Đặc điểm nguồn gốc trầm tích khu vực tây nam biển Đông

Khu vực tây nam biển Đông là một khu vực có tầm quan trọng lớn trong

nghiên cứu địa chất biển và đã nhận được nhiều sự quan tâm của các nhà

khoa học. Trong nghiên cứu này, kết quả phân tích tổ hợp khoáng vật sét từ

các lỗ khoan ở khu vực phía tây nam biển Đông trong các nghiên cứu trước

đây được tổng hợp và tái xử lý sâu hơn để đánh giá đặc điểm nguồn gốc trầm

tích của khu vực này. Kết quả nghiên cứu cho thấy trầm tích khu vực tây nam

biển Đông chứa nhiều khoáng vật sét smectit có hàm lượng thay đổi từ

11÷58%, hàm lượng illit từ 19÷45%, ít hơn là khoáng vật clorit từ 10÷25%

và khoáng vật sét kaolinit từ 11÷29%. Phân tích tổ hợp khoáng vật sét cho

thấy sông Mekong là nơi cung cấp chủ yếu vật liệu trầm tích cho khu vực

phía tây nam biển Đông. Illit và chlorit là sản phẩm của quá trình phong hóa

vật lý từ các đá biến chất ở cao nguyên Tây Tạng. Trong khi đó, khoáng vật

kaolinit được vận chuyển đến khu vực nghiên cứu thông qua quá trình xói

mòn từ các sản phẩm phong hóa của thành tạo địa chất giàu feldspat kali ở

phần trung tâm của lưu vực sông Mekong. Tuy nhiên, khoáng vật smectit

được hình thành từ quá trình phong hóa của các đá giàu thành phần bazơ

ở phần trung và hạ lưu lưu vực sông Mekong.

Đặc điểm nguồn gốc trầm tích khu vực tây nam biển Đông trang 1

Trang 1

Đặc điểm nguồn gốc trầm tích khu vực tây nam biển Đông trang 2

Trang 2

Đặc điểm nguồn gốc trầm tích khu vực tây nam biển Đông trang 3

Trang 3

Đặc điểm nguồn gốc trầm tích khu vực tây nam biển Đông trang 4

Trang 4

Đặc điểm nguồn gốc trầm tích khu vực tây nam biển Đông trang 5

Trang 5

Đặc điểm nguồn gốc trầm tích khu vực tây nam biển Đông trang 6

Trang 6

Đặc điểm nguồn gốc trầm tích khu vực tây nam biển Đông trang 7

Trang 7

Đặc điểm nguồn gốc trầm tích khu vực tây nam biển Đông trang 8

Trang 8

Đặc điểm nguồn gốc trầm tích khu vực tây nam biển Đông trang 9

Trang 9

pdf 9 trang viethung 5900
Bạn đang xem tài liệu "Đặc điểm nguồn gốc trầm tích khu vực tây nam biển Đông", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Đặc điểm nguồn gốc trầm tích khu vực tây nam biển Đông

