Tho trong kịch bản tuồng của Đào Tấn

Thơ đóng vai trò quan trọng trong văn bản tuồng. Với việc sử dụng nhuần

nhuyễn, linh hoạt các thể thơ Trung Hoa và thơ dân tộc; khả năng vận dụng tinh tế điển

cố, thi liệu., Đào Tấn đã tạo nên cả một thế giới thi ca trong tuồng. Trong thế giới ấy,

mọi cung bậc cảm xúc của con người đều được thể hiện một cách chân thực và sâu sắc.

Chính “chất thơ” đã làm nên một phong cách tuồng Đào Tấn vừa hiện thực vừa trữ tình

và đưa các vở tuồng của ông trở thành “quốc bảo” của nghệ thuật dân tộc.

Tho trong kịch bản tuồng của Đào Tấn trang 1

Trang 1

Tho trong kịch bản tuồng của Đào Tấn trang 2

Trang 2

Tho trong kịch bản tuồng của Đào Tấn trang 3

Trang 3

Tho trong kịch bản tuồng của Đào Tấn trang 4

Trang 4

Tho trong kịch bản tuồng của Đào Tấn trang 5

Trang 5

Tho trong kịch bản tuồng của Đào Tấn trang 6

Trang 6

Tho trong kịch bản tuồng của Đào Tấn trang 7

Trang 7

Tho trong kịch bản tuồng của Đào Tấn trang 8

Trang 8

Tho trong kịch bản tuồng của Đào Tấn trang 9

Trang 9

Tho trong kịch bản tuồng của Đào Tấn trang 10

Trang 10

Tải về để xem bản đầy đủ

pdf 11 trang minhkhanh 5240
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Tho trong kịch bản tuồng của Đào Tấn", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Tho trong kịch bản tuồng của Đào Tấn

