Kế toán quản trị môi trường trong ngành công nghiệp ô tô ở Việt Nam

Kế toán quản trị môi trường (KTQTMT là một bộ phận của kế toán môi trường, có thể dùng để hỗ trợ các nhà quản trị đánh giá được sự tác động đến môi trường do các hoạt động của doanh nghiệp gây ra, đặc biệt là cung cấp các thông tin về môi trường để các nhà quản trị ra quyết định. Tuy nhiên tại Việt Nam, việc vận dụng KTQTMT bị tác động không chỉ bởi các nhân tố áp lực cưỡng ép như các quy định về tiêu chuẩn ô nhiễm môi trường của Chính phủ hay các quy định của VAMA(Hiệp hội các nhà sản xuất ô tô Việt Nam) mà còn bị tác động bởi các nhân tố về lợi ích của doanh nghiệp khi áp dụng KTQTMT cũng như rào cản khác. Nghiên cứu này chỉ ra trong các doanh nghiệp ô tô Việt Nam, khả năng vận dụng KTQTMT bị tác động bởi các nhân tố như sự thúc đẩy giảm giá sản phẩm, sự phản ứng với các vấn đề môi trường, sự tuân thủ pháp luật, quy định cũng như quy chuẩn trong môi trường sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp

Kế toán quản trị môi trường trong ngành công nghiệp ô tô ở Việt Nam trang 1

Trang 1

Kế toán quản trị môi trường trong ngành công nghiệp ô tô ở Việt Nam trang 2

Trang 2

Kế toán quản trị môi trường trong ngành công nghiệp ô tô ở Việt Nam trang 3

Trang 3

Kế toán quản trị môi trường trong ngành công nghiệp ô tô ở Việt Nam trang 4

Trang 4

Kế toán quản trị môi trường trong ngành công nghiệp ô tô ở Việt Nam trang 5

Trang 5

Kế toán quản trị môi trường trong ngành công nghiệp ô tô ở Việt Nam trang 6

Trang 6

Kế toán quản trị môi trường trong ngành công nghiệp ô tô ở Việt Nam trang 7

Trang 7

Kế toán quản trị môi trường trong ngành công nghiệp ô tô ở Việt Nam trang 8

Trang 8

Kế toán quản trị môi trường trong ngành công nghiệp ô tô ở Việt Nam trang 9

Trang 9

Kế toán quản trị môi trường trong ngành công nghiệp ô tô ở Việt Nam trang 10

Trang 10

Tải về để xem bản đầy đủ

pdf 13 trang minhkhanh 6460
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Kế toán quản trị môi trường trong ngành công nghiệp ô tô ở Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Kế toán quản trị môi trường trong ngành công nghiệp ô tô ở Việt Nam

