Kiểu tính cách văn hoá Tây nam bộ qua “hương rừng Cà mau” của Sơn Nam
Nghiên cứu liên ngành là xu hướng chủ đạo trong thời gian hiện nay. Nghiên cứu
đặc trưng văn hoá qua tác phẩm văn học cũng theo xu hướng đó. Bài viết tìm hiểu
những đặc trưng về tính cách văn hoá thể hiện qua tác phẩm văn học điển hình. Dựa
trên hệ thống tính cách người Việt vùng Tây Nam Bộ do Trần Ngọc Thêm xác định bằng
lí thuyết loại hình văn hoá, bài viết xem xét biểu hiện của kiểu tính cách văn hoá này
qua tác phẩm “Hương rừng Cà Mau” của Sơn Nam. Kết quả nghiên cứu cho thấy, tác
phẩm văn học này đã phản ánh rất chi tiết về những đặc trưng tính cách văn hoá chủ
đạo của con người vùng Tây Nam Bộ: Tính sông nước, tính trọng nghĩa, tính bộc trực,
tính bao dung, tính thiết thực, tính mở thoáng. Kết quả nghiên cứu này góp phần gợi mở
thêm cho việc phân tích các tác phẩm văn học theo hướng liên ngành, đặc biệt là với
ngành Văn hoá học.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Tóm tắt nội dung tài liệu: Kiểu tính cách văn hoá Tây nam bộ qua “hương rừng Cà mau” của Sơn Nam
Tạp chí khoa học Đại học Thủ Dầu Một Số 1(50)-2021 107 KIỂU TÍNH CÁCH VĂN HOÁ TÂY NAM BỘ QUA “HƢƠNG RỪNG CÀ MAU” CỦA SƠN NAM Trần Duy Khƣơng(1) (1) Trường Đại học Thủ Dầu Một Ngày nhận bài 20/12/2020; Ngày gửi phản biện 22/12/2020; Chấp nhận đăng 30/01/2021 Liên hệ email: khuongtd@tdmu.edu.vn https://doi.org/10.37550/tdmu.VJS/2021.01.165 Tóm tắt Nghiên cứu liên ngành là xu hướng chủ đạo trong thời gian hiện nay. Nghiên cứu đặc trưng văn hoá qua tác phẩm văn học cũng theo xu hướng đó. Bài viết tìm hiểu những đặc trưng về tính cách văn hoá thể hiện qua tác phẩm văn học điển hình. Dựa trên hệ thống tính cách người Việt vùng Tây Nam Bộ do Trần Ngọc Thêm xác định bằng lí thuyết loại hình văn hoá, bài viết xem xét biểu hiện của kiểu tính cách văn hoá này qua tác phẩm “Hương rừng Cà Mau” của Sơn Nam. Kết quả nghiên cứu cho thấy, tác phẩm văn học này đã phản ánh rất chi tiết về những đặc trưng tính cách văn hoá chủ đạo của con người vùng Tây Nam Bộ: Tính sông nước, tính trọng nghĩa, tính bộc trực, tính bao dung, tính thiết thực, tính mở thoáng. Kết quả nghiên cứu này góp phần gợi mở thêm cho việc phân tích các tác phẩm văn học theo hướng liên ngành, đặc biệt là với ngành Văn hoá học. Từ khoá: “Hương rừng Cà Mau”, kiểu tính cách văn hoá, liên ngành, Sơn Nam, Tây Nam Bộ. Abstract CULTURAL CHARACTERISTIC TYPE OF SOUTHWEST OF VIETNAM THROUGH “HUONG RUNG CA MAU” OF SON NAM Interdisciplinary research is a primary trend in the present time. Cultural featured research via literature is that follows this trend. The article surveys the cultural characteristics expressed through typical literary works. Based on the Vietnamese character system of the southwestern region determined by Tran Ngoc Them by the theory of artistic type, the article examines the expression of this cultural personality type through the work "Huong rung Ca Mau" by Son Nam. The research results show that this literary work has reflected in great detail the key cultural characteristics of people in the South West region: the harmony with the river, the respect for magnanimity, the directness, the tolerance, the practicality, the openness. This research contributes to further suggesting the analysis of literary works in the interdisciplinary direction, especially with the Culturology. 