Tho trong kịch bản tuồng của Đào Tấn
58 TRNG I HC TH  H NI 
TH TRONG K!CH B+N TU7NG C>A 
O TN 
Đinh Thị Kim Thương1 
Trường Đại học Thủ đô Hà Nội 
Tóm tắt: Thơ đóng vai trò quan trọng trong văn bản tuồng. Với việc sử dụng nhuần 
nhuyễn, linh hoạt các thể thơ Trung Hoa và thơ dân tộc; khả năng vận dụng tinh tế điển 
cố, thi liệu..., Đào Tấn đã tạo nên cả một thế giới thi ca trong tuồng. Trong thế giới ấy, 
mọi cung bậc cảm xúc của con người đều được thể hiện một cách chân thực và sâu sắc. 
Chính “chất thơ” đã làm nên một phong cách tuồng Đào Tấn vừa hiện thực vừa trữ tình 
và đưa các vở tuồng của ông trở thành “quốc bảo” của nghệ thuật dân tộc. 
Từ khóa: thơ, kịch bản, tuồng Đào Tấn 
1. MỞ ĐẦU 
Tuồng thuộc loại hình kịch tự sự trữ tình phương Đông mang tính tổng hợp cao. Kịch 
bản tuồng chứa trong nó nhiều thể loại văn học như văn biền ngẫu, văn xuôi, thơ, từ, hát 
nói... Việc sử dụng tỉ lệ thơ trong kịch bản tuồng cũng là một yếu tố thể hiện phong cách 
tác giả. Đối với kịch bản tuồng của Đào Tấn, thơ chiếm tỉ lệ khá cao và giữ vai trò quan 
trọng trong việc thể hiện quan điểm nghệ thuật của ông. Tìm hiểu thơ trong tuồng Đào Tấn 
cũng là một cách để tiếp cận giải mã tác phẩm trực tiếp từ văn bản. 
2. NỘI DUNG 
2.1. Vai trò của thơ trong văn bản tuồng Đào Tấn 
Bàn về đặc điểm của văn học tuồng, Mịch Quang nhận định: “Tuồng là một loại kịch 
thơ hợp thể gồm văn xuôi trong lời hường, văn vần trong nói lối, các thể thơ trong lời hát” 
[1, tr.55]. Đồng quan điểm đó, Hoàng Chương cũng cho rằng “Thơ là điểm xuất phát đến 
với tuồng vì kịch bản tuồng là một bài thơ dài hợp thể [2, tr.23]. Khái quát về các thể loại 
cấu thành nên văn bản tuồng, Hoàng Châu Ký khẳng định kịch bản tuồng là sự kết hợp của 
ba thể loại: văn xuôi, văn biền và thơ [3]. Văn xuôi được sử dụng trong lời hường và lời kẻ 
1 Nhận bài ngày 25.11.2016; gửi phản biện và duyệt đăng ngày 25.12.2016 
Liên hệ tác giả: Đinh Thị Kim Thương; Email:dtkthuong@daihocthudo.edu.vn 
TP CH KHOA HC − S
 11/2016 59 
nhằm mục đích vừa bổ sung cho các mệnh đề trong văn vần và thơ, làm rõ nghĩa hơn cho 
nó, vừa làm cho lời kịch (mặc dù vẫn là văn vần và thơ) vẫn rất gần gũi với đời sống sinh 
hoạt hàng ngày. Văn biền (văn vần, song quan liên vận hay biền ngẫu), số chữ trong mỗi 
câu văn vần tăng ít nhiều tùy theo tình huống sân khấu, do đó văn biền trong nói lối tuồng 
đặc biệt chú trọng đến tiết tấu. Thơ (bao gồm tất cả các thể thơ cổ điển và dân gian Việt 
Nam) được sử dụng trong các lời hát nhằm bộc lộ vị thế, tâm trạng, lý tưởng, cảm xúc... 
của nhân vật. Nếu kịch bản tuồng thiếu đi chất thơ sẽ không khác gì kịch nói. Trong tuồng, 
văn xuôi, văn biền ngẫu gắn với nói lối và lời hường, lời kẻ để thể hiện tính tự sự còn thơ 
thường xuất hiện trong trong các điệu hát để thể hiện tính trữ tình. Thơ chỉ xuất hiện khi 
