Diễn ngôn độc thoại trong truyện ngắn hiện thực ở miền bắc Việt Nam 1932 - 1945
Bài viết tìm hiểu diễn ngôn độc thoại trong truyện ngắn hiện thực của các tác giả tiêu biểu ở miền
Bắc Việt Nam 1932-1945 để cho thấy sự nỗ lực sáng tạo không ngừng trên hành trình đổi mới tư duy
nghệ thuật theo hướng hiện đại của các nhà văn. Hình thức diễn ngôn độc thoại của nhân vật trong
truyện ngắn giai đoạn này được thể hiện dưới ba dạng thức: độc thoại nội tâm ở dạng thông thường;
độc thoại mang tính chất đối thoại và độc thoại ở dạng nửa trực tiếp. Chúng tôi đi đến khẳng định sự
chuyển dịch trong nghệ thuật xây dựng diễn ngôn qua mỗi chặng vận động của truyện ngắn hiện thực
Việt Nam 1932-1945 thông qua tác phẩm của các nhà văn tiêu biểu như Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng
Phụng, Tô Hoài, Nguyên Hồng, Nam Cao
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Tóm tắt nội dung tài liệu: Diễn ngôn độc thoại trong truyện ngắn hiện thực ở miền bắc Việt Nam 1932 - 1945
48 TRÖÔØNG ÑAÏI HOÏC ÑOÀNG THAÙP Taïp chí Khoa hoïc soá 35 (12-2018) DIỄN NGÔN ĐỘC THOẠI TRONG TRUYỆN NGẮN HIỆN THỰC Ở MIỀN BẮC VIỆT NAM 1932-1945 y Phạm Thị Lương(*) Tóm tắt Bài viết tìm hiểu diễn ngôn độc thoại trong truyện ngắn hiện thực của các tác giả tiêu biểu ở miền Bắc Việt Nam 1932-1945 để cho thấy sự nỗ lực sáng tạo không ngừng trên hành trình đổi mới tư duy nghệ thuật theo hướng hiện đại của các nhà văn. Hình thức diễn ngôn độc thoại của nhân vật trong truyện ngắn giai đoạn này được thể hiện dưới ba dạng thức: độc thoại nội tâm ở dạng thông thường; độc thoại mang tính chất đối thoại và độc thoại ở dạng nửa trực tiếp. Chúng tôi đi đến khẳng định sự chuyển dịch trong nghệ thuật xây dựng diễn ngôn qua mỗi chặng vận động của truyện ngắn hiện thực Việt Nam 1932-1945 thông qua tác phẩm của các nhà văn tiêu biểu như Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng, Tô Hoài, Nguyên Hồng, Nam Cao. Từ khóa: Diễn ngôn, nhân vật, truyện ngắn hiện thực, độc thoại bên trong, tình huống. 1. Đặt vấn đề Truyện ngắn hiện thực 1932-1945 đã khẳng định một vị thế chắc chắn trong dòng chảy của nền văn học Việt Nam đầu thể kỷ XX. Có được thành tựu đó là do sự nỗ lực sáng tạo không ngừng của các nhà văn trên hành trình đổi mới tư duy nghệ thuật so với văn xuôi truyền thống. Sự nỗ lực này thể hiện trên tất cả các phương diện từ nội dung phản ánh đến hình thức thể hiện. Giai đoạn có sự xuất hiện của những cây bút tiêu biểu như: Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng, Nguyên Hồng, Tô Hoài, Bùi Hiển, Kim Lân, Nam Cao, Phi Vân, Trần Quang Nghiệp, Sơn Đông,... Họ đã làm nên diện mạo mới của nền văn học Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX. Mảng truyện ngắn giai đoạn này xuất hiện rất nhiều tác phẩm giá trị khẳng định sự đổi mới, cách tân trong nghệ thuật kể chuyện. Hiện thực nhức nhối của xã hội được thể hiện đậm nét và chân thực hơn bao giờ hết. Tìm hiểu vấn đề diễn ngôn có