108 1. Giới thiệu “Hương rừng Cà Mau” được xem là bộ tác phẩm văn học - văn hoá điển hình trong sự nghiệp sáng tác của nhà văn Sơn Nam. Tác phẩm đã được nghiên cứu từ nhiều góc độ như phê bình sinh thái, diễn biến tâm lí nhân vật, diễn ngôn, phương ngữ Việc nhìn nhận giá trị văn hoá từ tác phẩm này cũng đã được đề cập từ lâu, nhưng nhìn chung, việc nhìn nhận tác phẩm văn học từ góc nhìn văn hoá này phần lớn còn mang tính rời rạc, chưa mang tính hệ thống chặt chẽ. Bài viết này đi từ lí thuyết loại hình văn hoá để chỉ ra những tính cách văn hoá điển hình của người Tây Nam Bộ, từ đó góp phần khẳng định lại những đóng góp của nhà văn Sơn Nam cả trong sự nghiệp sáng tác văn chương lẫn trong hành trình quảng bá văn hoá vùng sông nước Tây Nam Bộ. 2. Cơ sở khoa học và phƣơng pháp nghiên cứu 2.1. Mối quan hệ giữa tính cách văn hoá và kiểu văn học Kiểu văn hoá và kiểu văn học: Các sự vật hiện tượng trong thế giới đều rất đa dạng, phức tạp. Tuy nhiên, mỗi sự vật, hiện tượng đơn lẻ ấy đều có thể tìm thấy những điểm tương đồng từ những sự vật, hiện tượng khác. Từ những sự tương đồng này, chúng ta có thể quy ra các loại, các ngành, các họ, các nhóm hay các kiểu. Đối với các nền văn hoá cũng như các nền văn học trên thế giới, chúng ta cũng đều có thể phân loại chúng. Kết quả của sự phân loại ấy chính là sự hiện tồn của các loại hình văn hoá và các loại hình văn học. Ví dụ như, chúng ta có loại hình văn hoá phương Đông và phương Tây (theo phương vị), văn hoá truyền thống và văn hoá hiện đại (theo thời gian), văn hoá trọng động hay trọng dương và văn hoá trọng tĩnh hay trọng âm (theo tính chất của hoạt động). Theo Trần Ngọc Thêm (2004), trên thế giới có ba loại hình văn hoá tiêu biểu: Loại hình văn hoá trọng âm (tiêu biểu là khu vực Đông Nam Á), loại hình văn hoá trọng dương (tiêu biểu là phương Tây) và loại hình văn hoá trung gian (tiêu biểu là khu vực Đông Bắc Á). Tương tự, chúng ta cũng có loại hình văn học phương Đông và văn học phương Tây (theo phương vị), loại hình văn học cổ điển và loại hình văn học hiện đại/đương đại (theo thời gian) Tuy nhiên, trong cùng một loại hình, chúng ta lại có thể tiếp tục phân chia để hình thành nên các tiểu loại, ở đây, chúng tôi tạm gọi là các “kiểu”. Ví dụ như, cùng là những đất nước thuộc châu Á (phương Đông), nhưng các nền văn hoá điển hình ở nơi đây lại mang sắc thái riêng, có thể được định dạng thành các kiểu khác nhau: Văn hoá sa mạc (vùng Trung Đông, Tây Á), văn hoá tâm linh (Ấn Độ), văn hoá thần quyền (Nhật Bản), văn hoá vương quyền – thế tục (Trung Quốc), văn hoá trọng tình (Việt Nam) Tương