Đánh giá nguy cơ bị tổn thương do sóng thần cho khu vực đô thị thành phố Nha Trang

Ở Việt Nam, mặc dù công trình nghiên cứu đầu tiên về sóng thần đã được công bố từ năm 1995, hướng nghiên cứu sóng thần vẫn không được phát triển mạnh do tính thời sự của vấn đề tại thời điểm đó chưa cao [7]. Sau thảm họa động đất - Sóng thần Ấn Độ Dương ngày 26 tháng 12 năm 2004, cùng với sự đổi mới căn bản về nhận thức của cộng đồng và nhiều quốc gia trong khu vực về sức mạnh hủy diệt của loại hình thiên tai này, việc nghiên cứu sóng thần ở Việt Nam mới có được sự chuyển mình mạnh mẽ. Trong thời gian này, đã có rất nhiều Đề tài nghiên cứu được triển khai thực hiện với sự tham gia của đông đảo các chuyên gia và các nhà khoa học thuộc nhiều lĩnh vực liên quan. Nội dung và số lượng của các công trình nghiên cứu sóng thần ở Việt Nam cho đến thời điểm này là khá đa dạng và có thể phân thành ba nhóm chính. Nhóm thứ nhất là các công trình nghiên cứu đánh giá độ nguy hiểm sóng thần cho các vùng bờ biển và hải đảo Việt Nam trên cơ sở phân tích các đặc trưng về tính địa chấn và kiến tạo - địa động lực khu vực Đông Nam Á đóng vai trò quyết định trong cơ chế hình thành và phát sinh sóng thần trên khu vực Biển Đông Việt Nam

Đánh giá nguy cơ bị tổn thương do sóng thần cho khu vực đô thị thành phố Nha Trang trang 1

Trang 1

Đánh giá nguy cơ bị tổn thương do sóng thần cho khu vực đô thị thành phố Nha Trang trang 2

Trang 2

Đánh giá nguy cơ bị tổn thương do sóng thần cho khu vực đô thị thành phố Nha Trang trang 3

Trang 3

Đánh giá nguy cơ bị tổn thương do sóng thần cho khu vực đô thị thành phố Nha Trang trang 4

Trang 4

Đánh giá nguy cơ bị tổn thương do sóng thần cho khu vực đô thị thành phố Nha Trang trang 5

Trang 5

Đánh giá nguy cơ bị tổn thương do sóng thần cho khu vực đô thị thành phố Nha Trang trang 6

Trang 6

Đánh giá nguy cơ bị tổn thương do sóng thần cho khu vực đô thị thành phố Nha Trang trang 7

Trang 7

Đánh giá nguy cơ bị tổn thương do sóng thần cho khu vực đô thị thành phố Nha Trang trang 8

Trang 8

Đánh giá nguy cơ bị tổn thương do sóng thần cho khu vực đô thị thành phố Nha Trang trang 9

Trang 9

pdf 9 trang viethung 4200
Bạn đang xem tài liệu "Đánh giá nguy cơ bị tổn thương do sóng thần cho khu vực đô thị thành phố Nha Trang", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Đánh giá nguy cơ bị tổn thương do sóng thần cho khu vực đô thị thành phố Nha Trang