nhân vật bộc lộ cảm xúc trong những hoàn cảnh như tâm sự khuê phòng, tâm sự trên 
đường đi, cuộc chia ly, cuộc hội ngộ... và gắn với các điệu hát: tẩu, tán, khách, oán, thán, 
nam, lý... Kịch bản tuồng giàu chất thơ là kịch bản chứa đựng những giá trị tinh thần sâu 
sắc, với thế giới nội tâm phong phú của các nhân vật. Vì vậy, có thể nói thơ là một trong 
những tiêu chí quan trọng nhất để đánh giá văn chương của kịch bản tuồng. 
Theo Hoàng Chương, “không biết làm thơ thì không thể sáng tác tuồng” [2, tr.23]. Sở 
dĩ Đào Tấn có thể tạo ra những “kiệt tác” cho sân khấu tuồng bởi trước khi là một nghệ sĩ, 
một nhà biên kịch thì ông đã là một nhà thơ với hàng trăm bài thơ và từ xuất sắc. Thơ trong 
tuồng của ông nếu tách riêng ra cũng là một di sản vô giá cho nền thi ca dân tộc còn khi đặt 
trong chỉnh thể văn bản tuồng thì chứa đựng trong nó toàn bộ khí chất, tinh thần và giá trị 
tuồng Đào Tấn. Chính qua thơ mà ngôn ngữ tuồng Đào Tấn có những bước tiến vượt bậc, 
giúp ông trở thành tác giả tiêu biểu nhất của thể loại này: “... Sáng tác của Đào Tấn là một 
bước nhảy vọt của văn học tuồng mà thơ là đòn bẩy. Chỉ với Đào Tấn, chất bác học về văn 
chương trong tuồng mới mẫu mực, mới đầy sức hấp dẫn... Ông đã tạo ra một bước ngoặt 
đỉnh cao trong văn học tuồng” [2, tr.26]. 
Nếu trong tuồng cổ, văn biền ngẫu chiếm vị thế chủ đạo trong hầu hết các kịch bản 
như Sơn Hậu, Tam nữ đồ vương, Đào Phi Phụng, Võ Hùng Vương... thì ở các tác phẩm của 
Đào Tấn, thơ chiếm vị trí thượng phong và có xu hướng “thơ hóa” văn biền ngẫu. Chính vì 
vậy, có những đoạn tuồng văn biền ngẫu, văn xuôi và thơ đan xen, hòa quyện lẫn nhau 
khiến chúng ta không thể phân định được chính xác từng thể loại. Do đó, kết quả thống kê 
thơ trong văn bản tuồng của chúng tôi chỉ mang tính chất tương đối. Chúng tôi chỉ thống 
kê những câu thơ đứng độc lập và gắn với các điệu hát. Còn bộ phận thơ đan xen trong các 
lời hường, lời kẻ, lời nói lối chúng tôi coi như văn biền ngẫu có hơi hướng thơ (thơ hóa 
văn biền). 
Kết quả khảo sát thơ trong tuồng Đào Tấn: 
60 TRNG I HC TH  H NI 
TT Văn bản tuồng 
Số cảnh/ 
tình huống xuất hiện thơ 
Số lượng thơ 
(câu) 
1 Hoàng Phi Hổ quá Giới Bài quan 15 95 
2 Trầm Hương các 24 126 
3 Hộ sinh đàn 32 235 
4 Diễn võ đình 11 117 
5 Khuê các anh hùng 13 147 
6 Cổ thành 10 114 
7 Tân Dã đồn 8 80 
8 Đào Phi Phụng 5 34 
9 Sơn Hậu 5 22 
2.2. Đặc điểm thơ tuồng của Đào Tấn 
2.2.1. Thể thơ 
Thơ trong tuồng của Đào Tấn được viết bằng cả chữ Hán và chữ Nôm. Chữ Nôm 
thường được dùng để viết các thể thơ dân tộc như lục bát, song thất lục bát, đồng dao. Cá 
biệt có một số đoạn tuồng Đào Tấn sử dụng chữ Nôm để viết thơ Đường luật. Còn lại đại 
đa số thơ Đường luật trong tuồng đều được viết bằng chữ Hán. Đây cũng là điều dễ hiểu 
bởi vốn là một nhà nho truyền thống, một nhà thơ, nhà văn hóa Hán lỗi lạc lại sống trong 