tự, chúng ta có các kiểu văn học tương ứng như sau: Văn học ẩn ức sa mạc (đại diện là văn học Arab, Ba Tư), văn học tâm linh (đại diện là văn học Ấn Độ), văn học thần quyền – ngôn linh (đại diện là Nhật Bản), văn học thế tục (đại diện là Trung Quốc), văn học trọng tình (Việt Nam và những nền văn học Đông Nam Á). Tạp chí khoa học Đại học Thủ Dầu Một Số 1(50)-2021 109 Kiểu tính cách văn hoá: Tính cách là khái niệm dùng để chỉ những đặc trưng trong cách nhận thức, tổ chức, ứng xử (thể hiện qua bằng hành động) của một đối tượng người cụ thể. Đối tượng người này có thể là một người (mang tư cách là thành viên chính thức của xã hội) và cũng có thể là nhiều người (nhóm người, cộng đồng). Thế nhưng, do mang tính cộng đồng xã hội nên tính cách của một người, cá nhân nào đó cũng chính là sản phẩm được hình thành từ tính cách của cộng đồng đó, cho nên khi nói đến tính cách, người ta thường nghĩ đến tính cách chung của một cộng đồng mà không phải là tính cách riêng của từng cá nhân (ngoạ ... giang hồ tứ chiếng ít kén chọn khắt khe trong tình chồng vợ. Họ dễ dãi đối với sự trinh tiết”. Khi ông Hai Don bắt quả tang con gái có tư tình với Tư Cồ, ông Hai Don cũng không quá thủ cựu: “Ông Hai Don cau mày. Nếu làm to chuyện thì chẳng ích lợi gì cho ai hết. Chi bằng ông giữ thể diện với Tư Cồ và bắt buộc Tư Cồ giữ thể diện đối với ông. Ông nghĩ ra một giải pháp vẹn toàn: Cho Lệ và Tư Cồ ăn ở với nhau, hai đứa nó phải đi làm ăn ở xứ khác. Dân trong xóm sẽ bớt lời dị nghị, thanh danh của ông được bảo vệ một phần lớn”. Ngay cả trong lời ăn tiếng nói cũng vậy: Vì không quá khắt khe với những gì khác mình, nên việc chêm xen tiếng Trung Quốc, tiếng phương Tây vào lời quê là một việc hết sức bình thường. Ví dụ như, trong Thằng điếm vô danh, chủ tiệm đã ghi rõ mấy chữ ở hai bên hông mui tam bản: “Tiến Lợi - Phono - Photo - Sửa đồng hồ” (hai chữ Pháp trong dòng chữ này có nghĩa là sửa máy hát, chụp ảnh). Trong Tình bậu muốn thôi, dân Tây Nam Bộ hay nói “ra câu thai” để chỉ việc ra câu đố3. Trong Bà đầm Phô Xi Đông, từ “à há” còn trở thành từ đệm của những người theo mốt phương Tây, và thái độ của người nghe lại là cởi mở, thú vị: “Hai tiếng reo mừng “À há” khá đặc biệt khiến chúng tôi ngây ngất. Gái ở miền U Minh đâu biết dùng tiếng ấy. Nếu tôi không lầm, đó là giọng tằng hắng vừa nghiêm nghị, vừa hăm dọa, vừa khiêu khích của phụ nữ Tây phương. Cô Ba gieo rắc một hương vị thơm nồng ngoại lai”. 3.5. Tính thiết thực Không chỉ vậy, do sống trong môi trường rộng mở, thành phần cư dân thảy là những nhóm người di tán nghèo khó, hoặc là tù tội, hoặc là binh lính (người Khmer từ Lục Chân Lạp xuống, người Việt từ vùng Thuận Quảng vượt qua dải đất hẹp ven biển mà vào, người Hoa từ vùng Hoa Nam lưu vong sang, người Chăm từ các quốc gia khác tị nạn trở về), vì vậy, ngay từ những buổi sinh cơ lập nghiệp ban đầu, người Tây Nam Bộ tuy mong mỏi nhưng vẫn chưa có một sự ổn định vững chắc. Cho nên, cuộc sống Tạp chí khoa học Đại học Thủ Dầu Một