Đánh giá nguy cơ bị tổn thương do sóng thần cho khu vực đô thị thành phố Nha Trang
 1 
Formatted: Font: 11 pt
Formatted: Position: Horizontal:
Inside, Relative to: Margin
Formatted: Indent: First line: 0.63
cm
33(1), 1-9 T¹p chÝ c¸c khoa häc vÒ tr¸i ®Êt 3-2011 
ĐÁNH GIÁ NGUY CƠ BỊ TỔN THƯƠNG 
DO SÓNG THẦN CHO KHU VỰC ĐÔ THỊ 
THÀNH PHỐ NHA TRANG 
NGUYỄN HỒNG PHƯƠNG1, PHẠM THẾ TRUYỀN1, ADRIEN MOIRET2 
E-mail: phuong.dongdat@gmail.com 
1Viện Vật lý Địa cầu, Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam, 
2Université Paris Est - Marne la vallée - Institut Francilien des Sciences Appliquées (IFSA) 
Ngày nhận bài: 06-9-2010 
1. Mở đầu 
Ở Việt Nam, mặc dù công trình nghiên cứu 
đầu tiên về sóng thần đã được công bố từ năm 
1995, hướng nghiên cứu sóng thần vẫn không được 
phát triển mạnh do tính thời sự của vấn đề tại thời 
điểm đó chưa cao [7]. Sau thảm họa động đất - 
sóng thần Ấn Độ Dương ngày 26 tháng 12 năm 
2004, cùng với sự đổi mới căn bản về nhận thức 
của cộng đồng và nhiều quốc gia trong khu vực về 
sức mạnh hủy diệt của loại hình thiên tai này, việc 
nghiên cứu sóng thần ở Việt Nam mới có được sự 
chuyển mình mạnh mẽ. Trong thời gian này, đã có 
rất nhiều đề tài nghiên cứu được triển khai thực 
hiện với sự tham gia của đông đảo các chuyên gia 
và các nhà khoa học thuộc nhiều lĩnh vực liên 
quan. Nội dung và số lượng của các công trình 
nghiên cứu sóng thần ở Việt Nam cho đến thời 
điểm này là khá đa dạng và có thể phân thành ba 
nhóm chính. Nhóm thứ nhất là các công trình 
nghiên cứu đánh giá độ nguy hiểm sóng thần cho 
các vùng bờ biển và hải đảo Việt Nam trên cơ sở 
phân tích các đặc trưng về tính địa chấn và kiến tạo 
- địa động lực khu vực Đông Nam Á đóng vai trò 
quyết định trong cơ chế hình thành và phát sinh 
sóng thần trên khu vực Biển Đông Việt Nam. Kết 
quả tiêu biểu nhất của các công trình nghiên cứu 
thuộc nhóm này là các bản đồ chỉ rõ vị trí và ranh 
giới các vùng nguồn phát sinh động đất có khả 
năng gây ra sóng thần ảnh hưởng trực tiếp tới các 
vùng bờ biển và hải đảo của Việt Nam và mức độ 
nguy hiểm cực đại mà các trận sóng thần này có 
thể gây ra. Đó là các công trình nghiên cứu khoa 
học của Nguyễn Đình Xuyên và cộng sự (2007), 
Trần Thị Mỹ Thành và cộng sự (2009), Nguyễn 
Hồng Phương và cộng sự (2009) và Bùi Công Quế 
và cộng sự (2010) [4-6, 8]. Nhóm thứ hai là các 
công trình nghiên cứu mô phỏng sự lan truyền của 
sóng thần từ các vùng nguồn đến các vùng bờ biển 
và hải đảo của Việt Nam. Tiêu biểu nhất cho các 
nghiên cứu thuộc loại này là đề tài nghiên cứu của 
Vũ Thanh Ca và cộng sự (2008). Nghiên cứu này 
sử dụng các nghiên cứu của nhóm thứ nhất, cụ thể 
là các tham số nguy hiểm địa chấn của các vùng 
nguồn trên khu vực Biển Đông và lân cận để mô 
phỏng các kịch bản sóng thần trên Biển Đông. Kết 
quả của nghiên cứu này là một cơ sở dữ liệu chứa 