môi trường chuộng nho, sùng cổ như thời Tự Đức nên văn chương tuồng Đào Tấn vừa chịu 
ảnh hưởng bởi mô hình sáng tác thơ ca cổ điển vừa tiếp thu những yếu tố dân tộc và ý thức 
dân chủ để tạo nên phong cách ngôn ngữ riêng của mình. 
Nhìn từ hình thức thể thơ, khảo sát 9 văn ... i 
Mơ màng hoàng bội ấy hồn về) 
Có thể thấy, với khả năng diễn ý vô tận và phù hợp với nhiều điệu hát, thơ Trung Hoa 
được sử dụng phổ biến trong các tuồng bản của Đào Tấn. Tìm tiểu đặc điểm thơ chữ Hán 
TP CH KHOA HC − S
 11/2016 63 
là chìa khóa giúp chúng ta giải mã thế giới nội tâm nhân vật và những giá trị nội dung tư 
tưởng trong tuồng của ông. 
Thứ hai, về thơ dân tộc. Mặc dù chiếm số lượng ít hơn thơ Trung Hoa, nhưng thơ dân 
tộc phân bố đều trong suốt chiều dài của tất cả các tác phẩm. Thơ dân tộc hàm chứa trong 
nó sự mềm mại, đằm thắm, trọng nghĩa, trọng tình, phù hợp với tâm hồn người Việt Nam. 
Thơ dân tộc thường gắn với các điệu Nam, điệu Lý và xuất hiện trong bối cảnh chia ly 
hoặc tâm trạng trên đường đi. Tùy vào hoàn cảnh và tính cách của nhân vật mà điệu Nam 
được hát với những sắc điệu khác nhau. Nếu là tâm trạng trên đường đi, nhân vật hát giọng 
nam xuân ít buồn và thi vị; còn trong cơn ly biệt sầu tình, nhân vật ca giọng nam ai đầy 
đau khổ não nề. Khi kẻ đi, người ở không dứt, sầu héo gan ruột mà phân ly thì nhân vật hát 
nam biệt, nam dứt... Để có thể biểu hiện những trạng thái cảm xúc uyển chuyển và linh 
hoạt như vậy, chỉ có thể sử dụng những câu thơ lục bát giàu thanh điệu, nhạc điệu và giàu 
cảm xúc của người Việt. Trong Tân Dã đồn, khi anh em Lưu – Quan – Trương tiễn Từ 
Thứ lên đường hàng Tào cứu mẹ, tâm trạng buồn của kẻ ở người đi lòng không dứt được 
Đào Tấn thể hiện tinh tế qua hai câu lục bát: 
Ngậm ngùi kẻ ở người đi 
Tình ly tơ vướng, chén ly lụy dầm 
Trong Cổ thành, trên đường vượt quan ải về Cổ thành hội ngộ Trương Phi, trước mắt 
và sau lưng đều là kẻ thù, tâm trạng vừa mệt mỏi, vừa mong ngóng thấp thỏm của Quan 
Vũ, Nhị tẩu, Tôn Kiền được bộc lộ qua những câu hát nam đong đầy cảm xúc: 
Mịt mù ngút tỏa sương che 
Vó câu lần nữa đường xe ghập ghềnh 
Xót thân đầy đọa đã đành 
Cảm thương vì nỗi sợ tình chia phôi 
Bao giờ tay bợ giềng trời 
Xua tan ngút bạc rạng ngời thức xanh... 
Như vậy, có thể thấy, Đào Tấn là một bậc thầy dùng thơ trong tuồng. Đối với mỗi 
hoàn cảnh, mỗi nhân vật, Đào Tấn sử dụng một thể thơ khác nhau sao cho đạt được hiệu 
quả thẩm mỹ tốt nhất. Mỗi câu, mỗi từ, mỗi chữ đều được ông chọn lọc kỹ lưỡng và đặt 
đúng vị trí tạo nên một kết cấu tuồng vững chắc mà như có nhà nghiên cứu nhận định 
“không thể thêm bớt bất kì một chữ nào”. Với tài năng ngôn ngữ thiên bẩm, Đào Tấn 
đã sáng tạo ra những công trình nghệ thuật ngôn từ tuyệt mĩ, những kiệt tác của nghệ 
thuật tuồng. Ông xứng đáng với danh xưng Nguyễn Hiển Dĩnh ca ngợi “trạng nguyên 
văn tuồng”. 
64 TRNG I HC TH  H NI 
