Các phương án giải quyết xung đột văn hóa của chủ nghĩa đa văn hóa

Chủ nghĩa đa văn hóa ra đời và phát triển ở phương Tây từ thập niên 60 của

thế kỷ XX với tư cách một chính sách xã hội nhằm ứng phó với tình trạng đa dạng văn

hóa do sự xuất hiện của các cộng đồng nhập cư. Không chỉ dừng lại với tư cách một

chính sách của nhà nước, chủ nghĩa đa văn hóa ngày nay còn tồn tại với tư cách một lý

thuyết văn hóa nhằm giải quyết mối quan hệ giữa đa dạng và thống nhất của văn hóa.

Với triết lý của mình, chủ nghĩa đa văn hóa mang đến các phương án giải quyết những

xung đột văn hóa như: bảo vệ tính đa dạng văn hóa, giáo dục đa văn hóa và khoan

dung văn hóa

Các phương án giải quyết xung đột văn hóa của chủ nghĩa đa văn hóa trang 1

Trang 1

Các phương án giải quyết xung đột văn hóa của chủ nghĩa đa văn hóa trang 2

Trang 2

Các phương án giải quyết xung đột văn hóa của chủ nghĩa đa văn hóa trang 3

Trang 3

Các phương án giải quyết xung đột văn hóa của chủ nghĩa đa văn hóa trang 4

Trang 4

Các phương án giải quyết xung đột văn hóa của chủ nghĩa đa văn hóa trang 5

Trang 5

Các phương án giải quyết xung đột văn hóa của chủ nghĩa đa văn hóa trang 6

Trang 6

Các phương án giải quyết xung đột văn hóa của chủ nghĩa đa văn hóa trang 7

Trang 7

pdf 7 trang viethung 6180
Bạn đang xem tài liệu "Các phương án giải quyết xung đột văn hóa của chủ nghĩa đa văn hóa", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Các phương án giải quyết xung đột văn hóa của chủ nghĩa đa văn hóa