25 kịch bản sóng thần tính sẵn và tập bản đồ cảnh 
báo nguy cơ sóng thần cho các vùng ven biển và 
hải đảo của Việt Nam [1]. 
Cần nhận xét rằng các nghiên cứu thuộc hai 
nhóm nêu trên mới chỉ đề cập tới việc đánh giá độ 
nguy hiểm sóng thần, tức là chỉ ra những khu vực 
có khả năng bị sóng thần tấn công với xác suất cao 
nhất trên toàn dải ven biển và hải đảo của Việt 
Nam. Trong khi đó, một nội dung khác, không kém 
phần quan trọng vẫn còn chưa được đề cập đến một 
cách đầy đủ trong các nghiên cứu về sóng thần ở 
Việt nam cho đến nay. Đó là việc dự báo mức độ 
thiệt hại mà sóng thần có thể gây ra cho cộng đồng 
tại các khu vực đô thị hay các khu vực trọng điểm 
thuộc dải ven biển và hải đảo của Việt Nam. Các 
nghiên cứu theo hướng này có thể đưa vào nhóm 
thứ ba: nhóm các nghiên cứu đánh giá rủi ro do 
sóng thần. 
 2
Formatted: Font: 11 pt
Formatted: Position: Horizontal:
Inside, Relative to: Margin
Formatted: Indent: First line: 0.63
cm
Bài viết này trình bày một nghiên cứu mới 
thuộc hướng thứ ba theo cách phân loại trên đây. 
Mục đích chính của nghiên cứu này là xây dựng 
một phương pháp luận đánh giá nguy cơ bị tổn 
thương do sóng thần gây ra cho một khu vực đô thị 
nằm trên dải ven biển của Việt Nam. Phương pháp 
luận được áp dụng thử nghiệm cho thành phố Nha 
Trang, với sự trợ giúp của công cụ GIS trong việc 
xây dựng cơ sở dữ liệu, tính toán và thể hiện các 
kết quả. 
2. Mức độ tổn thương do sóng thần và các khái 
niệm liên quan 
Hiểm họa sóng thần thường tập trung cao nhất 
tại các khu vực nằm sát bờ biển và có thể trở thành 
thảm họa nếu khu vực đó đồng thời cũng là một 
khu vực phát triển của cộng đồng. Ở Việt Nam, 
mặc dù chưa có tài liệu chính thức nào được công 
bố về thiệt hại do sóng thần gây ra trong quá khứ, 
song các kết quả nghiên cứu đều cho thấy khu vực 
miền Trung đất nước được đánh giá là có độ nhạy 
cảm cao đối với hiểm hoạ sóng thần [1, 4, 8]. Đối 
với những khu vực như vậy, việc đánh giá độ rủi ro 
sóng thần nhằm đề xuất những biện pháp phòng 
ngừa và giảm thiểu những tổn thất do động đất gây 
ra đối với cộng đồng là một việc làm không những 
mang tính thiết thực, mà còn vô cùng cấp bách. 
Phương pháp luận đánh giá rủi ro và giảm nhẹ 
thiệt hại do sóng thần gây ra cho một khu vực đô 
thị thường được xây dựng dựa trên ba khái niệm cơ 
bản nhất, bao gồm: Độ rủi ro sóng thần, Độ nguy 
hiểm sóng thần và Mức độ tổn thương do sóng 
thần sẽ được định nghĩa dưới đây. 
Độ rủi ro sóng thần là xác suất xẩy ra những 
tổn thất về kinh tế xã hội do sóng thần gây ra tại 
một khu vực cho trước, trong một khoảng thời gian 
cho trước. 
Độ nguy hiểm sóng thần là xác suất xuất hiện 
của một cơn sóng thần có thể gây thiệt hại cho một 
vùng cho trước trong một khoảng thời gian cho 
trước. Trong các tính toán định lượng, độ nguy 
hiểm sóng thần thường được gán bằng các giá trị 