Số 1(50)-2021 115 ngay trước mắt với cái ăn cái mặc hằng ngày vẫn là điều quan trọng nhất. Tính thiết thực bắt đầu từ đây, đồng thời còn được bồi đắp dần thêm khi tiếp xúc với văn hoá phương Tây vào khoảng cuối thế kỉ XVII trở đi. Do vậy, dân chúng coi trọng những người biết làm ra cái ăn cái mặc mà ghét những người nói suông theo lí thuyết hoặc khoác lác, nói điêu. Trong câu chuyện Cái tổ ong, ông Tư tuy ngưỡng mộ cậu Minh vì chàng ta có ăn học, nhưng cũng chán ngán vì cái thói nói chuyện trên trời dưới đất mà không thấy có ích lợi gì. Tính thiết thực này đã khiến cho người Tây Nam Bộ thích đơn giản hoá vấn đề, thích những cái gì đơn giản, tiện dụng hơn là những thứ khuôn phép, phức tạp. Ông Chòi Mui trong câu chuyện Đại chiến với thầy Chà chính là nhân vật điển hình cho tính khí ấy. Khi thấy nước mưa dột vào nhà thì “Mày dột vô nhà tao thì tao ra sau bếp lấy cái tô hứng mày, để dành uống chơi! Khỏi mắc công ra sau hè múc”. Khi nhắm chừng không thể dùng sức mạnh để trị tội thầy Chà, ông Chòi Mui bèn dùng kế sách hết sức đơn giản nhưng hiệu quả cao: Dùng nắp thùng thiếc khoét lỗ làm thành dạng ống hôm, nhân lúc thầy Chà không đề phòng mà chụp nắp thiếc vào đầu. Nhưng cũng xuất phát từ tinh thần chuộng cái đơn giản, xem trọng cái ăn cái mặc ngay trước mắt mà người Tây Nam Bộ hay có thói tạm bợ, ít khi tính mưu kế lâu dài. Đồng thời, khi có cái ăn cái mặc, con người nơi đây lại trở nên hào phóng đến mức lãng phí. Trong câu chuyện Cao khỉ U Minh, cách ăn cá sặc được giới thiệu ở đây là “mỗi con ăn hai đũa”: “Ta cứ cầm đũa, giẻ một bên, đưa vào miệng rồi thì trở con cá, giẻ thêm đũa nữa, giẻ xong, cứ quăng cái xương cá... Tôi ngậm ngùi nhìn đống xương cá vun lên khá cao, nếu rỉa cho kĩ, trong đống xương đó còn dính chừng một kí lô cá” hoặc trong Đảng xăm mình, cách ăn phải là “Cá lóc Xẻo Quao ngon lắm, ngốn một miếng cho biết mùi. Ăn lớn miếng mới biết ngon”. Trong câu chuyện Anh hùng rơm, tinh thần “ăn chơi xả láng sáng về sớm” đã được phản ánh khá rõ: “Ruộng đất quá phì nhiêu, chẳng cần bón phân, mỗi công đất (1.000 thước vuông) thâu hoạch hơn 20 giạ. Qua tháng Mười một, mãn mùa gặt, dân chúng còn hưởng thêm mùa dưa hấu trồng ngay trên ruộng. Nếu trúng mùa dưa thì rõ ràng là vốn một lời mười. Họ tha hồ ăn xài suốt tháng Giêng cờ bạc, đờn ca vọng cổ lai rai đến lúc tháng Ba, sa mưa”. Cũng vì trọng thực tế, nhiều người Tây Nam Bộ còn nâng nó lên thành thói thực dụng: Giáo Trích và Tư Hạnh tham tiền của Pháp nên suýt bị hại thân (Ăn to xài lớn); trong Ruộng lò bom, Lệ thích tên Tư Cồ là vì cho rằng Tư Cồ có tài không lo chết đói, mà cái tài này chỉ là theo lời nói từ phía Tư Cồ: “Người làm mướn sung sướng trăm bề: Không lo xa, có nhà ở, cơm ăn. Khi chán ông chủ này thì mình giựt nợ, làm tôi tớ cho ông chủ khác”; trong câu chuyện Con rắn ri voi, để kiếm nhiều tiền lời từ việc bán da rắn, “Sáu Kiến dùng bơm xe để bơm vào bụng rắn ri voi cho căng da, giúp bề ngang của da rộng hơn 3 tấc nhằm để bán có lời”. 