Kế toán quản trị môi trường trong ngành công nghiệp ô tô ở Việt Nam
 Tạp chí Khoa học và Công nghệ, Số 42, 2019 
     MÔI ƯỜG 
 TRONG NGÀNH CÔG GHIỆP Ô Ô Ở IỆ  
 TRẦN NGỌC HÙNG, NGUYỄN THỊ THÚY HẠNH 
 Trường Đại học Công nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh, 
 nguyenthithuyhanh@iuh.edu.vn 
  Kế toán quản trị môi trường (KTQTMT là một bộ phận của kế toán môi trường, có thể dùng để 
hỗ trợ các nhà quản trị đánh giá được sự tác động đến môi trường do các hoạt động của doanh nghiệp gây 
ra, đặc biệt là cung cấp các thông tin về môi trường để các nhà quản trị ra quyết định. Tuy nhiên tại Việt 
Nam, việc vận dụng KTQTMT bị tác động không chỉ bởi các nhân tố áp lực cưỡng ép như các quy định 
về tiêu chuẩn ô nhiễm môi trường của Chính phủ hay các quy định của VAMA(Hiệp hội các nhà sản xuất 
ô tô Việt Nam) mà còn bị tác động bởi các nhân tố về lợi ích của doanh nghiệp khi áp dụng KTQTMT 
cũng như rào cản khác. Nghiên cứu này chỉ ra trong các doanh nghiệp ô tô Việt Nam, khả năng vận dụng 
KTQTMT bị tác động bởi các nhân tố như sự thúc đẩy giảm giá sản phẩm, sự phản ứng với các vấn đề 
môi trường, sự tuân thủ pháp luật, quy định cũng như quy chuẩn trong môi trường sản xuất kinh doanh 
của doanh nghiệp. 
 ENVIRONMENTAL MANAGEMENT ACCOUNTING ON THE 
 AUTOMOBILE INDUSTRY IN VIETNAM 
  kế toán quản trị môi trường (KTQTMT), nhân tố tác động, công nghiệp ô tô Việt Nam 
Abstract. Environmental management accounting (EMA), as part of environmental accounting, may 
assist managements to assess environmental impacts of organizations’ activities, particularly by providing 
environmental information for making decision. However, in Vietnam, the implementation of EMA is 
affected not only by pressure (coercive and/or normative) factors such as Government pollution 
standards, membership of VAMA etc but also by benefit and barriers when implementing EMA. This 
study found that in Vietnamese automobile enterprises, the possibility of EMA implementation was 
driven by some elements such as a motivation to reduce product costs, reactions to environmental issues, 
compliance to legislation, procedures and processes in the working environment which they are in 
business. 
Keywords. environmental management accounting (EMA), impact factors, automobile industry. 
 1. ĐẶ Ấ ĐỀ 
Ngày nay, các vấn đề môi trường đã được quan tâm nghiêm túc trên toàn thế giới, khi ngày càng có nhiều 
mối đe dọa môi trường nghiêm trọng đối với tương lai của nhân loại. Chúng bao gồm, nhưng không giới 
hạn, không chỉ các thảm họa tự nhiên mà cả các thảm họa do con người gây ra do sự tiêu thụ quá mức các 
loại tài nguyên không tái tạo, ô nhiễm không khí toàn cầu (Jones, 2010). Một trong những chỉ báo về vấn 
đề này là ngày Trái đất vượt hạn – ngày mà nhân loại đã sử dụng hết lượng tài nguyên mà trái đất có thể 
đáp ứng trong một năm – càng năm càng đến sớm hơn kể từ khi được lập ra từ 1986. Khí thải các bon nic 
và khí thải nhà kính từ các tập đoàn lớn luôn đóng vai trò là một trong các nguyên nhân chính dẫn đến 
hiện tượng này (Worland, 2015; Quian, 2017). Sự ô nhiễm không khí có thể làm ảnh hưởng sức khỏe con 
người và sự phát triển của thực vật cũng như động vật, bắt nguồn từ khí thải từ các nguồn công nghiệp, 
phát điện và nhiệt, xử lý chất thải và vận hành động cơ đốt trong. Theo nghiên cứu thì việc đốt cháy nhiên 