độ cao sóng thần khi tấn công vào bờ hay độ sâu 
ngập lụt do sóng thần. 
Mức độ tổn thương do sóng thần là khả năng bị 
mất mát hay khả năng ứng phó của cộng đồng đô 
thị ven biển khi bị đặt trước sự đe dọa của tai biến 
sóng thần. Mức độ bị tổn thương thường được xét 
tương ứng với các yếu tố chịu rủi r ... Bảng 6. Các giá trị đề nghị cho hệ số KST 
Báo động 15 
trước khi sóng đến 
Thời gian sơ tán 
trung bình (phút) Giá trị KE đề nghị 
Khu vực 1 < 5 0.4 
Khu vực 2 5 - 10 0.6 
Khu vực 3 10 - 15 0.8 
Khu vực 4 >15 1 
- Giá trị SNĐ phụ thuộc vào việc thời gian sóng 
thần tấn công là ngày hay đêm, với SNĐ = VNC/5 
(ban đêm, giả thiết là mọi người đang ở trong nhà), 
SNĐ = VNC/10 + ½ (ban ngày, giả thiết là một nửa số 
dân đang ở trong nhà và một nửa ở bên ngoài). 
- SC và ST là các hệ số chỉ mùa du lịch: Nếu 
đang trong mùa du lịch (lượng khách du lịch và 
mật độ dân cư cao) thì SC = 1 nếu sóng thần xẩy ra 
trong mùa du lịch; và SC = 0 nếu sóng thần xẩy ra 
lúc không phải mùa du lịch. Nếu đang không phải 
mùa du lịch (lượng khách du lịch và mật độ dân 
cư thấp): ST = 1 nếu sóng thần xẩy ra lúc không 
phải mùa du lịch; ST = 0 nếu sóng thần xẩy ra trong 
mùa du lịch. 
- PVC là mức độ tổn thương của tham số 
“Người” trong đơn vị tham chiếu, được tính cho 
mùa có khách du lịch cao sử dụng công thức (4) và 
những yếu tố ảnh hưởng đã được xác định ở trên 
với chỉ số C: 
PVH = w1(dC) + w2(nC) + w3(gC) + w4(mC) (5) 
Các trọng số được xác định bằng phương pháp 
phân tích đa tiêu chuẩn như trong trường hợp tham 
số môi trường xây dựng đã trình bày ở trên. 
- Tương tự, PVT là mức độ tổn thương của 
tham số “Người” trong đơn vị tham chiếu, được 
tính cho mùa có khách du lịch thấp sử dụng công 
thức (4) và những yếu tố ảnh hưởng đã được xác 
định ở trên với chỉ số T: 
PVL = w1(dT) + w2(nT) + w3(gT) + w4(mT) (6) 
Các công thức (4), (5) và (6) được sử dụng để 
tính toán và thành lập các bản đồ mức độ tổn 
thương thành phần về người do sóng thần gây ra tại 
khu vực nghiên cứu. 
4. Đánh giá nguy cơ bị tổn thương do sóng thần 
cho khu vực đô thị thành phố Nha Trang 
Phương pháp luận mô tả trong mục 3 được áp 
dụng thử nghiệm để đánh giá nguy cơ bị tổn thương 
do sóng thần tại một khu vực đô thị của thành phố 
Nha Trang. Khu vực nghiên cứu được lựa chọn nằm 
sát đường bờ biển, bao gồm 11 phường nội thành 
của thành phố Nha Trang với diện tích 7,9 km2 và 
tổng số dân là 163.885 người (hình 1). 
Hình 1. Vị trí khu vực nghiên cứu trên bản đồ thành phố Nha Trang (khung nhỏ) 
 6
Formatted: Indent: First line: 0.63
cm
Formatted: Font: 11 pt
Formatted: Position: Horizontal:
Inside, Relative to: Margin
4.1. Dữ liệu 
Các dữ liệu thuộc tính được sử dụng bao gồm 
hai loại chính là dữ liệu về dân số và dữ liệu về nhà 
cửa, trong đó các dữ liệu về dân số được khai thác 