3.6. Tính trọng nghĩa Tuy vậy, do xuất thân từ những con người không thể ở lại vùng cố thổ, phải lưu tán trong cảnh màn trời chiếu đất, luôn phải đối mặt những vạt rừng thiêng nước độc với cá sấu, rắn, cọp chực chờ, con người nơi đây lại bỏ qua tất cả những dị biệt mà đoàn kết 116 với nhau, sống bằng nghị lực và bằng tình cảm thật sự. Đó chính là cơ sở quan trọng để hình thành tinh thần trọng nghĩa của người Tây Nam Bộ. Có thể nói rằng, nổi bật hơn tất cả những nét tính cách còn lại, tính trọng nghĩa khí chính là sợi dây chỉ đạo xuyên suốt các mối quan hệ từ trong gia đình ra ngoài xã hội, từ người quen cho đến người xa lạ. Do vậy, nếu Truyện Kiều của Nguyễn Du được cư dân xứ Bắc yêu mến vì tinh thần Nhân Lễ thì Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu được nhân dân khắp cõi Nam Kì ca ngợi là vì câu chuyện ấy thấm đẫm tinh thần Nhân Nghĩa (với các hành động của Lục Vân Tiên, của ông quán, của ông Ngư, của Hớn Minh, Tử Trực). Trong các câu chuyện kể của Sơn Nam qua bộ truyện “Hương rừng Cà Mau”, tinh thần trọng nghĩa thể hiện vô cùng sâu sắc. Trong đó, một hành hiệp trượng nghĩa mang hơi hướng li kì thỉnh thoảng cũng được nhắc đến. Vốn là những người yêu thích truyện Trung Quốc, những con người chân chất vùng Tây Nam Bộ cũng nhiều lần hoá thân thành những người có tài độn thổ, tàng hình để cứu giúp những người lỡ vận, bị bức hiếp. Trong câu chuyện Bà vợ thứ mười, vì cảm thông nỗi khổ của thằng Nậu mà Hai Tước quyết chí giúp thằng Nậu lấy lại tờ giấy nợ từ tay bà cai tổng: “Dòng máu „nghĩa hiệp anh hùng‟ dường như bắt đầu hâm nóng trong huyết quản ông Hai Tước. Ông muốn thí nghiệm một lần chót để cứu giúp thằng Nậu”. Để giữ uy tín của những người chân chính, Năm Tiết trong Xuất quỷ nhập thần đã dùng mưu mẹo để vừa giúp hương quản được tôn vinh cái tài, còn bản thân mình thì được tôn trọng cái phép. Ngoài ra, trong bộ truyện còn có một cách sống vì người khác. Trong Bốn cái ngu, ông Hai Kiểm là người luôn nghĩ cho người khác, giúp cho Tư Hưng lấy được vợ mà bản thân lại lãnh nợ: “Ông Hai Kiểm xụ mặt, tưởng tượng đến những hậu quả tai hại mà ông gánh lấy. Chính ông đã làm mai mối cho Tư Hưng cưới vợ. Bên gái đòi một đôi bông búp, hai chiếc vòng đúng một lượng vàng. Vì muốn tác hợp cho hai trẻ là người dưng nên ông Hai Kiểm vẫn làm gan lãnh nợ, vay giùm cho gia đình Tư Hưng số tiền khá to. Chủ nợ hỏi: „Rồi làm sao vợ chồng nó đủ sức trả?‟. Ông Hai Kiểm đáp: „Vợ chồng nó sẽ nuôi heo nái, bán heo con lần hồi‟”. Hoặc trong Đại chiến với thầy Chà, khi thấy thầy Chà là kẻ cơ hội, khinh người Việt và quyến dụ đàn bà con gái, ông Chòi Mui đã ra tay trừng trị: Dùng nắp thùng thiếc để tròng vào đầu thầy Chà. Ông sống bằng tâm niệm về nghĩa khí như sau:“Gà ở lối xóm, bà con mình bán cho nhau rẻ nhứt. Ở chợ, gà nhiều nhưng bán mắc. Vì thiếu cái nhân tình. Lối xóm, gà lưa thưa nhưng bán rẻ. Vì nghĩ tình bà con quen thuộc, sớm tối có nhau, lúc hoạn nạn sung sướng. Ở đời, anh với tôi đây, đều phải có nhân