Các phương án giải quyết xung đột văn hóa của chủ nghĩa đa văn hóa
Các phương án 31
Các phương án giải quyết xung đột văn hóa 
của chủ nghĩa đa văn hóa
Bùi Thị Minh Phượng(*) 
Nguyễn Thi Phương(**)
Tóm tắt: Chủ nghĩa đa văn hóa ra đời và phát triển ở phương Tây từ thập niên 60 của 
thế kỷ XX với tư cách một chính sách xã hội nhằm ứng phó với tình trạng đa dạng văn 
hóa do sự xuất hiện của các cộng đồng nhập cư. Không chỉ dừng lại với tư cách một 
chính sách của nhà nước, chủ nghĩa đa văn hóa ngày nay còn tồn tại với tư cách một lý 
thuyết văn hóa nhằm giải quyết mối quan hệ giữa đa dạng và thống nhất của văn hóa. 
Với triết lý của mình, chủ nghĩa đa văn hóa mang đến các phương án giải quyết những 
xung đột văn hóa như: bảo vệ tính đa dạng văn hóa, giáo dục đa văn hóa và khoan 
dung văn hóa. 
Từ khóa: Chủ nghĩa đa văn hóa, Xung đột văn hóa, Đa văn hóa, Giáo dục đa văn hóa, 
Khoan dung văn hóa
Abstract: Multiculturalism was adopted as a social policy in several Western nations 
from the 1960s onward to respond to the cultural diversity resulting from immigrant 
communities. Not only a state policy, multiculturalism also acts as a philosophy that 
addresses the relationship between cultural diversity and unity. In the philosophy of 
multiculturalism, diff erent solutions are suggested to resolve cultural confl icts including 
protection of cultural diversity, multicultural education and cultural tolerance.
Keywords: Multiculturalism, Cultural Confl ict, Multiculture, Multicultural Education, 
Cultural Tolerance 
1. Khái quát về chủ nghĩa đa văn hóa12
Từ thập niên 60 của thế kỷ XX đến nay, 
ở một loạt các quốc gia, nhiều chính sách 
đã đưa ra mục tiêu tổng thể là thúc đẩy sự 
(*) ThS., Viện Thông tin Khoa học xã hội, Viện Hàn 
lâm Khoa học xã hội Việt Nam; 
Email: phuongissi@yahoo.com
(**) TS., Khoa Lý luận chính trị, Trường Đại học Mỏ 
- Địa chất.
khoan dung và tôn trọng bản sắc văn hóa 
của các cộng đồng thiểu số. Những chính 
sách này được thực hiện thông qua các biện 
pháp hỗ trợ các hiệp hội cộng đồng và các 
hoạt động văn hóa của họ, khuyến khích 
các hình ảnh tích cực trên các phương tiện 
truyền thông và hoàn thiện các dịch vụ công 
cộng để điều tiết những khác biệt có cơ sở 
văn hóa về giá trị, ngôn ngữ và thực tiễn xã 
hội. Nó cũng là diễn đàn của tự do và dân 
Thông tin Khoa học xã hội, số 11.201932
chủ, thỏa mãn khát vọng được sống cuộc 
sống của chính mình trong một thế giới đa 
màu sắc. Tất cả những chính sách văn hóa 
như vậy được gọi dưới cái tên chủ nghĩa đa 
văn hóa.
Đa văn hóa là hiện tượng đặc trưng của 
các nước phát triển phương Tây nửa sau thế 
kỷ XX, xuất hiện trong bối cảnh đa dạng 
văn hóa đương đại và mang dấu ấn đặc biệt 
của đạo đức thực dụng xã hội phương Tây. 
Đó là khả năng phản ứng một cách nhanh 
chóng trước những biến đổi của môi trường 
xung quanh, khả năng xây dựng những 
quan niệm lý luận thích ứng với những 
thách thức của xã hội. 
Thực tiễn cho thấy chủ nghĩa đa văn 
hóa ra đời gắn liền với hai nhân tố sau: 
Thứ nhất là phong trào dân chủ những năm 
1970 của các cộng đồng thiểu số (dân tộc, 
tôn giáo, tính dục) đứng lên đấu tranh nhằm 
khẳng định sự tồn tại hợp pháp và cuộc đấu 
tranh của phụ nữ đòi quyền lợi của mình. 
Thứ hai, những thập niên 1960-1970 đã 
chứng kiến những dòng di cư ồ ạt từ các 