từ các niên giám thống kê. Số liệu dân số chi tiết 
tới cấp phường được liệt kê trong bảng 7 [11]. 
Để khảo sát và thu thập các dữ liệu thuộc tính về 
nhà cửa, công tác thực địa được tổ chức quy mô tại 
khu vực đô thị sát bờ biển thành phố Nha Trang. 
Các cán bộ khảo sát đã tiến hành khảo sát các công 
trình xây dựng trên toàn bộ các khu phố, các ngõ 
phố, các cụm dân cư trên địa bàn theo mẫu phiếu 
điều tra đã lập sẵn. Các dữ liệu thuộc tính về nhà 
cửa được nối kết với các dữ liệu không gian về nhà 
cửa, được số hóa từ ảnh nền Google ở tỷ lệ 1:2000. 
Bảng 7. Dân số và diện tích các phường khu vực 
nghiên cứu năm 2009 
STT Tên Phường Dân số (người) Diện tích (km2) 
1 Vĩnh Phước 20.662 1,09 
2 Vĩnh Thọ 14.823 1,3 
3 Vạn Thắng 13.012 0,28 
4 Xương Huân 17.873 0,61 
5 Phương Sài 13.284 0,29 
6 Phước Tân 13.103 0,48 
7 Phước Tiến 12.680 0,3 
8 Phước Hòa 14.461 1,12 
9 Tân Lập 16.242 0,59 
10 Lộc Thọ 12.861 1,47 
11 Vạn Thạnh 14.884 0,37 
Trên cơ sở các dữ liệu thu thập được, một cơ sở 
dữ liệu GIS được thành lập trên môi trường của 
phần mềm ArcView GIS. Ngoài các dữ liệu đầu 
vào được lưu trữ dưới dạng các bản đồ chuyên đề 
và bản đồ nền, cơ sở dữ liệu GIS còn lưu trữ cả các 
bản đồ kết quả. 
4.2. Xây dựng bản đồ mức độ tổn thương cho 
tham số “Nhà cửa” 
Phương pháp luận mô tả trong mục nhỏ 3.2 
được áp dụng để xây dựng bản đồ mức độ tổn 
thương cho tham số “Nhà cửa” cho khu vực nghiên 
cứu. Các yếu tố ảnh hưởng được xác định theo một 
số tiêu chuẩn như sau: 
- Giá trị của m (vật liệu xây dựng) được xác 
định căn cứ theo kết cấu của nhà cửa và hiện trạng 
chất lượng của công trình theo các số liệu khảo sát 
thực địa; 
- Giá trị của g (mô tả tầng trệt của ngôi nhà) 
được xác định dựa trên sự kết hợp các thông tin từ 
chức năng sử dụng và số tầng của ngôi nhà. Chức 
năng sử dụng của các ngôi nhà được phân ra thành 
3 nhóm theo số tầng như sau (bảng 8): nhóm 1 
chứa các nhà có số tầng 1, 2, 7; nhóm 2 chứa các 
nhà có số tầng là 3, 4, 8; nhóm 3 chứa các nhà có 
số tầng là 5, 6. 
- Giá trị của s (số tầng của ngôi nhà) được xác 
định thông qua số liệu khảo sát thực tế. 
- Giá trị của d (thiết kế của ngôi nhà) được xác định 
theo bản đồ số hóa nhà cửa tại khu vực nghiên cứu. 
- Giá trị của f (kết cấu móng nhà) được xác 
định dựa trên kết cấu của ngôi nhà và số tầng. 
Bảng 8 liệt kê mối quan hệ phổ biến nhất giữa 
chức năng sử dụng nhà cửa và số tầng nhà tại khu 
vực khảo sát. Căn cứ vào các tiêu chuẩn đề ra, các 
yếu tố ảnh hưởng được gán các trị số như trình bày 
trong bảng 9. 
Bảng 8. Phân nhóm các chức năng sử dụng nhà cửa 
Chức năng sử dụng nhà Số tầng 
Quân đội 1 
Tôn giáo (Nhà thờ, chùa) 2 
Khách sạn, khách sạn + nhà ở 3 
Nhà ở, Nhà ở + cửa hàng 4 
Siêu thị, chợ 5 
Nhà hàng, Cửa hàng dịch vụ 6 
Trường học, viện bảo tàng 7 
Cơ quan, văn phòng + nhà ở 8 
4.3. Xây dựng bản đồ mức độ tổn thương cho 