tình... Tứ hải giai huynh đệ là vậy đó”. Trong Một cuộc biển dâu, ông bà Hai Tích tuy không quen biết gì cha con thằng Kìm, nhưng khi thấy người gặp khó khăn thì hết lòng giúp sức, không tiếc của cải Nhưng cảm động hơn, cái nghĩa khí của những con người chân chất nơi đây thường được thể hiện sâu sắc qua các câu chuyện kể về những người giết cá sấu để trừ hại cho dân chúng. Ông Năm Hên (Bắt sấu rừng U Minh Hạ) vì “Ta thương ta tiếc, Lập đàn giải oan...” và “Nghề bắt sấu có thể làm giàu được ngặt tôi không màng thứ phú Tạp chí khoa học Đại học Thủ Dầu Một Số 1(50)-2021 117 quới đó”. Cũng là nhân vật Năm Hên, nhưng trong Con sấu cuối cùng, ông Năm Hên lại là người mang nhiều thiệt thòi do vốn mang bản tính trọng nghĩa khí, xem tiền tài như phù hoa, mặc cho cai tổng Hy hiểu nhầm là ông tham hai lượng vàng. Sau khi giết được cá sấu hại người thì ông cũng bỏ đi và bảo “Nhắn với ông cai tổng: cứ cúng cơm trên bàn thờ, vì người chết đã ngậm cười”. Trong Sông Gành Hào, cha con chú Tư giết cá sấu trừ hại cho dân, khiến ông kiểm lâm Rốp muốn khen tặng, nhưng chú Tư là người sống bằng nghĩa khí: “Vì đất nước chớ đâu phải vì danh vì lợi. Sách có chữ: „Kiến nghĩa bất vi vô dõng giả, lâm nguy bất cứu mạc anh hùng‟. Công việc của tôi đã làm tròn. Tôi ao ước hương chức làng mình cất một cái miễu lá, thờ cái đầu con sấu nọ. Bất luận là sấu hay cọp, hễ nó hại mình thì mình giết. Hễ giết được rồi, mình nên thờ...”. Không chỉ mang nghĩa khí đối đãi với người trong cùng xóm làng, mà ở một số câu chuyện khác, tinh thần trọng nghĩa này đã bùng phát lên thành tình yêu nước thương dân, mong muốn xả thân để giết Tây, giữ gìn đất nước. Trên báo Văn nghệ, Nguyễn Thanh nhận định rằng Sơn Nam đã khẳng định tinh thần chiến đấu anh hùng để bảo vệ quê hương của người dân, từ đó gián tiếp phản ánh lòng căm thù giặc ngoại xâm sâu sắc (Nguyễn Thanh, 2016). Trong Con ngựa đất, tuy ông Hương cả được con gái cho hay tin Tây về, nhắn ông là phải đi tản cư, ở lại sẽ mang tiếng bán nước thì ông không đồng ý. Biết là Tây sẽ đến nhưng ông không chạy đi, mà viết “Việt Nam Độc lập” trên vách tường để thể hiện mình không bao giờ phản bội với đất nước. Câu chuyện Ngày mưa đầu mùa kể về thái độ ông Tư quyết liệt không theo Tây: “Nghe đâu ông phó tham biện nài nỉ, mời làm đại hương cả, ông Tư cương quyết từ chối, cũng như ông đã xem việc ban „huy chương canh nông‟ cho ổng, hồi ba năm trước, là điều sỉ nhục lớn”. Những người làm nghề tự do ven biển xăm những dòng chữ Tàu, chữ quốc ngữ lẫn chữ Pháp trong câu chuyện Đảng xăm mình tuy nghèo nhưng vẫn luôn giữ một tinh thần “Plutôt la mort que la honte” (Thà chết hơn chịu nhục). Đặc biệt, trong câu chuyện Đảng “Cánh buồm đen”, tinh thần yêu nước được thể hiện rõ ràng hơn cả. Ngay cả đến ông đạo, mối thù giặc Tây vẫn đeo đuổi trên bước đường tu đạo. Ông đạo khuyên Sáu Bộ giết Tây như tấm gương Nguyễn Trung Trực: “Hỡi ơi! Dũng tướng đã rơi đầu mà lời vàng ngọc nọ mãi rền vang trong lòng người, khắp non cao biển rộng... Chặt đầu Tây! Chặt đầu Tây!”