liệu gây ra bởi sự tiêu thụ của con người, là một trong những nguyên nhân lớn nhất gây ra khí thải ô 
nhiễm không khí, với nguồn gốc từ ngành công nghiệp ô tô (Sharma & Sharma, 2014). Để đo lường sự 
 © 2020 Trường Đại học Công nghiệp thành phố Hồ Chí Minh 
 148 K TON QUẢN TRỊ MI TRNG 
 TRONG NGNH CNG NGHIỆP  T  VIỆT NAM 
tác động đến môi trường, bao gồm cả lượng khí thải các bon nic, KTQTMT ngày càng nhận được nhiều 
sự quan tâm và khá nhiều công cụ của nó được vận dụng trong thực tiễn như quản lý chi phí dòng nguyên 
liệu, thẻ điểm phát triển bền vững ... nhằm để giảm thiểu tác động xấu đến môi trường từ phía các DN 
(Christ và Burritt, 2015; Hansen và Schaltegger, 2016). Kế toán quản trị môi trường, như một phần của kế 
toán môi trường, có thể hỗ trợ các nhà quản trị giải quyết các tác động đến môi trường của các tổ chức khi 
hoạt động, thông qua việc cung cấp các thông tin môi trường liên quan để ra quyết định. Nhiều nghiên 
cứu gần đây về KTQTMT từ các quan điểm khác nhau phản ánh tầm quan trọng của kế toán khi theo đuổi 
các chiến lược quản trị môi trường (Schaltegger và cộng sự, 2012). Có nhiều nghiên cứu về các hệ thống 
và sáng kiến quản trị môi trường đã được thực hiện ở các nền kinh tế phát triển (Hsiao và cộng sự, 2014). 
Tuy nhiên, nghiên cứu của KTQTMT ở các nước đang phát triển rất ít ỏi, và theo các nghiên cứu của 
Xiaomei (2004), Dayana (2010) ở Trung Quốc và Malaysia cho thấy phần lớn các doanh nghiệp ở các 
nước đang phát triển vẫn thua xa các nước tiên tiến về sự hiểu biết và áp dụng các kỹ thuật cũng như 
phương pháp vận dụng KTQTMT. Bên cạnh đó, mặc dù đã có nhiều nghiên cứu tập trung vào các ngành 
công nghiệp gây ô nhiễm và sử dụng nhiều năng lượng như ngành công nghiệp ô tô, như các nghiên cứu 
về tầm quan trọng và lợi ích khi vận dụng KTQTMT (Jamil và cộng sự, 2015), tuy nhiên trong thực tế 
mức độ vận dụng KTQTMT vẫn còn yếu ở đa số các công ty trên thế giới, đặc biệt là ở các nước đang 
phát triển, và Việt Nam cũng không ngoại lệ. Tuy nhiên, trong nền kinh tế đang phát triển như Việt Nam, 
khi áp dụng KTQTMT không chỉ bị ảnh hưởng bởi các yếu tố bên trong như nguồn nhân lực, sự tuân thủ 
pháp luật của doanh nghiệp mà còn bởi các yếu tố bên ngoài như yếu tố thị trường, khách hàng v.v. Khi 
tham gia hiệp định CPTPP sẽ có hiệu lực từ ngày 30 tháng 12 năm 2018, ngành công nghiệp ô tô Việt 
Nam phải đối mặt với những thách thức từ các đối thủ mạnh ở Canada, Nhật Bản Trong khi đó theo 
chiến lược phát triển ngành công nghiệp ô tô Việt Nam đến năm 2025, với tầm nhìn đến năm 2035, ngành 
công nghiệp ô tô Việt Nam phải đảm bảo tổng thể xã hội hiệu quả kinh tế cũng như y ... hình 
nghiên cứu hiện tại do giới hạn về phạm vi, thời gian và loại hình doanh nghiệp được khảo sát đã nêu ra ở 
phần mở đầu. Qua kết quả hồi qui chứng tỏ vai trò của các yếu tố trong việc tác động đến khả năng vận 
dụng KTQTMT trong DN ô tô Việt Nam được phân định thứ bậc rõ rệt. Vì thế, giải pháp nhằm tăng 
cường khả năng vận dụng KTQTMT trong DN ô tô Việt Nam phải dựa vào kết quả kiểm định các nhân tố 
ảnh hưởng nhưng cần được điều chỉnh qua thời gian khi giá trị vị thế của các nhân tố trên có sự thay đổi 
theo thời gian, không gian và điều kiện kinh tế, chính trị. 
 42 o un về  qu ngên cứu 