nghĩa là đang tìm hiểu về sự thể hiện bản chất lời nói của người kể chuyện, của nhân vật. Mỗi tác phẩm là sự kết hợp của nhiều thành phần diễn ngôn như diễn ngôn người kể chuyện, diễn ngôn của nhân vật, tạo nên sự linh hoạt, đa dạng trong hình thức kể chuyện. Giai đoạn này các nhà văn đã cho thấy nhiều cách tân trong vấn đề diễn ngôn, khẳng định sự sáng tạo trong quá trình đổi mới tư duy nghệ thuật theo hướng hiện đại. Từ diễn ngôn người kể chuyện đến diễn ngôn đối thoại, diễn ngôn độc thoại của nhân vật đều có sự đổi mới so với trước đây. 2. Vai trò của diễn ngôn độc thoại trong tác phẩm tự sự Diễn ngôn từ góc nhìn ngôn ngữ học có khá nhiều quan niệm khác nhau. Một trong những quan niệm nhận được sự đồng thuận của nhiều nhà nghiên cứu đó là quan niệm của Irena Bellert. Tác giả cho rằng: “Diễn ngôn là chuỗi liên tục những phát ngôn S1..., Sn, trong đó việc lý giải nghĩa của mỗi phát ngôn S1 (với 2 ≤ i ≤ n) lệ thuộc vào sự lý giải những phát ngôn trong chuỗi S1 Si-1. Nói cách khác, sự giải thuyết tương đương một phát ngôn tham gia diễn ngôn đòi hỏi phải biết ngữ cảnh đi trước” [2, tr. 199]. Nhà ngôn ngữ học Guy Cook xem diễn ngôn như là: “các chuỗi ngôn ngữ được cảm nhận như có ý nghĩa, thống nhất và có mục đích” [4, tr. 31]. Thông thường một tác phẩm tự sự có nhiều lớp diễn ngôn kết hợp với nhau tạo nên sự linh hoạt, đa dạng trong hình thức thể hiện. Có hai lớp diễn ngôn chính trong một tác phẩm tự sự đó là diễn ngôn người kể chuyện và diễn ngôn của nhân vật. Mỗi lớp diễn ngôn này lại được cấu thành từ nhiều thành phần diễn ngôn khác nhau. Diễn ngôn của nhân vật trong truyện hay tiểu thuyết thường được tìm hiểu ở hai dạng thức cơ bản đó là diễn ngôn đối thoại trực tiếp giữa các nhân vật và diễn ngôn độc thoại của nhân vật khi tự nói với chính mình. Mỗi loại diễn ngôn của nhân vật có chức năng và giá trị nghệ thuật riêng trong cấu trúc diễn ngôn để thể hiện phẩm chất, tính cách, hành động cũng (*) Trường Đại học Bạc Liêu. 49 TRÖÔØNG ÑAÏI HOÏC ÑOÀNG THAÙP Taïp chí Khoa hoïc soá 35 (12-2018) như tâm trạng của họ. Cùng với diễn ngôn người kể chuyện, diễn ngôn của nhân vật góp phần tạo nên chỉnh thể nghệ thuật hoàn chỉnh từ cấp độ nội dung đến cấp độ hình thức. Về thuật ngữ “độc thoại”, các nhà ngôn ngữ học quan niệm là “Biểu hiện lời nói trước hết vào bản thân mình, không tính trước đến phản ứng bằng lời của người đối thoại. So với đối thoại thì cơ cấu cú pháp của độc thoại phức tạp hơn, nội dung chủ đề được thể hiện cũng rộng hơn” [3, tr. 187]. Rõ ràng, giữa lời đối thoại và lời độc thoại có những biểu hiện khác biệt cơ bản. Mỗi dạng lời đều có nhiệm vụ và chức năng riêng góp phần tạo nên phương thức tự sự. Diễn ngôn độc thoại là một thành phần quan trọng tạo nên tiếng nói của nhân vật. Tuy nhiên, trong văn học không phải bao giờ xây dựng nhân vật nhà văn cũng chú ý đến lớp diễn ngôn này. Việc kiến tạo mỗi lớp diễn ngôn tùy thuộc rất nhiều vào ý đồ, vào dụng ý nghệ thuật