2.2.2. Điển cố, thi liệu 
Văn học trung đại thường dùng điển cố làm hình thức để biểu đạt nội dung một cách 
cô đọng và sâu sắc. Bàn về hiện tượng này, nhà nghiên cứu Dương Quảng Hàm nhận xét: 
“Các văn sĩ tàu và ta, khi viết văn, thường mượn một sự tích xưa hoặc một câu thơ, câu văn 
cổ để diễn ý của mình nhưng không kể rõ việc ấy hoặc dẫn cả nguyên văn, mà chỉ dùng 
một vài chữ để ám chỉ đến việc ấy hoặc câu văn ấy. Cách làm văn ấy có thể gọi chung là 
điển cố” [4, tr.183]. Ông đồng thời chỉ ra một cách cụ thể hai dạng thức của lối sáng tác 
này. Đó là “dùng điển” (dụng điển) và “lấy chữ” (tầm chương trích cú). “Dùng điển” chỉ 
việc dẫn lại chuyện cũ, tích xưa “khiến người đọc sách phải nhớ đến việc ấy, tích ấy mới 
hiểu ấy cái ý nghĩa và lý thú của câu văn” [4, tr.183]. “Lấy chữ” là cách “mượn một vài 
chữ trong câu văn, câu thơ cổ để đặt vào câu văn của mình khiến người đọc phải nhớ đến 
câu văn, câu thơ kia mới hiểu được cái ý mình muốn nói” [4, tr.183]. Nhà nghiên cứu 
Nguyễn Ngọc San nói một cách khái quát hơn “Điển cố là viết gọn chuyện cũ người xưa 
thành đôi ba chữ để đưa vào văn chương, làm câu văn hàm sức, ngắn gọn, lời ít, ý nhiều. 
Nguồn khai thác điển cố chủ yếu là các “sự tích thời Xuân Thu – Chiến Quốc được ghi 
chép trong các trước tác Tiên Tần và văn thơ Đường, Tống, ngoài ra còn có thể kể đến 
kinh sử hay thư tịch nổi tiếng các đời khác [5, tr.3]. 
Việc “dụng điển”, “lấy chữ” tạo tính cô đọng, hàm súc (lời ít, ý nhiều) khiến cho câu 
văn, câu thơ “đậm đà lý thú” bởi trường liên tưởng và ý nghĩa biểu trưng mà tích cũ, truyện 
xưa gợi ra. Trong văn bản tuồng của Đào Tấn, đặc điểm sáng tác này thể hiện qua tần số 
xuất hiện, nguồn gốc của điển cố và nội dung ý nghĩa, phương thức sử dụng điển cố của 
tác giả. 
Trong các văn bản tuồng của Đào Tấn, điển cố xuất hiện một cách dày đặc và có tần 
số lặp lại cao. Đặc biệt là các điển về Nho giáo như tam cương, ngũ thường, đạo quân 
thần, niềm tôi chúa, tình phụ tử, nghĩa phu thê, Thành Thang, Nghiêu Thuấn... được nhắc 
đến 20 lần (Hoàng Phi Hổ quá Giới Bài quan), 17 lần (Trầm Hương các), 12 lần (Tân Dã 
đồn)... Có thể thấy, vấn đề quốc gia, dân tộc và ý thức trách nhiệm của mỗi con người 
trước vận mệnh đất nước vẫn là nỗi trăn trở lớn trong các tác phẩm của Đào Tấn. Qua mỗi 
văn bản tuồng, ông kín đáo thể hiện lòng yêu nước, thương dân và ý chí đấu tranh phản 
kháng theo cách riêng của mình. 
Các điển cố được Đào Tấn sử dụng có nguồn gốc phong phú từ các chuyện cũ, tích 
xưa với xuất xứ đa dạng như chuyện thực, chuyện chép trong sử sách, chuyện hoang 
đường kì lạ chép trong các truyện cổ tích, thần tiên, truyền thuyết. Đó là những khái niệm, 
thuật ngữ, từ ngữ hay nhân vật, câu chuyện gắn với cả ba học thuyết Nho, Phật, Đạo; 
những câu thơ hay, lời nói đẹp của cổ nhân. Trong số này thì chiếm đa số là những điển cố 