nước nghèo châu Á, Bắc Phi và vùng Viễn 
Đông đến các nước phương Tây. Đây là 
nhân tố quan trọng nhất cho sự ra đời của 
chính sách đa văn hóa ở các nước tiếp nhận 
dân nhập cư. Việc lựa chọn đa văn hóa phản 
ánh tính thực dụng của phương Tây ở chỗ 
họ đã tìm cách bù đắp những thiếu hụt về 
nguồn nhân lực đang ngày càng bị lão hóa 
bằng nguồn lao động giá rẻ từ các nền kinh 
tế đang phát triển (Kanarsh, 2012). 
Mặt khác, việc lựa chọn đa văn hóa 
trong đời sống chính trị của người phương 
Tây cũng xuất phát từ chỗ thuyết đồng hóa, 
chủ nghĩa biệt lập, thuyết can thiệp, chủ 
nghĩa phân biệt chủng tộc tỏ ra không còn 
thích dụng, dần bộc lộ khiếm khuyết và trở 
nên không phù hợp với mô hình xã hội hiện 
đại. Điều này dẫn tới nhu cầu phải có một 
chính sách mới, hữu hiệu hơn trong việc 
quản lý các cộng đồng dân sự đang ngày 
càng đa dạng về sắc tộc và văn hóa bởi di 
cư và bởi toàn cầu hóa thông tin. 
Tuy nhiên, đa văn hóa cũng gặp không 
ít chỉ trích bởi nó có thể trở thành một lực 
lượng gây chia rẽ cộng đồng dân tộc. Sự 
ủng hộ tích cực đối với tính đa dạng văn 
hóa, hay đối với chủ nghĩa đa văn hóa, có 
khả năng khuyến khích các xung đột xã 
hội, gây chia rẽ sâu sắc, làm hồi sinh mạnh 
mẽ các cuộc xung đột sắc tộc Nhưng bỏ 
qua những phản ứng trên, chủ nghĩa đa văn 
hóa vẫn cho thấy tính hợp lý của mình khi 
lý luận của nó dựa trên lòng khoan dung và 
mong muốn đi tìm tính thống nhất trong sự 
khác biệt.
Xét trên phương diện lý luận, chủ nghĩa 
đa văn hóa dựa trên cơ sở của chủ nghĩa tự 
do, lấy những nguyên tắc của chủ nghĩa tự 
do làm nền tảng, đó là tự do cá nhân và dân 
chủ. Thuyết đa văn hóa là một giải pháp 
cho sự bất ổn của xã hội trên cơ sở bù đắp 
cho những khiếm khuyết của chủ nghĩa tự 
do. Đồng thời, chủ nghĩa đa văn hóa cũng 
lấy triết lý cơ bản nhất của chủ nghĩa cộng 
đồng làm cơ sở cho mình, đó là con người 
sống trong một xã hội phải là thành viên 
của ít nhất một cộng đồng nào đó, và bảo 
vệ bản sắc văn hóa của cộng đồng cũng 
chính là khẳng định sự tồn tại của bản thân 
(Xem: Bùi Thị Minh Phượng, Nguyễn Thi 
Phương, 2015).
Sự ra đời và phát triển của chủ nghĩa 
đa văn hóa đã có những ảnh hưởng tích cực 
trên nhiều phương diện như: phát triển nền 
dân chủ và hướng tới sự bình đẳng giữa các 
cộng đồng văn hóa; thúc đẩy hòa hợp dân 
tộc và hội nhập cộng đồng của các cộng 
đồng thiểu số, cộng đồng di cư, mang lại 
cái nhìn phản biện từ phía cộng đồng văn 
hóa yếu thế và thôi thúc họ khẳng định 
Các phương án 33
bản sắc. Bên cạnh đó, khoan dung văn hóa 
đã và đang được cộng đồng thế giới thừa 
nhận là một trong những nguyên tắc ứng 
xử giữa các cộng đồng văn hóa trên phạm 
vi toà ...  tế, chính trị sẽ không tạo ra một thứ 
văn hóa duy nhất và độc tôn cho cả khu 
vực, và cũng không hề làm tiêu biến các 
nền văn hóa dân tộc khác, mà trái lại, nó 
lấy tính đa dạng văn hóa của các nền văn 
Thông tin Khoa học xã hội, số 11.201934
hóa dân tộc làm cơ sở để phát triển. Toàn 
cầu hóa văn hóa sẽ không “đẻ” ra một thứ 
văn hóa duy nhất và độc tôn cho toàn thế 
giới và cũng không hề làm tiêu biến các nền 
văn hóa dân tộc khác; trái lại, nó lấy tính 
đa dạng của các nền văn hóa dân tộc làm 
cơ sở phát triển. Thế nên, việc hình dung 
rằng toàn cầu hóa sẽ “xóa sổ” các nền văn 
hóa bản địa để thay bằng một sự nhất dạng 