của nhà văn. Lớp diễn ngôn độc thoại thường chiếm tỉ lệ thấp hơn so với các lớp diễn ngôn khác trong một tác phẩm tự sự. Đây là hình thức diễn ngôn mà ở đó nhân vật tự nói với chính mình, tự nhủ, nói thầm hoặc bộc bạch những dòng suy nghĩ cá nhân. Đôi khi độc thoại cũng có thể được thể hiện dưới hình thức của người kể chuyện nhưng phải mang ý thức và tâm trạng nhân vật, giọng điệu của nhân vật. Độc thoại nội tâm là một trong những hình thức diễn ngôn giúp nhà văn khám phá những xung đột bên trong tính cách nhân vật. Nhiều nhà văn hiện thực đã tận dụng thế mạnh của kiểu diễn ngôn này để khám phá nhiều góc khuất, lí giải bi kịch đời tư của nhân vật. Trong hình thức độc thoại nội tâm, nhân vật tự suy nghĩ, tự nói với chính mình nên có thể tự do thể hiện bất cứ khi nào nhân vật có nhu cầu bật ra tiếng nói của mình và không bị xen ngang hay ngắt quãng bởi lời của người khác. Khi tìm hiểu về nhân vật, hình thức độc thoại cũng là một “kênh” để người đọc khám phá dòng suy nghĩ bên trong, khá ... vật. Các diễn ngôn độc thoại dưới dạng nửa trực tiếp trong truyện ngắn của Nguyễn Công Hoan và Tô Hoài thường ngắn, đôi khi chỉ là một câu văn xen kẽ trong diễn ngôn kể, miêu tả của người kể chuyện. Đối với Nguyễn Công Hoan, hình thức diễn ngôn độc thoại dưới dạng nửa trực tiếp phần lớn để làm rõ những băn khoăn, suy nghĩ về một sự việc nào đó. Đôi khi hình thức diễn ngôn độc thoại dưới dạng nửa trực tiếp xuất hiện đan xen trong diễn ngôn người kể chuyện chỉ đơn thuần thể hiện một sự ngạc nhiên, hay một nhận định nào đó. Số phân đoạn đan xen chứa đựng sự bộc lộ chiều sâu tâm trạng, tính cách nhân vật tuy không nhiều nhưng cũng luôn tạo được ấn tượng với người đọc, chẳng hạn: “Suốt từ sáng, nó chỉ được có sáu đồng trinh và một bát cơm nguội. Bát cơm ấy, chưa đủ sức đền vào chỗ nhịn chiều hôm qua. Nhưng thôi, làm quái gì cái vặt! Ăn không ra bữa quen từ thủa bé. Nó chỉ thấy đói. Chứ không thấy cồn cào. Nó ngồi sán vào cô bán bánh đúc. Nó chìa tay ra xin một miếng. Cô hàng khư khư lấy mẹt vào lòng, 54 TRÖÔØNG ÑAÏI HOÏC ÑOÀNG THAÙP Taïp chí Khoa hoïc soá 35 (12-2018) xua lấy xua để” [5, tr.130]. Trong phân đoạn trên, chủ yếu là thành phần diễn ngôn người kể chuyện, diễn ngôn độc thoại của nhân vật dưới dạng nửa trực tiếp chỉ xuất hiện trong một câu văn (Nhưng thôi, làm quái gì cái vặt!) thể hiện thái độ bất cần hay đúng hơn là “tự dối mình” của “thằng ăn cắp”. Phân đoạn diễn ngôn dưới đây là một dạng đan xen linh hoạt giữa diễn ngôn người kể chuyện và diễn ngôn độc thoại dưới dạng nửa trực tiếp của nhân vật: “Người ta mắng nó (1). Người ta không cho nó (2). Vì bộ mã của nó làm hại nó (3). Người ta chỉ trông thấy nó là ăn mày, mà bề ngoài không đui, què, mẻ, sứt chứ người ta biết đâu là nó không thể làm gì được (4). Nó cũng là người, nó biết đi xin thế này là nhục (5). Nhưng làm thế nào được?(6) Khốn nạn! Nào nó có lười biếng gì cho cam?