TP CH KHOA HC − S
 11/2016 65 
xuất xứ từ sách sử, truyện kinh điển của Nho giáo như: Kinh Thi, Kinh Lễ, Kinh Dịch, 
Trung Dung, Hậu Hán thư, Lã thị xuân thu, Tả truyện, sách Tôn Tử, Mạnh Tử... các trước 
tác văn chương thơ phú nổi tiếng của Trung Hoa như Sở Từ, Ly tao, thơ Đào Tiền, Thôi 
Hiệu, Lý Bạch, Đỗ Phủ, Vương Xương Linh... Đây cũng là xu hướng chung của thơ ca 
trung đại và đặc biệt là phù hợp với xu hướng sùng Nho của triều đại Tự Đức bởi điển cố, 
thi liệu trong các trước tác này có mối liên hệ với tư tưởng đạo đức Nho gia. 
Một điển cố luôn bao hàm trong nó hai cấp độ nội dung ý nghĩa. Một là tính lịch sử cụ 
thể, nghĩa là những con người, câu chuyện có thật từng tồn tại trong một không gian, thời 
gian nhất định. Đó là cầu nối giữa hiện tại và quá khứ, đem đến sự tin cậy cho nội dung 
được đề cập đến. Tuy nhiên, những câu chuyện này chỉ thực sự được gọi là các điển cố 
theo đúng nghĩa hoàn chỉnh khi nó được cấp cho một ý nghĩa mang tính biểu tượng, từ đó 
mà “chuyển tải được một nội dung lớn hơn nhiều so với sức hàm chứa của bản thân từ 
ngữ” [5, tr.5]. 
Chịu ảnh hưởng sâu sắc của ý thức hệ Nho giáo, sự xuất hiện của hệ thống điển cố 
trong văn bản tuồng Đào Tấn trước hết gắn với các khái niệm, chuẩn mực đạo đức và sách 
vở Nho giáo. Dựa vào kết quả khảo sát các văn bản tuồng của Đào Tấn, chúng tôi tạm gọi 
nhóm điển cố này là nhóm điển cố về tư liệu Nho giáo và phân chúng thành ba tiểu loại: 
Danh nhân lịch sử, câu trích trong sách vở Nho gia, thuật ngữ Nho giáo. 
Có thể thấy, nhóm điển cố tư liệu Nho giáo được lặp lại một cách đầy linh hoạt ở lời 
nói của các nhân vật khác nhau, trên những bình diện tiếp cận khác nhau và trong những 
tác phẩm khác nhau. Phương thức sử dụng điển cố phổ biến được Đào Tấn sử dụng là dẫn 
chữ, dẫn chuyện để suy ra ý nghĩa khái quát và ý nghĩa biểu tượng. Ý nghĩa được tạo ra 
này có khi tương đồng, có khi được mở rộng, bổ sung, thậm chí nhiều khi còn nhằm để tạo 
một đối sánh mang tính chất đối lập để diễn tả sự đổ vỡ, biến chuyển của thời đại hay 
những hoàn cảnh khó khăn bế tắc trong tương quan với sự thất vọng, bất lực của con 
người. Sau những ngày dài trốn chạy, được sự giúp đỡ của Lan Anh, Tiết Cương tạm thời 
thoát khỏi tay Võ Tam Tư, trên đường về sơn trại, chàng đau xót thay cho vợ bụng mang 
dạ chửa mà phải bươn trải, lưu lạc vì chồng: 
Cơn gió thét lá cây rời rạc 
Cụm mây giăng khe suốt mịt mù 
Ngựa Tái ông may rủi luống mơ hồ 
Xe Nguyễn Tịch lỡ làng thêm bối rối 
Mượn truyện Tái ông thất mã trong sách Hoài Nam tử và nhân vật Nguyễn Tịch (một 
trong bảy người hiền ở rừng trúc đời Tấn, có tài, nghiện rượu, tính tình phóng khoáng, 
thường dùng xe du ngoạn suốt ngày không nhớ về nhà), Đào Tấn muốn khắc họa tâm trạng 
66 TRNG I HC TH  H NI 
hoang mang, lo lắng và chán chường của Tiết Cương không biết cảnh chạy giặc này sẽ 