về văn hóa là hết sức phi lý - điều này cũng 
giống như việc người ta hình dung về một 
cộng đồng mà không có cá thể trong đó 
(Phạm Thái Việt, 2006: 335). 
Các nhà nước - dân tộc luôn có một dòng 
văn hóa chủ lưu tồn tại làm kim chỉ nam cho 
các thiểu số văn hóa khác khi giải quyết tính 
đa dạng văn hóa để đạt tới sự bình đẳng và 
dân chủ thực sự. Còn đối với những cộng 
đồng liên minh, không thể xây dựng được 
như vậy, bởi người ta sẽ không chấp nhận 
văn hóa Việt Nam mang tính phổ quát nhất 
khu vực Đông Nam Á, hay văn hóa Đức sẽ 
là trụ cột cho cả khu vực châu Âu... 
Tính thống nhất về văn hóa chỉ có thể 
dựa trên điều kiện tự nhiên, địa lý hoặc tôn 
giáo đối với các cộng đồng liên minh. Do 
đó, các nhà nước - dân tộc không thể xây 
dựng khối liên minh nếu không tìm được 
sự tôn trọng văn hóa của nhau, đồng thời sẽ 
không có nhu cầu liên kết lại với nhau nếu 
không có sự khác biệt. Vì vậy, tôn trọng 
đa dạng văn hóa của chủ nghĩa đa văn hóa 
hoàn toàn thích dụng với những cộng đồng 
như trên.
Thứ hai, giáo dục đa văn hóa là một mô 
thức giáo dục mới của tương lai. 
Giáo dục đa văn hóa được chủ nghĩa 
đa văn hóa hết sức đề cao. K. Banting và 
W. Kymlicka đã chỉ ra: “Chủ nghĩa đa văn 
hóa bao gồm mức ủng hộ chắc chắn đối với 
các nền văn hóa và bản sắc sắc tộc thiểu 
số, sự thừa nhận mức độ nào đó quyền tập 
thể của các nhóm sắc tộc vốn không phủ 
nhận quyền tự do của con người... Nó mở 
rộng (đặc biệt là ở Canada) từ các chương 
trình giáo dục dành cho các nhóm nhập 
cư cho tới việc chấp nhận sự tự trị về mặt 
lãnh thổ và quyền ngôn ngữ đối với các tộc 
người thiểu số dân tộc và tới sự thừa nhận 
quyền yêu sách đất đai và quyền tự quản 
cho những người dân bản xứ” (Banting, 
Kymlicka, 2003).
Hiện nay, giáo dục - đào tạo ở các quốc 
gia phát triển đều hướng tới một nền giáo 
dục đa văn hóa. Giáo dục đa văn hóa với 
quan điểm hiểu biết về chính mình là chưa 
đủ. Bên cạnh việc giáo dục những giá trị 
văn hóa như đạo đức, thẩm mỹ, truyền 
thống, triết lý được thừa hưởng từ bản sắc 
văn hóa dân tộc, thì cần phải học hỏi, tiếp 
thu những giá trị từ các cộng đồng văn hóa 
khác để hoàn thiện. Đây chính là mục tiêu 
của giáo dục đa văn hóa. 
Thông thường khi nói đến giáo dục 
đa văn hóa, người ta có xu hướng nghĩ tới 
việc học tập về văn hóa của “nước khác”. 
Tuy nhiên, để hiểu biết đúng đắn về đa văn 
hóa, trước tiên cần hiểu biết sâu sắc, đầy 
đủ về văn hóa của bản thân. Tiếp đó, sự 
hiểu biết sâu sắc về đa văn hóa sẽ được tạo 
ra nhờ vào nghiên cứu giao tiếp giữa các 
nền văn hóa.
Ngày nay, hầu hết các quốc gia trên thế 
giới là đa sắc tộc và xu hướng đa dân tộc 
hóa đang gia tăng trong quá trình quốc tế 
hóa. Vấn đề lớn của thời đại ngày nay là 
“các dân tộc cùng chung sống” thì ý nghĩa 
của giáo dục đa văn hóa nhắm tới sự hiểu 
biết và cùng sinh tồn trong lòng quốc gia 
dân tộc có ý nghĩa lớn.
Giáo dục đa văn hóa kích thích năng 
lực phản biện văn hóa, hay nói cách khác, 
để hiểu được bản thân mình thì phải thông 
qua người khác. Tiếp cận với những giá trị 
Các phương án 35
văn hóa khác biệt nhằm đối chiếu, so sánh 
để hoàn thiện bản thân luôn là nhu cầu nội 
tại của mỗi cộng đồng văn hóa. Nhìn nhận 
khách quan những đánh giá của người khác 
về bản thân mình cũng là nội dung của giáo 
dục đa văn hóa, bởi việc học cách lắng nghe 