(7) Nó có máu động kinh, lắm lúc đang yên lành tử tế, thì lăn đùng ra đất, mắt trợn lên, bọt mép sùi ngầu (8)” (Cái vốn để sinh nhai). Các diễn ngôn (1), (2), (3), (4), (5), (8) là diễn ngôn trần thuật và miêu tả của người kể chuyện, diễn ngôn (6), (7) chính là diễn ngôn độc thoại dưới dạng nửa trực tiếp của nhân vật. Nếu như các diễn ngôn người kể chuyện làm rõ hoàn cảnh đáng thương của nhân vật, thì diễn ngôn nửa trực tiếp của chính nhân vật lại cho người đọc cái nhìn toàn diện về nhân vật này. Anh ta hiểu rõ hoàn cảnh và con người của mình hơn ai hết. Một số truyện của Bùi Hiển viết về người dân chài (Nằm vạ, Chiều sương, Một trận bão cuối năm), hình thức diễn ngôn độc thoại ở dạng nửa trực tiếp của nhân vật không nhiều. Ngôn ngữ trong truyện ngắn của Bùi Hiển chủ yếu làm nổi bật nên sự chân chất, mộc mạc thật thà của người dân xứ biển. Hình thức diễn ngôn độc thoại dưới dạng nửa trực tiếp ở truyện ngắn của Tô Hoài đem lại sự độc đáo, sinh động trong lời văn. Hình thức diễn ngôn này xuất hiện khá nhiều và nằm rải rác trong khắp truyện ngắn, đôi khi chỉ là một vài câu xen ngang bình luận, đánh giá, hay biểu lộ tâm trạng của nhân vật. Truyện ngắn của Nguyên Hồng phần nhiều là những truyện ngắn có kết cấu tâm lý được kể bởi người kể chuyện ngôi thứ ba toàn tri nên hình thức diễn ngôn độc thoại nội tâm dưới dạng nửa trực tiếp có nhiều nét đặc biệt. Khác với diễn ngôn độc thoại nội tâm trong truyện của Nguyễn Công Hoan, Tô Hoài, diễn ngôn độc thoại nội tâm trong truyện ngắn Nguyên Hồng có dung lượng tương đối dài. Nhiều phân đoạn độc thoại như dòng chảy nội tâm của nhân vật, trong đó nhân vật thể hiện những suy nghĩ, trăn trở, tự vấn lương tâm. Ở truyện ngắn Miếng bánh, nhân vật Hưng được đặt vào tình huống tự nhận thức về giá trị của nhân cách trong miếng ăn và cái đói. Hưng được đặt trong sự giằng xé, day dứt, tự cảm thấy nhục nhã và hèn mạt khi giấu người vợ đảm đang, cực khổ ở nhà để lén lút ăn miếng bánh: “Hưng mê man thêm, lặng nhìn khía bánh. Hưng gai người tưởng đến nếu Hưng ăn chiếc bánh này, vợ y giờ đương lúi húi thổi cơm ở cái bếp chật chội khói mù trong cái xóm nhà lá lụp sụp kín mít người kia, đâu có biết? Nhưng không, mãi mãi mỗi khi nhớ tới miếng ăn này, Hưng sẽ bị một nhục nhã như chàm, như lửa táp vào mặt, Hưng sẽ đau đớn còn hơn bị xác thịt kìm cặp” (Miếng bánh). Có thể thấy, diễn ngôn độc thoại nội tâm dưới hình thức nửa trực tiếp đã được Nguyên Hồng kiến tạo với nhiều hình thức phong phú, bộc lộ những trạng thái tinh thần căng thẳng, xung đột nội tâm gay gắt, dữ dội. Nam Cao được xem là nhà văn xây dựng nhiều nhất lớp diễn ngôn độc thoại trong số các nhà văn hiện thực. Ở truyện ngắn của ông, các hình thức diễn ngôn có sự đan cài rất linh hoạt, sinh động. Có khi độc thoại nội tâm được thể hiện ở dạng thông thường như những lời dẫn thoại trực tiếp, có khi độc thoại nội tâm hòa phối với điểm nhìn, giọng điệu của người kể chuyện. Truyện ngắn của ông phần lớn có kết cấu và cốt truyện tâm lý, có nhiều truyện