may rủi ra sao. Đồng thời tác giả ngầm thể hiện sự phẫn uất, bất lực của con người khí 
khái mà bất lực bế tắc trước thời cuộc, bị tạo hóa xoay vần, không được làm chủ số mệnh 
của mình. 
Đào Tấn sử dụng đa dạng các loại điển cố mang nhiều ý nghĩa khác nhau, từ các danh 
nhân trong lịch sử, đến các câu trích kinh điển trong sách vở Nho giáo để nói về đạo đức 
của người quân tử, các điển cố chỉ thiên nhiên đã trở thành thi liệu quen thuộc của đường 
thi như cánh hồng hộc, cô nhạn, cô hồng, dấu thỏ, đường dê, trăng tàn, nguyệt lặn, quan 
san, thu phong... đến những điển cố chỉ vẻ đẹp người phụ nữ: trầm ngư lạc nhạn, bế nguyệt 
tu hoa, ngọc diện hồng trang, mày hoa nộn liễu, khuynh quốc khuynh thành, má hồng, 
thuyền quyên... Đặc biệt, Đào Tấn sử dụng nhiều điển cố chỉ sự cô độc, tha hương và chia 
ly xa cách của con người như một nỗi ám ảnh dằng dặc không nguôi: góc hải sơn nhai, 
nam Hồ bắc Việt, thiên cao địa hậu, tang thương biến dịch, thời cuộc chuyển di, bước khuê ly, 
cao phi viễn tẩu, hiệp phố hoàn châu, chinh bào, dương liễu, sông Sở non Ngô, song tinh... 
Có thể nói, điển cố đã trở thành máu thịt, thành một bộ phận đặc trưng mang lại vẻ đẹp 
cho văn chương tuồng Đào Tấn. Nhận định điều này, GS Hồ Sĩ Vịnh viết “trong văn tuồng 
Đào Tấn, người đọc bắt gặp những biểu tượng ước lệ phản ánh triết lí Thiên – Địa – Nhân 
của phương Đông để nói lên tâm trạng hoài vọng, đạo đức của nhân vật trữ tình. Những 
mô típ lá tùng, xương mai tượng trưng cho lòng trung nghĩa, bụi vàng, nắng đỏ, nhạn 
chiều, mây thưa nói lên niềm cô lẻ của những hiệp khách, hồn bướm, cánh hồng là những 
giấc mơ đẹp, thân bồ, phận hồng nhan là những số phận đã được định vị... Tất cả đều bắt 
nguồn từ dáng dấp thiên nhiên, đất nước, con người Việt Nam thời cận đại [2, tr.138]. Nhờ 
có điển cố, văn bản tuồng Đào Tấn chứa đựng những không gian liên văn hóa, những mẫu 
thức văn hóa, hằng số văn hóa và chiều sâu văn hóa của cả một “thế giới phương Đông 
huyền bí”. 
Khi nói về điển cố, thi liệu, sẽ thật thiếu sót nếu không nói đến khả năng “mượn thơ” 
tài tình của Đào Tấn. Với vốn am hiểu sâu sắc về thơ Đường cùng vốn kiến thức Hán học 
uyên bác, Đào Tấn đã kết hợp các ý “thơ mượn” một cách hết sức nhuần nhuyễn và tinh tế. 
Mỗi câu thơ ở một bài thơ, nhưng dưới “bàn tay phù phép” của Đào Tấn, khi được sắp xếp 
đứng cạnh nhau, chúng vẫn trở thành một chỉnh thể không thể tách rời. Hãy cùng phân tích 
điệu tán của Tú Hà khi nhận ra bản chất bất nhân bất nghĩa của chồng mình: 
Tú Hà: (Tán) 
Tâm sự này khó hỏi trời xanh(1) 
Hà! Trì trì bạch nhật vãng(2) 
Níu níu bi phong sanh(3) 
TP CH KHOA HC − S
 11/2016 67 
Thương hại cho tôi! 
Phu tế khinh bạc nhi(4), tại thế bất xứng ý(5) 
Vậy chớ chừ tôi đi mô đây? Thôi... 
Giang sơn diêu lạc xứ(6), tử biệt dĩ thôn thanh(7) hà! 
Một đoạn hát tán của Tú Hà chỉ gồm 5 câu thơ nhưng được mượn ý từ 7 câu thơ thuộc 