để điều chỉnh và phát triển không phải lúc 
nào cũng dễ dàng đối với mỗi cá nhân cũng 
như với một cộng đồng nào đó. Giáo dục 
đa văn hóa để có cái nhìn tôn trọng sự khác 
biệt và cũng là để tôn trọng chính mình. 
Trên thực tế, mâu thuẫn, xung đột văn hóa 
cũng có nguyên nhân từ sự thiếu hiểu biết 
về nhau giữa các cộng đồng văn hóa. Do 
vậy, phát triển giáo dục đa văn hóa sẽ góp 
phần giảm thiểu xung đột này vì chính nó là 
điểm khởi đầu để những khác biệt gặp gỡ, 
hợp tác và phát triển.
Ngày nay, giáo dục được coi là một 
hàng hóa, cũng như tất cả các hàng hóa 
khác, nó phải đáp ứng được nhu cầu của 
người sử dụng. Có nhiều quốc gia đa văn 
hóa, chẳng hạn Úc, Mỹ, Singapore, Canada 
đã thành công trong hoạt động kinh tế này 
khi thu hút được lượng người học đa dạng 
trên phạm vi toàn thế giới. Xuất khẩu giáo 
dục đang đem lại nguồn ngoại tệ lớn cho 
nhiều quốc gia. Cũng chính quá trình giáo 
dục này đã thu hút được nhân tài trên thế 
giới và tạo ra cơ hội tuyển chọn cho đất 
nước của họ nguồn nhân lực đa dạng với 
chất lượng cao. 
Theo G. Ju. Kanarsh (2012), giáo dục 
đa văn hóa còn được hiểu theo nghĩa những 
người vốn xuất thân từ các cộng đồng văn 
hóa thiểu số được quyền thừa hưởng những 
giá trị văn hóa của họ, nghĩa là họ có quyền 
lựa chọn tiếp tục theo đuổi những giá trị 
văn hóa cội nguồn hoặc tiếp cận với các giá 
trị văn hóa khác.
Ở nhiều nước như Canada, Mỹ, Úc đã 
có những chương trình giáo dục đặc biệt 
dành riêng cho các cộng đồng thiểu số 
nhằm duy trì ngôn ngữ và văn hóa của họ. 
Nền dân chủ thực sự cần được khẳng định 
trong lĩnh vực giáo dục, đó là hướng tới 
giáo dục đáp ứng nhu cầu chứ không phải 
giáo dục áp đặt. Vì vậy, giáo dục đa văn hóa 
đang là sự lựa chọn của nhiều quốc gia tiên 
tiến trên thế giới và ngày càng trở thành mô 
thức cho một nền giáo dục tương lai.
Thứ ba, khoan dung là nguyên tắc ứng 
xử cơ bản giữa các cộng đồng văn hóa. 
Dưới góc nhìn của chủ nghĩa đa văn 
hóa, khoan dung là thừa nhận sự khác biệt 
văn hóa; giữa các nền văn hóa không có sự 
phát triển cao hay thấp, lớn hay nhỏ mà chỉ 
có sự đa dạng, phong phú hơn hay không. 
Chandran Kukathas (2004) nhận định: “Nó 
[chủ nghĩa đa văn hóa] khoan dung tới mức 
sẵn sàng chấp nhận bên trong nó có những 
người chống lại nó. Song, đồng thời, nó sẽ 
không đưa ra sự bảo hộ hay lợi thế đặc biệt 
cho bất kỳ nhóm hay cộng đồng cá biệt nào. 
Nó sẽ không ngăn cản bất cứ người nào 
theo đuổi những mục tiêu riêng biệt của 
họ hay cố gắng duy trì những truyền thống 
riêng biệt, song nó cũng không đề cao hay 
trợ cấp cho những người được đặc biệt yêu 
thích. Đây là thuyết đa văn hóa không có sự 
sợ hãi hay thiên vị”.
Chủ nghĩa đa văn hóa cho rằng khoan 
dung phải xuất phát từ hai hay nhiều phía, 
bởi nguyên tắc tối cao của chủ nghĩa đa 
văn hóa là tự do, bình đẳng, khoan dung 
không có nghĩa là thiên vị (Kymlicka, 
2010). Tuy nhiên, cần lưu ý rằng chủ nghĩa 
đa văn hóa rất gần với chủ nghĩa dân tộc 
khi đưa ra những tuyên bố mang tính đạo 
đức nhằm bênh vực các nhóm chịu nhiều 
thiệt thòi như: phụ nữ, người đồng tính, 
người khuyết tật
Trong bối cảnh xung đột giữa các cộng 
đồng văn hóa ngày càng trở nên phức tạp 
Thông tin Khoa học xã hội, số 11.201936
và khó giải quyết, thì khoan dung văn hóa 
đang được cộng đồng quốc tế và các quốc 