mạch tự sự phát triển nương theo dòng tâm lý của nhân vật. Hình thức diễn ngôn độc thoại dưới dạng nửa trực tiếp trong truyện ngắn Nam Cao được tổ chức khá độc đáo. Ông đã tận dụng triệt để chức năng biểu hiện của nó, nhằm bộc lộ những đánh giá, suy nghĩ, tư tưởng, dòng nội tâm của nhân vật, giúp người đọc dễ dàng khám phá nhân vật ở chiều sâu tâm trạng và tính cách. Có thể kể đến các truyện như: Chí Phèo; Cái mặt không chơi được; Giăng sáng; Mua nhà; Từ ngày mẹ chết; Điếu văn; Đời thừa; Cười; Nước mắt Diễn ngôn người kể chuyện và diễn ngôn của nhân vật trong truyện ngắn của Nam Cao thường có sự dịch chuyển qua lại rất linh hoạt, đôi khi hòa 55 TRÖÔØNG ÑAÏI HOÏC ÑOÀNG THAÙP Taïp chí Khoa hoïc soá 35 (12-2018) lẫn giọng điệu không dễ để phân biệt. Nhiều truyện ngắn của Nam Cao có sự kết hợp này ngôn ngữ trở nên linh hoạt, tự nhiên, không hề đơn giọng và hết sức chân thực. Mỗi một đề tài, hình thức đan xen diễn ngôn đều đem lại hiệu quả thẩm mĩ nghệ thuật nhất định. Ở Chí Phèo, mỗi nhân vật đều có những giây phút tự đối thoại với chính mình, tự bộc lộ những suy nghĩ, toan tính của mình. Sau khi rạch mặt ăn vạ, được Bá kiến xử mềm, Chí Phèo đã tự phân tích hành động, thái độ của Bá Kiến, một chút hoài nghi, một chút băn khoăn, do dự và một chút bất cần, liều lĩnh thể hiện trong đoạn độc thoại dưới đây của Chí Phèo: “Cái thằng Bá Kiến này, già đời đục khoét, còn đớn cái nước gì mà chịu lép như trấu thế? Thôi dại gì mà vào miệng cọp, hắn cứ đứng đây này, cứ lại lăn ra đây này, lại kêu toáng lên xem nàoThôi cứ vào! vào thì vào, cần quái gì. Muốn đập đầu thì vào ngay giữa nhà nó mà đập đầu còn hơn ở ngoài. Cùng lắm nó có giở quẻ, hắn cũng chỉ đến đi ở tù. Ở tù thì hắn coi là thường. Thôi cứ vào” (Chí Phèo) Cả một phân đoạn dài hoàn toàn là ngôn ngữ, giọng điệu của Chí Phèo. Người kể chuyện không can thiệp, mà tách hẳn mình ra để nhân vật tự bộc lộ tính cách, suy nghĩ nội tâm. Chức năng ngữ nghĩa này luôn được Nam Cao chú ý khi ông xây dựng các phân đoạn độc thoại nội tâm của nhân vật. Trong truyện Chí Phèo xuất hiện rất nhiều phân đoạn độc thoại nội tâm như vậy, từ nhân vật Bá Kiến, đến Thị Nở đều được Nam Cao chú ý xây dựng lớp diễn ngôn này để nhân vật tự bộc lộ bản chất, tính cách của họ. Mỗi một diễn ngôn nội tâm của nhân vật trong Chí Phèo đều có một mối ràng buộc, quan hệ thiết thân với các nhân vật khác, khiến các nhân vật vừa hiện lên trong sự tự bộc lộ, vừa hiện lên trong sự đánh giá của các nhân vật khác về mình. Đó là cái nhìn đa chiều về nhân vật mà Nam Cao đã tạo ra bằng việc sử dụng kiểu diễn ngôn hòa phối điểm nhìn và giọng điệu như vậy. Với việc khắc họa nhân vật qua hình thức diễn ngôn độc thoại dưới dạng nửa trực tiếp, Nam Cao đã tạo điều kiện cho nhân vật có cơ hội suy ngẫm, chiêm nghiệm và tự do bộc lộ suy nghĩ riêng tư của mình, nhân vật có điều kiện nhìn vào chính mình để nhận thức, đánh giá bản thân mình, điều chỉnh nhận thức, hành vi và thái độ của