. Sau khi lĩnh hội tinh thần này, Sáu Bộ đã thống nhất đảng Cánh buồm đen, làm nhiều việc nghĩa cho dân chúng. Về già, ông truyền dạy đường quyền Lưu Thuỷ cho thanh niên để đánh lại giặc Pháp. 4. Kết luận “Hương rừng Cà Mau” là một bộ truyện ngắn đặc sắc nhất trong sự nghiệp sáng tác văn chương của Sơn Nam. Trong ba tập của bộ truyện ngắn này, hình dáng của một “Ông già Nam Bộ” luôn được khắc hoạ ngầm ẩn từ những nhân vật khẳng khái trước thời cuộc, những con người nghèo khó nhưng biết quên mình lo cho an nguy của dân lành, những kẻ giang hồ tứ chiếng nhưng coi trọng chữ tín, coi trọng tình người. Với vốn kiến thức uyên 118 bác, Sơn Nam không chỉ phác hoạ lại một cách sinh động về bức tranh văn hoá dân gian vùng sông nước Tây Nam Bộ, mà thông qua đó, tác giả còn lồng ghép những đặc trưng tính cách văn hoá của cộng đồng cư dân nơi đây. Những đặc trưng tính cách này được hoà quyện từ nguồn gốc lưu dân tứ chiếng giang hồ, từ môi trường sống tuy đầy rẫy hiểm nguy nhưng cũng trù phú tốt tươi, từ quá trình tiếp nhận văn hoá phương Tây ngay từ những năm tháng bắt đầu định hình và phát triển một cộng đồng văn hoá vùng cực Nam của đất nước. Những nét đặc trưng tính cách ấy lâu dần trở thành nếp, trở thành kiểu tính cách văn hoá của một vùng độc lập: Vùng văn hoá Tây Nam Bộ. Theo đó, khi nhắc đến kiểu tính cách văn hoá Tây Nam Bộ, chúng ta sẽ nghĩ ngay đến một chùm đặc trưng tính cách văn hoá như sau: Tính thích nghi cao độ với môi trường sông nước, trọng nghĩa, bộc trực, bao dung, thiết thực, mở thoáng. Những đặc trưng này đều được truyền tải đậm nét qua những câu chuyện trong “Hương rừng Cà Mau”. Ngày nay, những đặc trưng tính cách văn hoá này có đậm nhạt, mạnh yếu khác nhau ở mỗi người, mỗi lúc, mỗi nơi ở vùng Tây Nam Bộ, nhưng nó vẫn luôn ngầm chảy trong tổng thể tính cách chung của con người nơi đây, đủ để tạo nên sắc thái khác biệt giữa con người miền cực Tây với những người sống ở các vùng miền khác, thậm chí là khi so sánh với con người vùng Đông Nam Bộ. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] Đặng Công (2011). Đất và người Nam Bộ qua “Hương rừng Cà Mau” của nhà văn Sơn Nam. [2] Đỗ Thị Minh Thuý (1997). Mối quan hệ giữa văn hoá và văn học. NXB Văn hóa – Thông tin. [3] Nguyễn Thanh (2016). Nhà văn Sơn Nam - Ấn tượng của tình đất, tình người. VanVN.net. [4] Phạm Thị Hồng Đào (2019). Văn hóa và con người Nam Bộ qua tập truyện “Hương rừng Cà Mau” của Sơn Nam. Trường THPT Nguyễn Thông. con-nguoi-nam-bo-qua-tap-truyen-huong-rung-ca-mau.html [5] Trần Ngọc Thêm (2004). Tìm về bản sắc văn hoá Việt Nam (Xuất bản lần thứ 2). NXB Tổng hợp. [6] Trần Ngọc Thêm (2018). Văn hoá người Việt vùng Tây Nam Bộ (Xuất bản lần thứ 2). NXB Văn nghệ. [7] Trần Thuận (2014). Nam Bộ: Vài nét lịch sử - văn hoá. NXB Văn hoá - Văn nghệ. [1] Sơn Nam (2009). Hương rừng Cà Mau (3 bộ tập truyện ngắn). NXB Trẻ.
File đính kèm:
- kieu_tinh_cach_van_hoa_tay_nam_bo_qua_huong_rung_ca_mau_cua.pdf