gia trên thế giới thừa nhận là nguyên tắc 
ứng xử giữa các nền văn hóa. Xu hướng 
chung của các nền văn hóa là hợp tác, đối 
thoại chứ không phải đối đầu. 
Hiện nay, tôn giáo ngày càng được 
thừa nhận là cốt lõi của các nền văn hóa, 
nên có thể thấy những xung đột giữa các 
cộng đồng văn hóa phần nhiều bắt nguồn từ 
sự khác biệt về niềm tin giữa các tôn giáo 
với nhau. Thường thì khoan dung và tôn 
trọng là hai đức tính cần có và phải được 
giữ gìn trong một xã hội đa tôn giáo. Chính 
vì vậy, cùng với việc thuyết giảng về khoan 
dung, các tôn giáo cần cố gắng thực hành 
khoan dung nhằm tạo dựng bầu không 
khí hò a bình và hò a hợp trong đời sống 
xã hội (Nguyễn Thế Doanh, 2008). Thiếu 
sự khoan dung sẽ rất khó chấp nhận việc 
có nhiều tôn giáo cùng tồn tại và thường 
dẫn đến sự kỳ thị cũng như cách nhìn nhận 
không đúng về tôn giáo. 
Tự do tôn giáo có nghĩa là bảo đảm 
quyền tự do tín ngưỡng cho mọi người dân, 
trong đó có cả việc đề cao tư tưởng khoan 
dung tôn giáo và đã được ghi nhận trong 
Tuyên ngôn Nhân quyền (1948). Chính 
khoan dung tôn giáo giúp cho tự do tôn 
giáo trở nên đích thực hơn, phù hợp hơn 
với hoà n cảnh thực tế, do vậy, nó làm lu mờ 
dần những hành vi bất khoan dung tôn giáo 
vô lý hiện đang còn tồn tại (Nguyễn Thế 
Doanh, 2008). 
Trong lịch sử nhân loại nói chung, đã 
xuất hiện nhiều nhóm xã hội đối lập nhau, 
sự đối lập này hoà n toàn hoặc một phần là 
do sự khác biệt về tôn giáo. Tây Ban Nha, 
Pháp, Anh, Hà Lan đều đã từng chứng kiến 
các xung đột tôn giáo. Mỹ cũng đã từng trải 
qua thời kỳ những người Tin Lành đấu tranh 
và trục xuất những người Moóc Mông, tấn 
công những người Công giáo. Hay gần đây 
hơn là sự xung đột giữa người Công giáo 
và Tin Lành ở Bắc Ireland, người Ấn giáo 
và Hồi giáo ở Kashmir, thanh lọc sắc tộc 
mang sắc thái xung đột tôn giáo ở Bosnia và 
Kosovo trong thập niên 1990. Nhưng gần 
đây đã xuất hiện nhiều cuộc đối thoại về tôn 
giáo, về nhân quyền, giao lưu văn hó a Đông 
- Tây dưới hình thức song phương hoặc đa 
phương, khu vực hoặc quốc tế với các tên 
gọi khác nhau. Chủ đề chính là “sự hò a hợp 
tôn giáo”, “xây dựng chiếc cầu nối”, “thống 
nhất trong đa dạng”,... nhằm mục đích giao 
lưu, trao đổi để tìm ra những biện pháp hữu 
hiệu, đưa tinh thần tốt đẹp, nhân ái, hướng 
thiện của các tôn giáo vào cuộc sống, góp 
phần xây dựng một xã hội ổn định, hòa 
bình, không có khủng bố, ngăn ngừa những 
tệ nạn xã hội (Nguyễn Thế Doanh, 2008). 
Khoan dung là sản phẩm của nhân loại 
trong quá trình nhận thức và phục vụ cuộc 
sống. Lòng vị tha vốn có của con người 
là nguồn mạch dồi dào nuôi dưỡng hành 
vi khoan dung và đến lượt mình, hành vi 
khoan dung này đã trở thành nhân tố quan 
trọng góp phần đoàn kết xã hội. Và đoàn 
kết xã hội chính là cơ sở để kiến tạo một 
nền hò a bình, giữ vững ổn định xã hội ở 
mọi quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới 
(Nguyễn Thế Doanh, 2008).
3. Một vài bàn luận và kết luận
Di cư và sự đa dạng văn hóa chắc chắn 
sẽ vẫn ở mức độ cao trong nhiều năm tới. 
Trong khi đó, mô hình và các quá trình di 
cư toàn cầu đang tạo ra bối cảnh của sự đa 
dạng mới: người di cư đang duy trì bản sắc 
mạnh mẽ ở nhiều nơi khác nhau và có mối 
liên hệ xuyên quốc gia trực tiếp với quê 
hương của họ. Do vậy, các nhà nước - dân 
tộc cần phải có những chính sách đa văn 