mình đối với hiện thực. Viết về đề tài người trí thức tiểu tư sản, Nam Cao thường làm nổi bật những bi kịch tinh thần của họ. Đó là bi kịch của những con người muốn cống hiến hết mình cho nghề nghiệp nhưng cứ phải canh cánh nỗi lo cơm áo gạo tiền. Bao nhiêu sự bức bối, ngột ngạt xâm lấn vào đời sống gia đình và họ cứ gồng mình lên để hi vọng thoát ra khỏi đó. Trong truyện ngắn của Nam Cao ông thường sử dụng kết hợp các hình thức diễn ngôn độc thoại nội tâm khác nhau, khi thì ở dạng thông thường, khi thì ở dạng đối thoại nội tâm, khi thì ở dạng nửa trực tiếp. Các hình thức diễn ngôn này đã được Nam Cao sử dụng đan cài, kết hợp với các dạng thức diễn ngôn tự sự khác để miêu tả và khắc họa tâm trạng, tính cách nhân vật một cách chân thực và sống động nhất. Rõ ràng hình thức diễn ngôn độc thoại dưới dạng nửa trực tiếp của nhân vật trong truyện ngắn hiện thực Việt Nam 1932-1945 đã có sự chuyển dịch rõ rệt. Ở truyện ngắn của các tác giả thời kỳ đầu như Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng tần số và dung lượng xuất hiện hình thức diễn ngôn này ít hơn so với truyện của một số tác giả thời kỳ sau như Nguyên Hồng, Nam Cao. Vì sao lại có sự chuyển dịch như vậy? Chúng tôi cho rằng càng về sau này các nhà văn càng chú ý nhiều hơn đến việc khắc họa nội tâm, tính cách nhân vật thông qua hình thức diễn ngôn độc thoại dưới dạng nửa trực tiếp. Họ đi sâu nhiều hơn vào hiện thực tâm trạng, vào góc độ đời tư, bi kịch cá nhân để hướng đến lí giải mọi hiện thực xã hội ở chiều sâu nhân bản, hơn là phản ánh hiện thực trực diện như các nhà văn thời kỳ đầu của giai đoạn này. Điều đó, càng minh chứng rõ nét cho sự nỗ lực sáng tạo cách tân về diễn ngôn trong truyện ngắn hiện thực. 4. Kết luận Truyện ngắn hiện thực Việt Nam 1932-1945 với sự đa dạng về cấu trúc và đan cài các lớp diễn ngôn phong phú, linh hoạt, đã góp phần tạo nên sắc thái giọng điệu đa dạng cho truyện kể. Sự đa dạng này khiến mọi vấn đề của hiện thực được tái hiện chân thực và sinh động. Các nhà văn hiện thực bên cạnh việc kiến tạo thành công các thành phần diễn ngôn của người kể chuyện (trần thuật, miêu tả, bình luận, triết lý), diễn ngôn của nhân vật, còn thể hiện được sự lồng ghép, đan xen kiểu hình thức diễn người kể chuyện và diễn ngôn đối 56 TRÖÔØNG ÑAÏI HOÏC ÑOÀNG THAÙP Taïp chí Khoa hoïc soá 35 (12-2018) thoại của nhân vật, đan xen, hòa phối diễn ngôn người kể chuyện với diễn ngôn độc thoại của nhân vật dưới dạng nửa trực tiếp, khẳng định một bước tiến của nghệ thuật tự sự trong truyện ngắn hiện thực giai đoạn này. Tìm hiểu sự vận động diễn ngôn trong truyện ngắn hiện thực Việt Nam 1932-1945, chúng tôi nhận thấy có sự dịch chuyển rõ rệt. So với diễn ngôn trong truyện của giai đoạn trước đó, diễn ngôn trong truyện ngắn hiện thực đã thể hiện rõ dấu ấn của sự sáng tạo, cách tân. Càng về sau các nhà văn càng chú ý nhiều hơn vào lớp diễn ngôn độc thoại. Nếu như thời kỳ đầu diễn ngôn đối thoại giữ vai trò chủ đạo