tham số “Người” 
Để đánh giá mức độ tổn thương cho tham số 
“Người”, trong nghiên cứu này chỉ xét trường hợp 
sóng thần xẩy ra trong mùa du lịch. Khi đó công 
thức (4) trở thành : 
 VNG = KE.SNĐ.PVC (7) 
Do trong thực tế thời gian sơ tán dân có thể 
vượt quá 15 phút tính từ khi báo động nên các giá 
trị của KE được gán bằng 1. Các tiêu chuẩn đánh
Formatted: Font: Italic
Formatted: Font: Not Italic
Formatted: Font: Italic
Deleted: 
Deleted: 7
Deleted: , 9
 7 
Formatted: Font: 11 pt
Formatted: Position: Horizontal:
Inside, Relative to: Margin
Formatted: Indent: First line: 0.63
cm
Bảng 9. Gán giá trị cho các yếu tố ảnh hưởng 
Giá trị đề nghị Yếu tố 
ảnh hưởng 1 2 3 4 5 
m Bê tông cốt sắt chịu lực Gạch, gỗ, bê tông không có cốt sắt Gỗ 
g Mặt tiền mở, không có các đồ vật di động 
Mặt tiền mở, có 
các đồ vật di động Không có mặt tiền mở 
s 5 tầng 4 tầng 3 tầng 2 tầng 1 tầng 
f Móng có trụ chống sâu Móng trung bình Móng đổ tràn trên mặt 
d Chiều dài toà nhà thẳng góc với bờ biển 
Chiều dài toà nhà tạo 
góc 45º so với bờ biển 
Chiều dài của toà nhà song 
song với bờ biển 
giá biểu thị các dạng thiệt hại do sóng thần gây ra 
trong trường hợp này sẽ bao gồm: 
- Thiệt hại do ngập lụt; và Thiệt hại do các đồ 
vật trôi dạt gây ra. 
Quá trình gán trọng số được thực hiện bằng 
phương pháp phân tích đa tiêu chuẩn theo các bước 
đã mô tả trong mục 3. Biểu thức tương quan giữa 
các yếu tố ảnh hưởng nhận được trong trường hợp 
này có dạng: 
PVC =0.317d + 0.317c + 0.293g + 0.07126m (8) 
Từ (7) và (8) ta có: 
VNG= KE.SNĐ(0.317d+0.317c+0.293g+0.07126m) (9) 
Như vậy, công thức tính mức độ tổn thương cho 
tham số “Người” trong trường hợp sóng thần tấn 
công ban ngày là: 
và trong trường hợp sóng thần tấn công ban đêm là: 
Các công thức (10) và (11) được sử dụng để tính 
mức độ tổn thương cho tham số “Người” trong hai 
thời điểm tấn công của sóng thần vào ban ngày và 
ban đêm. Các chương trình tính toán viết trên ngôn 
ngữ Avenue được áp dụng cho từng đơn vị tham 
chiếu tương đương cấp phường tại khu vực nghiên 
cứu. Các giá trị VNGN và VNGNGĐ được xếp thành ba 
mức độ : cao, trung bình, thấp và được thể hiện trên 
bản đồ mức độ tổn thương về người do sóng thần. 
4.4. Các bản đồ kết quả 
Các bản đồ kết quả được thể hiện trên môi trường 
đồ họa của phần mềm ArcView GIS. Trên hình 2 
minh họa bản đồ mức độ tổn thương nhà cửa do sóng 
thần gây ra tại khu vực đô thị ven biển thành phố 
Nha Trang. Từ hình 2, có thể nhận thấy nguy cơ tổn 
thương nhà cửa cao nhất tập trung tại khu vực cửa 
sông Cái, đặc biệt là trên cù lao Dê nằm sát biển, nơi 
tập trung nhiều nhà cấp 4 và phải đối mặt với sóng 
thần từ biển ập vào qua một cửa sông hẹp. 
Hình 2. Bản đồ dự báo mức độ tổn thương 
nhà cửa do sóng thần gây ra tại khu vực đô thị 
ven biển thành phố Nha Trang 
VNGĐ= KE.(VNC/10 + ½)(0.317 d + 