Kết quả của nghiên cứu này chỉ ra rằng các yếu tố như lợi ích, áp lực mô phỏng và áp lực cưỡng chế có 
ảnh hưởng đáng kể đến khả năng vận dụng KTQTMT trong DN ô tô Việt Nam. Doanh nghiệp ngày càng 
nhận thức rõ các lợi ích gia tăng như cải thiện giá thành sản phẩm, gia tăng vị thế, hình ảnh, uy tín của 
DN trên thị trường dẫn đến tăng lợi thế cạnh tranh v.v ... khi vận dụng KTQTMT, và điều này càng kích 
thích họ triển khai. Kết quả của nghiên cứu này cũng phù hợp với một số nghiên cứu trước đây trên thế 
giới như: Bennett và cộng sự (2003); Lee (2011); Jamil và cộng sự (2015) cũng như trong nước như: 
Nguyễn Thị Nga (2016); Nguyễn Thị Hằng Nga (2018). Bên cạnh đó, việc sao chép hoặc mô phỏng làm 
theo các tổ chức khác trong xã hội khá phổ biến khi một hiện tượng, một thực tế, một tiêu chuẩn đã được 
xã hội công nhận (DiMaggio và Powell, 1983). Với sự non trẻ của ngành ô tô Việt Nam, xu hướng các 
DN ô tô Việt Nam mô phỏng, học hỏi theo các tập đoàn đa quốc gia hùng mạnh trong ngành ô tô trên thế 
giới là xu hướng tất yếu, kết quả nghiên cứu này tương thích với các kết quả nghiên cứu trong và ngoài 
nước trước đó của Qian và cộng sự (2011); Phạm Thị Bích Chi và cộng sự (2016); Nguyễn Thị Hằng Nga 
(2018). Ngoài ra, các yếu tố cưỡng ép cũng có ảnh hưởng đến thực tiễn vận dụng KTQTMT. Do tuân thủ 
nghiêm ngặt luật pháp môi trường, các quy tắc, dường như gần đây các doanh nghiệp ô tô Việt Nam cân 
nhắc thực hành KTQTMT ngày càng nhiều. Kết quả này phù hợp với các nghiên cứu trước đó nhấn mạnh 
rằng tác động của các tổ chức xã hội, kinh tế và chính trị đối với hành vi của một tổ chức liên quan đến 
việc thay đổi và áp dụng các thông lệ mới. Dưới áp lực cưỡng chế của chính phủ và các tổ chức môi 
trường có thể buộc các tổ chức thực hiện thay đổi hành vi và áp dụng các thuộc tính nhất định để đạt được 
tính hợp pháp cho hoạt động của họ. Đối với việc vận dụng KTQTMT, áp lực cưỡng chế có thể dẫn đến 
việc áp dụng các kỹ thuật mới do phải tuân thủ các quy định về môi trường. Nếu không có áp lực từ chính 
phủ (thiết lập các hướng dẫn ràng buộc các tổ chức với các quy trình và thông lệ kế toán liên quan đến 
quản lý môi trường), các tổ chức sẽ ít chấp nhận vận dụng KTQTMT (DiMaggio và Powell, 1983, Chang, 
2007). Do đó, việc gia tăng áp lực cưỡng chế của chính phủ sẽ là một cách tốt để tác động mạnh mẽ đến ý 
định và sự sẵn lòng của các doanh nghiệp ô tô Việt Nam trong việc thực hiện KTQTMT. 
 5. KẾT LUẬN VÀ CÁC GII PHÁP GỢI Ý 
Để tham gia vào chuỗi cung ứng toàn cầu, các DN trong ngành công nghiệp ô tô Việt Nam bên cạnh việc 
cần phải liên tục cải thiện hiệu quả hoạt động sản xuất thì còn phải bắt kịp xu hướng tiết kiệm năng 
lượng, sản xuất sạch và xanh trên toàn thế giới. Do đó, cần có một giải pháp đồng bộ để khuyến khích và 
 © 2019 Trường Đại học Công nghiệp thành phố Hồ Chí Minh 
 K TON QUẢN TRỊ MI TRNG 157 
 TRONG NGNH CNG NGHIỆP  T  VIỆT NAM 
hỗ trợ các DN ô tô tại Việt Nam trong việc áp dụng các kỹ thuật quản trị mới, trong đó có việc vận dụng 
KTQTMT. 
Đối với các trường đại học Việt Nam và các hiệp hội nghề nghiệp với xu hướng ngày càng quan tâm 
nhiều đến vấn đề hội nhập quốc tế thì việc đổi mới nội dung, phương pháp giảng dạy là điều tất yếu. Và 
một trong những nội dung giảng dạy cần tăng cường là các môn học về KTQT nói chung cũng như 