thì ở các nhà văn ở thời kỳ sau lại chú ý nhiều hơn đến lớp diễn ngôn độc thoại. Trong bản thân cấu trúc diễn ngôn độc thoại cũng có sự dịch chuyển trong hình thức thể hiện. Diễn ngôn độc thoại ở dạng thông thường xuất hiện nhiều trong truyện ở thời kỳ đầu trong những truyện của Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng. Các tác giả này thường chú ý xây dựng những mâu thuẫn, va chạm giữa các nhân vật thông qua hình thức diễn ngôn đối thoại trực tiếp để làm bật nổi các vấn đề hiện thực nhức nhối trong đời sống, xã hội. Nhưng các nhà văn thời kỳ sau như: Nguyên Hồng, Nam Cao lại rất chú trọng đến dạng thức diễn ngôn độc thoại có tính chất đối thoại và diễn ngôn độc thoại ở dạng nửa trực tiếp. Chính thành phần diễn ngôn này đem lại giá trị và hiệu quả cao góp phần bộc lộ hiện thực thông qua chiều sâu suy nghĩ, cảm xúc của nhân vật. Ngôn ngữ trong diễn ngôn của nhân vật và diễn ngôn người kể chuyện chân thực, gần gũi với tính chất ngôn ngữ đời thường, thể hiện được đa dạng các chiều kích hiện thực phong phú, phức tạp. Một trong những sự chuyển dịch rõ rệt là việc tập trung xây dựng ngôn ngữ độc thoại nội tâm gắn với dòng ý thức, kết hợp đa dạng các hình thức diễn ngôn, giúp nhà văn xây dựng những hình tượng nhân vật sinh động trong tâm lý, phức tạp trong cảm xúc, đa diện trong tính cách./. Tài liệu tham khảo [1]. Lại Nguyên Ân, (2004), 150 thuật ngữ văn học, NXB Đại học Quốc gia, Hà Nội. [2]. Diệp Quang Ban (2012), Giao tiếp diễn ngôn và cấu tạo của văn bản, NXB Giáo dục, Hà Nội. [3]. Nguyễn Thiện Giáp (2010), 777 khái niệm ngôn ngữ học, NXB Đại học Quốc gia, Hà Nội. [4]. Nguyễn Hòa (2008), Phân tích diễn ngôn - Một số vấn đề lí luận và phương pháp, NXB Đại học Quốc gia, Hà Nội. [5]. I. P. Ilin và E. A. Tzurganova (chủ biên) (2003), Các khái niệm và thuật ngữ của các trường phái nghiên cứu văn học ở Tây Âu và Hoa Kỳ thế kỷ XX (Đào Tuấn Ảnh, Trần Hồng Vân, Lại Nguyên Ân dịch), NXB Đại học Quốc gia, Hà Nội. MONOLOGUE DISCOURSE IN REALISTIC SHORT STORIES FROM NORTHERN VIETNAM 1932-1945 Summary The article investigated monologue discourse in realistic short stories by Northern Vietnam writers typically during 1932-1945. As such, it showed their endless creative endeavor on innovating modernly artistic thoughts. The monologue discourse of the short story characters in this period take three forms: common inner monologue; monologue characteristic of dialogue and semi-direct monologue. Thereby, it affi rms shifts in their discourse art during the movement phases of Vietnam realistic short stories 1932-1945 found in the works by such prominent writers as Nguyen Cong Hoan, Vu Trong Phung, To Hoai, Nguyen Hong, and Nam Cao. Keywords: Discourse, character, realistic short story, inner monologue, situation. Ngày nhận bài: 25/10/2018; Ngày nhận lại: 13/12/2018; Ngày duyệt đăng: 27/12/2018.
File đính kèm:
- dien_ngon_doc_thoai_trong_truyen_ngan_hien_thuc_o_mien_bac_v.pdf