hóa rõ ràng nhằm đối phó với những vấn 
đề trên. G. Ju. Kanarsh cho rằng, nếu như 
Các phương án 37
chủ nghĩa đa văn hóa bị phá bỏ chắc chắn 
sẽ phải có một lý thuyết thay thế, hoặc cần 
phải nhìn nhận những ứng dụng của chủ 
nghĩa đa văn hóa ở một phổ rộng lớn hơn 
không gian nhà nước - dân tộc (Kanarsh, 
2012). Chính điều này đã giúp chủ nghĩa đa 
văn hóa có những phương án cho việc giải 
quyết xung đột văn hóa:
Thứ nhất, thừa nhận bản sắc tộc người 
trong không gian của một nhà nước - dân 
tộc là chưa đủ trong điều kiện toàn cầu hóa. 
Đa dạng văn hóa cần được khẳng định và 
bảo vệ ở các cộng đồng liên minh nhà nước 
và trên toàn thế giới. Trong môi trường của 
nhà nước liên minh, yêu cầu về tính thống 
nhất văn hóa không được đề cao như trong 
môi trường của nhà nước - dân tộc. Điều 
này đã khắc phục được hạn chế lớn nhất 
của chủ nghĩa đa văn hóa là bảo vệ cái riêng 
mà không quan tâm tới cái chung. 
Thứ hai, giáo dục đa văn hóa đang trở 
thành xu hướng giáo dục tương lai bởi tính 
mở của nó. Toàn cầu hóa văn hóa đang đặt 
nền móng cho một nền văn hóa toàn nhân 
loại, nó xác lập nên hệ giá trị chung đại diện 
cho con người trong quan hệ với tự nhiên 
và với nhau. Xu hướng phát triển một nền 
giáo dục đảm bảo kế thừa được những giá 
trị của dân tộc, đồng thời tiếp thu được tinh 
hoa văn hóa của nhân loại là một tất yếu 
của thời đại ngày nay. Chúng ta đang sống 
trong một thời đại mà sự lệ thuộc lẫn nhau 
giữa các cộng đồng người trở nên mật thiết 
hơn bao giờ hết, vì vậy, hiểu biết về người 
khác là điều kiện cần thiết cho sự tồn tại và 
phát triển.
Thứ ba, trong những giá trị được chia 
sẻ trên toàn cầu và bao trùm lên các nền 
văn hóa, khoan dung là một giá trị, một 
nguyên tắc vượt lên trên những khác biệt 
về văn hóa, văn minh. Nó là cơ sở tối cao 
để có thể thu được thành quả của mọi cuộc 
đối thoại. Vì vậy, mọi cuộc đối thoại đều 
khuyến khích sự khoan dung và sự tôn 
trọng đối với người khác, đồng thời thừa 
nhận và tuân thủ sự đa dạng văn hóa trên 
hành tinh  
Tài liệu tham khảo
1. Nguyễn Thế Doanh (2008), “Vai trò của 
khoan dung tôn giáo và đoàn kết xã hội 
trong việc kiến tạo nền hòa bình và giữ 
vững ổn định xã hội”, Tạp chí Triết học 
số 5 (204).
2. Banting, Keith and Kymlick, Will 
(2003) “Multiculturalism and welfare”, 
Issent, Vol. 50, Issue 4, October, 
wrlc.org/en/eSrch/ss_hl.asp
3. Kanarsh, G. Ju. (2012), “Đa văn hóa: 
Quan niệm xã hội và thực tiễn xã hội”, 
Tài liệu phục vụ nghiên cứu, Viện 
Thông tin Khoa học xã hội.
4. Kukathas, Chandran (2004), Theoretical 
Foundations of Multicuturalism, 
workshop/fall04/theoretical_found
5. Kymlicka, Will (2010), “The rise and 
fall of multiculturalism?: new debates on 
inclusion and accommodation in diverse 
societies”, In: Vertovec S., Wessendorf 
S., ed. (2010), The Multiculturalism 
Backlash: European Discourses, 
Policies and Practices, Routledge, 
London/New York, pp. 32-49.
6. Bùi Thị Minh Phượng, Nguyễn Thi 
Phương (2015), “Cơ sở lý thuyết và 
thực tiễn của chủ nghĩa đa văn hóa”, 
Tạp chí Thông tin Khoa học xã hội, 
số 10.
7. Phạm Thái Việt (2006), Toàn cầu hóa: 
Những biến đổi lớn trong đời sống 
chính trị quốc tế và văn hóa, Nxb. Khoa 
học xã hội, Hà Nội. 

File đính kèm:

  • pdfcac_phuong_an_giai_quyet_xung_dot_van_hoa_cua_chu_nghia_da_v.pdf