KTQTMT nói riêng nhằm giúp các sinh viên làm quen với việc vận dụng các kỹ thuật KTQTMT sau này. 
Bên cạnh việc học lý thuyết, các trường đại học Việt Nam cũng cần mạnh dạn kết hợp, hợp tác với các 
doanh nghiệp Việt Nam hoặc quốc tế đã và đang vận dụng KTQTMT để đưa sinh viên xuống tận nơi 
tham quan, thực tập cũng như chào hàng các gói dịch vụ tư vấn các tình huống quản trị phát sinh trong 
thực tiễn kinh doanh, nhằm giúp tạo ra nhiều tình huống và mô hình kinh doanh cho sinh viên có tư liệu 
học tập phong phú. 
Đối với các cơ quan ban ngành Chính phủ Việt Nam, đặc biệt là Bộ Tài nguyên và Môi trường, cần đóng 
một vai trò chủ động trong việc thúc đẩy vận dụng KTQTMT thông qua việc ban hành các hướng dẫn và 
đào tạo phù hợp, đồng thời ban hành các chính sách, quy định nhằm kiểm soát chặt chẽ việc tuân thủ các 
quy chuẩn về môi trường sản xuất. Ngoài ra, ở một mức độ nào đó, cơ quan thuế nên đưa ra các ưu đãi về 
thuế để kích thích sự quan tâm của các doanh nghiệp ô tô Việt Nam khi thực hiện KTQTMT vì phát hiện 
này cho thấy các lợi ích về ưu đãi tài chính cũng là động lực quan trọng khuyến khích vận dụng 
KTQTMT. Bên cạnh đó, các cơ quan chuyên môn kế toán cũng nên tham gia vào việc thúc đẩy vận dụng 
KTQTMT bằng cách cung cấp một khuôn khổ tốt hơn cho các hoạt động của KTQTMT. 
Tóm lại, trong bối cảnh ở Việt Nam nói chung và các DN ô tô Việt Nam nói riêng, việc theo đuổi việc 
tích hợp các vấn đề môi trường vào các hệ thống và thực tiễn kế toán hiện tại đòi hỏi phải có cơ chế học 
tập của tổ chức, ý thức trách nhiệm của DN lớn hơn và hướng dẫn, hỗ trợ đúng đắn về KTQTMT của các 
bên liên quan. 
 TAÌ LIỆU THAM KHAỎ 
 [1] Bennett, M., Rikhardsson, P., & Schaltegger, S., Adopting environmental management accounting: EMA as a 
 value-adding activity. In Tukker, A. (Ed.), Environmental Management Accounting – Purpose and progress, vol. 12, 
 Kluwer Academic Publishers, Dordrecht, pp.1-14, 2003. 
 [2] Burritt, R.L., Schaltegger, S., Kokubu, K., & Wagner, M., Environmental management accounting for staff 
 appraisal: Evidence from Australia, Germany and Japan, Environmental Management Accounting – Purpose and 
 progress, pp.151-188, 2003. 
 [3] Chan, E.S.W. and Hawkins, R, Attitude towards EMSs in an international hotel: An exploratory case study, 
 International Journal of Hospitality Management, vol. 29, pp. 641 – 651, 2010. 
 [4] Chang, H-C, Environmental Management Accounting Within Universities: Current State and Future Potential, 
 Unpublished PhD Thesis, RMIT University, 2007 
 [5] Chenhall, R.H, Management control systems design within its organizational context: findings from 
 contingency-based research and directions for the future. Accounting, Organizations and Society, vol. 28, pp. 127-
 168, 2003 
 [6] Christ, K.L., & Burritt, R.L., Environmental management accounting: the significance of contingent variables for 
 adoption, Journal of Cleaner Production, vol. 41, pp.163-173, 2013. 
 [7] Dayana Jalaludin Maliah Sulaiman Nik Nazli Nik Ahmad, Understanding environmental management 
 accounting (EMA) adoption: a new institutional sociology perspective, Social Responsibility Journal, vol. 7, no. 4, 
 pp. 540 – 557, 2011. 
 © 2019 Trường Đại học Công nghiệp thành phố Hồ Chí Minh 
158 K TON QUẢN TRỊ MI TRNG 
 TRONG NGNH CNG NGHIỆP  T  VIỆT NAM 