+0.317c + 0.293g + 0.07126m) 
 (11) 
VNGN=KE.(VNC/10+½)(0.317d+ 
+0.317c+0.293g +0.07126m) (10) 
 8
Formatted: Font: 11 pt
Formatted: Position: Horizontal:
Inside, Relative to: Margin
Formatted: Indent: First line: 0.63
cm
Các bản đồ mức độ tổn thương về người do 
sóng thần gây ra tại hai thời điểm ngày và đêm 
được minh họa trên các hình 3a và 3b tương ứng. 
Các bản đồ trên hình 3 cho thấy nguy cơ thiệt hại 
về người tại hai thời điểm trong ngày là khác nhau. 
Khu vực sát bờ biển, nơi tập trung nhiều khách sạn, 
nhà cao tầng và được gia cố tốt lại có mức độ tổn 
thương thấp hơn so với khu dân cư thuộc các 
phường Phước Hòa, Vạn Thanh, nằm sâu hơn 
trong lục địa. 
Hình 3. Bản đồ dự báo mức độ tổn thương về người do sóng thần gây ra cho khu vực đô thị ven biển 
thành phố Nha Trang cho hai trường hợp ban ngày (a) và ban đêm (b) 
5. Kết luận 
Bài viết đề xuất một phương pháp luận mới 
được sử dụng trong việc đánh giá mức độ tổn 
thương do sóng thần cho khu vực đô thị ven biển 
của Việt Nam. Phương pháp luận được xây dựng 
dựa trên lý thuyết phân tích đa tiêu chuẩn, cho 
phép đánh giá bán định lượng nguy cơ tổn thương 
của một khu vực đô thị nằm trong vùng bị ảnh 
hưởng của sóng thần. Ưu điểm chính của phương 
pháp luận là đơn giản, linh hoạt đối với sự thay đổi 
các điều kiện cụ thể của khu vực nghiên cứu và cho 
phép sử dụng triệt để công cụ GIS trong mọi giai 
đoạn của quy trình đánh giá nguy cơ tổn thương. 
Quy trình có thể được áp dụng để đánh giá nguy cơ 
tổn thương cho một khu vực đô thị bất kỳ nằm 
trong vùng bị sóng thần đe dọa. 
Phương pháp luận được áp dụng thử nghiệm 
cho một khu vực đô thị ven biển của thành phố 
a b 
 9 
Formatted: Font: 11 pt
Formatted: Position: Horizontal:
Inside, Relative to: Margin
Formatted: Indent: First line: 0.63
cm
Nha Trang. Các kết quả cuối cùng được thể hiện 
trên môi trường GIS dưới dạng các bản đồ biểu thị 
mức độ tổn thương về nhà cửa và người tại khu 
vực nghiên cứu. Các kết quả cho thấy tính ưu việt 
và triển vọng của hướng nghiên cứu đánh giá rủi ro 
sóng thần, đồng thời cũng cung cấp những thông 
tin bổ ích cho công tác cảnh báo sóng thần và 
hoạch định định chính sách phòng ngừa, ứng cứu 
và khắc phục hậu quả do sóng thần gây ra với cộng 
đồng ven biển. 
TÀI LIỆU DẪN 
[1] Vũ Thanh Ca, 2008: Xây dựng bản đồ 
cảnh báo nguy cơ sóng thần cho các vùng bờ biển 
Việt Nam, Báo cáo tổng kết Đề tài cấp Bộ TNMT 
năm 2006-2008. 
[2] Papathoma M. and Dominey Howes D., 
2003: Tsunami vulnerability assessment and its 
implications for coastal hazard analysis and 
disaster management planning, Gulf of Corinth, 
Greece. Natural Hazards and Earth System 
Sciences, 3, pp.733-747. 
[3] Post J.,Zosseder S., Weigcheider S., 
Sieinmetz T., Riedliger T., Strunz G., Mehl H., 
Dech S., Birkmann J., Gebert N., Anwar H. Z., and 
Harjono H., 2008: Risk assessment to low 