7 bài thơ khác nhau trong thơ Đường. Câu số (1) mượn ý thơ từ bài phú Thiên vấn của 
Khuất Nguyên. Câu số (2) mượn từ câu “trì trì bạch nhật vãn” trong bài Cảm ngộ của Trần 
Tử Ngang. Câu số (3) lấy chữ từ câu “Níu níu hề thu phong” trong bài Tương phu nhân của 
Khuất Nguyên. Câu số (4) mượn tứ thơ trong bài Giai nhân của Đỗ Phủ. Câu số (5) là một 
câu thơ của Lý Bạch. Câu số (6) là lời thơ của Lưu Trường Khanh “Tịch mịch giang sơn 
diêu lạc xứ/ Lân quân hà sự đáo thiên nhai”. Câu số (7) mượn từ hai câu thơ trong bài 
Mộng Lý Bạch của Đỗ Phủ: “Tử biệt dĩ thôn thanh, sinh biệt trường trắc trắc”. Tầng tầng 
lớp lớp ý nghĩa được chứa đựng trong lớp vỏ bọc ngôn từ khiến mỗi câu tuồng của Đào 
Tấn đều hàm chứa những triết lý nhân sinh sâu sắc. Chính điều đó tạo nên đặc trưng riêng 
biệt cho văn chương tuồng Đào Tấn mà không ai có thể bắt chước được. “Cái lớn của Đào 
Tấn” cũng một phần ở “chiều sâu” trong cấu trúc ngôn ngữ tuồng mà việc tìm hiều điển cố 
là một trong những chìa khóa để giải mã những biểu tượng văn hóa đó. 
3. KẾT LUẬN 
Như vậy, có thể nói thơ là bộ phận tiêu biểu nhất trong văn chương tuồng Đào Tấn. 
Với việc sử dụng nhuần nhuyễn, linh hoạt các thể thơ Trung Hoa và thơ dân tộc; khả năng 
vận dụng tinh tế điển cố, thi liệu, Đào Tấn đã tạo nên cả một thế giới thi ca trong kịch bản 
tuồng. Trong thế giới ấy, mọi cung bậc cảm xúc của con người đều được thể hiện một cách 
chân thực và sâu sắc. Chính “chất thơ” đã làm nên một phong cách tuồng Đào Tấn vừa 
hiện thực vừa trữ tình và đưa các vở tuồng của ông trở thành “quốc bảo” của nghệ thuật 
dân tộc. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Mịch Quang (1963), “Bàn về một vài đặc điểm của văn học tuồng”, Văn học, (6), tr. 51-63. 
2. Hoàng Chương (Chủ biên, 2008), Đào Tấn – trăm năm nhìn lại, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội. 
3. Hoàng Châu Ký (1978), Tuồng cổ (tập 1), Nxb Văn hóa, Hà Nội 
4. Dương Quảng Hàm (1941), Việt Nam văn học sử yếu, Nxb Đông Pháp, Hà Nội. (Tái bản năm 
1968, Trung tâm học liệu – Bộ Giáo dục, Hà Nội) 
5. Nguyễn Ngọc San (Chủ biên, 1998), Từ điển điển cố văn học trong nhà trường, Nxb Giáo 
dục, Hà Nội. 
68 TRNG I HC TH  H NI 
POETRY IN CLASSICAL DRAMA’S SCRIPTS OF DAO TAN 
Abstract: Poetry plays an important role in the literary of classical drama’s script 
(Tuong). With the use of clever, flexible Chinese poetry and folk poetry; subtle use the 
historical references, poetical material, Dao Tan has created a poetic world of Tuong. In 
that world, all the emotions of man are shown truthfully and profoundly. In fact, "the 
poetic" made Dao Tan’s Tuong into realistic and lyrical style, and put his plays to 
become "national treasure". 
Keywords: poetry, scripts, Dao Tan’s classical drama. 

File đính kèm:

  • pdftho_trong_kich_ban_tuong_cua_dao_tan.pdf