). 
Chương trình đào tạo ngành Thông tin Thư viện, 
Trường Đại học Văn hóa Hà Nội.
13. Lê Văn Viết (2011). “Thử bàn về chương 
trình đào tạo giám đốc thư viện”, 50 năm đào 
tạo nguồn nhân lực thông tin - thư viện, Trường 
Đại học Văn hóa Hà Nội.
(Ngày Tòa soạn nhận được bài: 15-11-2020; 
Ngày phản biện đánh giá: 06-01-2021; Ngày 
chấp nhận đăng: 19-02-2021).

File đính kèm:

  • pdfnhan_luc_trong_cac_thu_vien_va_trung_tam_thong_tin_tai_viet.pdf