[8] Dayana, J, Environmental management accounting: A study of manufacturing companies in Malaysia, 
Unpublished PhD thesis, International Islamic University Malaysia, Kuala Lumpur, 2010 
[9] De Beer, P., & Friend, F. , Environmental accounting: A management tool for enhancing corporate 
environmental and economic performance, Ecological Economics, vol. 58, no. 3, pp. 548-560, 2006. 
[10] DiMaggio, P. & Powell, W., The Iron Cage Revisited: Institutional Isomorphism and Collective Rationality in 
Organizational Fields, American Sociological Review, vol. 48, no. 2, pp. 147-160, 1983. 
[11 Đinh Phi Hổ, Phương pháp nghiên cứu định lượng và những nghiên cứu thực tiễn trong kinh tế phát triển – 
Nông nghiệp, NXB Phương Đông, 2011. 
[12] Gale, R., Environmental costs at a Canadian paper mill: A case study of Environmental Management 
Accounting (EMA), Journal of Cleaner Production, vol. 14, no. 14, pp. 1237-1251, 2006. 
[13] Gerdin, J. and Greve, J., Forms of contingency fit in management accounting research - a critical review, 
Accounting, Organizations and Society, vol. 29, pp. 303-326, 2004. 
[14] Gordon, L.A. and Miller, D.. A contingency framework for the design of accounting information systems. 
Accounting, Organizations and Society, vol. 330, pp. 59-69, 1976. 
[15] Hayes, D.C. , The contingency theory of managerial accounting. Accounting Review, vol. 52, no. 1, pp. 22-39, 
1977. 
[16] Hsiao, T.Y., Chuang, C.M, Kuoc, N.W. and Yu, S.M.F., Establishing attributes of an environmental 
management system for green hotel evaluation, International Journal of Hospitality Management, vol. 36, pp. 197 – 
208, 2014. 
[17] IFAC , International Guidance Document: EMA, International Federation of Accountants, New York, 2005. 
[18] Jamil, C. Z. M., Mohamed, R., Muhammad, F., & Ali, A., Environmental management accounting practices in 
small medium manufacturing firms, Procedia-Social and Behavioral Sciences, vol. 172, pp. 619-626, 2015. 
[19 Janković, S. and Krivačić, D., Environmental accounting as perspective for hotel sustainability: Literature 
review, Tourism and Hospitality Management, vol. 20, no.1, pp.103 – 120, 2014. 
[20] Jasch, C.. The use of Environmental Management Accounting (EMA) for identifying environmental costs, 
Journal of Cleaner Production, vol. 11, no. 6, pp. 667-676, 2003. 
[21] Jones, M.J. , Accounting for the environment: towards a theoretical perspective for environmental accounting 
and reporting, Accounting Forum, vol. 34, pp. 123 – 138, 2010. 
[22] Kang, K.H., Stein, L., Heo, C.Y. and Lee, S. , Consumers’ willingness to pay for green initiatives of the hotel 
industry, International Journal of Hospitality Management, vol. 31, pp. 564 – 572, 2012. 
[23] Koushal V, Sharma R, Sharma M, Sharma R, Sharma V, Plastics: Issues Challenges and Remediation, 
International Journal of Waste Resources, 2014. 
[24] Lee, K.H., Motivations, barriers, and incentives for adopting environmental management (cost) accounting and 
related guidelines: A study of the republic of Korea, Corporate Social Responsibility and Environmental 
Management, vol. 18, pp. 39-49, 2011. 
[25] Masanet-Llodra, M.J.. Environmental Management Accounting: A case study research on innovative strategy, 
Journal of Business Ethics, vol. 68, pp.393 – 408, 2006. 
© 2019 Trường Đại học Công nghiệp thành phố Hồ Chí Minh 