frequency - high impact coastal hazard in 
Indonesia : Integrating tsunami hazard and 
vulnerability assessment in the context of early 
warning. Proceedings of the International 
Conference on Tsunami Warning (ICTW), Bali, 
Indonesia, 12-14, 2008. 
[4] Nguyễn Hồng Phương, Bùi Công Quế, 
Nguyễn Đình Xuyên, 2010: Khảo sát các vùng
nguồn sóng thần có khả năng gây nguy hiểm tới 
vùng bờ biển Việt Nam. Tạp chí các Khoa học về 
Trái Đất, 32(1), 36-47. 
[5] Bùi Công Quế, 2010: Nghiên cứu đánh giá 
độ nguy hiểm động đất và sóng thần ở vùng bờ 
biển Việt Nam và đề xuất các giải pháp phòng 
tránh. Báo cáo tổng kết đề tài nghiên cứu khoa học 
công nghệ cấp Nhà nước, Viện Vật lý Địa cầu. 
[6] Trần Thị Mỹ Thành, 2009: Quy trình công 
nghệ đánh giá độ nguy hiểm sóng thần và cảnh báo 
nguy cơ sóng thần trên vùng ven biển Việt Nam 
(phù hợp yêu cầu của Hệ thống cảnh báo khu vực), 
Báo cáo tổng kết Đề tài độc lập cấp Viện KH&CN 
Việt Nam năm 2007-2008. 
[7] Phạm Văn Thục, 1995: Bước đầu đánh giá 
ảnh hưởng của sóng thần ở Biển Đông đến bờ biển 
Việt Nam, Các công trình nghiên cứu địa chất và 
địa vật lý biển, Nxb Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội. 
[8] Nguyễn Đình Xuyên, 2007: Nghiên cứu 
đánh giá độ nguy hiểm động đất và sóng thần vùng 
ven biển Việt Nam, đề xuất các biện pháp cảnh báo 
và phòng tránh. Báo cáo tổng kết Đề tài cấp Viện 
KH&CN Việt Nam năm 2005-2006. 
[9] Department for Communities and Local 
Government: London, 2009 : Multi-criteria analysis: 
a manual, 161p. 
[10] Italian Ministry for the Environment and 
Territory, 2005: CRATER (Coastal Risk Aanalysis 
of Tsunamis and Environmental Remediation. 
Final report extract. 
[11] Bách khoa toàn thư mở Wikipedia, tiếng 
Việt.  
SUMMARY 
Assessment of tsunami vulnerability for an urban area of Nha Trang city 
In this paper a new methodology for tsunami vulnerability assessment for Vietnam is proposed. Based on Multi-Criteria 
analysis technique, the methodology allows semi-quantitatively assess the vulnerability of a coastal urban area being affected by 
future tsunamis. The advantage of the methodology is simplicity, flexible to the changes of conditions of reality and allowing 
application of a Geographic Information System (GIS). The procedure can be applied to any coastal zone under tsunami threat. 
The methodology is pilot tested in a coastal urban area of Nha Trang city. The results are presented within a GIS in terms of 
vulnerability maps for such aspects as building environment and population. The results show prospects in the new direction of 
tsunami risk study in Vietnam and provide important implications for coastal risk assessment, resource allocation as well as 
disaster management planning. 

File đính kèm:

  • pdfdanh_gia_nguy_co_bi_ton_thuong_do_song_than_cho_khu_vuc_do_t.pdf