 K TON QUẢN TRỊ MI TRNG 159 
 TRONG NGNH CNG NGHIỆP  T  VIỆT NAM 
[26] Mensah, I.. Stakeholder pressure and hotel environmental performance in Accra, Ghana. Management of 
Environmental Quality: An International Journal, vol. 25, no. 2, pp. 227 – 243, 2014. 
[27 Nguyễn Thị Hằng Nga, p lực thể chế với việc thực hiện kế toán quản trị môi trường tại các doanh nghiệp sản 
xuất ở Việt Nam, Tạp chí Kinh tế và phát triển, số 250, tr 129 – 138, 2018. 
[28] Nguyễn Thị Nga, Xây dựng mô hình nghiên cứu các nhân tổ ảnh hƣởng đến khả năng áp dụng kế toán quản trị 
chi phí môi trường trong các DNSX thép Việt Nam, Tạp chí Kế toán và Kiểm toán, số 8, tr. 34-37, 2016 
[29] Nicolaou, A.1., A contingency model of perceived effectiveness in accounting information systems: 
Organizational coordination and control effects, Organizations and Society, vol. 10, no. 3, pp. 303-328, 2000. 
[30] Otley, D.T. ,The contingency theory of management accounting: achievement and prognosis, Accounting, 
Organizations and Society, vol. 5, no. 4, pp. 413-428, 1980. 
[31 Phạm Thị Bích Chi, Lê Thị Tâm và Trần Anh Ngọc, ECMA tại Việt Nam – Nghiên cứu trường hợp DNSX 
gạch, Tạp chí kinh tế và phát triển, số 230, tr 72-79, 2016. 
[32] Phan, T.N. and Baird, K., The comprehensiveness of environmental management systems: The influence of 
institutional pressures and the impact on environmental performance, Journal of Environmental Management, vol. 
160, pp. 45 – 56, 2015. 
[33] Qian, W., Burritt, R., & Monroe, G., Environmental management accounting in local government: A case of 
waste management, Accounting, Auditing & Accountability Journal, vol. 24, no. 1, pp. 93-128, 2011. 
[34] Qian, W., Burritt, R. and Chen, J., The potential for environmental management accounting development in 
China, Journal of Accounting and Organizational Change, vol. 11, no. 3, pp. 406 – 428, 2015. 
[35 Setthasakko, W., “Barriers to the development of environmental management accounting- An exploratory study 
of pulp and paper companies in Thailand”, Euro Med Journal of Business, vol. 5, no. 3, pp. 315-331, 2010. 
[36] Schaltegger, S., Viere, T. and Zvezdov, D., Tapping environmental accounting potentials of beer brewing: 
Information needs for successful cleaner production, Journal of Cleaner Production, pp. 29-30, 2012. 
[37] UNDSD (United Nations Department of Sustainable Development), Environmental Management Accounting 
Procedures and Principles, United Nations, New York, 2001. 
[38] Vasile, E. and Man, M., Current dimension of environmental management accounting, Procedia – Social and 
Behavioural Sciences, vol. 62, pp. 566 – 570, 2012. 
[39] Veblen, T., The theory of the leisure class, Routledge Publications, 2017. 
[40] Waterhouse, J. and Tiessen, P., A Contingency Framework for Management Accounting Systems Research, 
Accounting, Organizations and Society, vol. 3, no. 1, pp. 65-76, 1978. 
[41] Xiaomei, L., Theory and practice of environmental management accounting: Experience of implementation in 
China. International Journal of Technology Management and Sustainable Development, vol. 3, no. 1, 47-57, 2004. 
 gày nhận bài 11/11/2019 
 gày chấp nhận đăng 25/02/2020 
 © 2019 Trường Đại học Công nghiệp thành phố Hồ Chí Minh 

File đính kèm:

  • pdfke_toan_quan_tri_moi_truong_trong_nganh_cong_nghiep_o_to_o_v.pdf