Đặc điểm nguồn gốc trầm tích khu vực tây nam biển Đông
 Journal of Mining and Earth Sciences Vol. 61, Issue 5 (2020) 11 - 19 11 
A review on the characterization of sediment 
provenance sources in the southwestern East Sea 
Sang Nhu Pham 1,*, Bat Van Dang 2, Hiep Huu Nguyen 1, Chi Kim Thi Ngo1, Binh Van 
Phan 1 
1 Faculty of Geosciences and Geoengineering, Hanoi University of Mining and Geology, Vietnam 
2 Vietnam Union of Geological Sciences, Vietnam 
ARTICLE INFO 
ABSTRACT 
Article history: 
Received 19th Aug. 2020 
Accepted 03rd Sept. 2020 
Available online 31st Oct. 2020 
 Characteristics of sediment provenance in the southwestern East Sea The 
southwestern East Sea is a significant area for investigating marine 
geology and it has drawn many attentions from geoscientists. In this 
study, clay mineral assemblages of some sediment cores derived from the 
southwestern East Sea, which were conducted in previous studies were 
used to review characterization of sediment provenance in this area. 
Sediment compositions in the southwestern East Sea consist mostly of 
smectite (11÷58%), illite (19÷45%), and less abundance kaolinite 
(11÷29%), chlorite (10÷25%). Based on clay mineral assemblages, 
provenance analysis indicates that the Mekong River can mainly 
transport terrigenous sediments to the southwestern East Sea. Illite and 
chlorite have likely been reduced by physical weathering of the 
metamorphic and granitic rocks in the Tibetan Plateau. Kaolinite has 
primarily been released by chemical erosion of the K-feldspar rich bed 
rocks in the middle part of the Mekong Basin. However, smectite has been 
basically derived by chemical weathering of the parent basaltic rock in 
the middle to lower reaches of the Mekong Basin. 
Copyright © 2020 Hanoi University of Mining and Geology. All rights reserved. 
Keywords: 
Chemical weathering, 
Clay mineral, 
East Sea, 
Mekong River, 
Physical weathering, 
Sediment provenance. 
_____________________ 
*Corresponding author 
E - mail: phamnhusang@humg.edu.vn 
DOI: 10.46326/JMES.2020.61(5).02 
12 Tạp chí Khoa học Kỹ thuật Mỏ - Địa chất Tập 61, Kỳ 5 (2020) 11 - 19 
Đặc điểm nguồn gốc trầm tích khu vực tây nam biển Đông 
Phạm Như Sang 1,*, Đặng Văn Bát 2, Nguyễn Hữu Hiệp 1, Ngô Thị Kim Chi 1, Phan 
Văn Bình 1 
1 Khoa Khoa học và Kỹ thuật Địa chất, Trường Đại học Mỏ - Địa chất, Việt Nam 
2 Tổng hội địa chất Việt Nam, Việt Nam 
THÔNG TIN BÀI BÁO 
TÓM TẮT 
Quá trình: 
Nhận bài 18/8/2020 
Chấp nhận 13/9/2020 
Đăng online 31/10/2020 
 Khu vực tây nam biển Đông là một khu vực có tầm quan trọng lớn trong 
nghiên cứu địa chất biển và đã nhận được nhiều sự quan tâm của các nhà 
khoa học. Trong nghiên cứu này, kết quả phân tích tổ hợp khoáng vật sét từ 
các lỗ khoan ở khu vực phía tây nam biển Đông trong các nghiên cứu trước 
đây được tổng hợp và tái xử lý sâu hơn để đánh giá đặc điểm nguồn gốc trầm 
tích của khu vực này. Kết quả nghiên cứu cho thấy trầm tích khu vực tây nam 
biển Đông chứa nhiều khoáng vật sét smectit có hàm lượng thay đổi từ 
11÷58%, hàm lượng illit từ 19÷45%, ít hơn là khoáng vật clorit từ 10÷25% 
và khoáng vật sét kaolinit từ 11÷29%. Phân tích tổ hợp khoáng vật sét cho 
thấy sông Mekong là nơi cung cấp chủ yếu vật liệu trầm tích cho khu vực 
phía tây nam biển Đông. Illit và chlorit là sản phẩm của quá trình phong hóa 
vật lý từ các đá biến chất ở cao nguyên Tây Tạng. Trong khi đó, khoáng vật 
kaolinit được vận chuyển đến khu vực nghiên cứu thông qua quá trình xói 
mòn từ các sản phẩm phong hóa của thành tạo địa chất giàu feldspat kali ở 
phần trung tâm của lưu vực sông Mekong. Tuy nhiên, khoáng vật smectit 
được hình thành từ quá trình phong hóa của các đá giàu thành phần bazơ 
ở phần trung và hạ lưu lưu vực sông Mekong. 
© 2020 Trường Đại học Mỏ - Địa chất. Tất cả các quyền được bảo đảm. 
Từ khóa: 
Biển Đông, 
Khoáng vật sét, 
Nguồn gốc trầm tích, 
Phong hóa hóa học, 
Phong hóa vật lý, 
Sông Mekong. 
1. Mở đầu 
Nguồn gốc trầm tích là một thành phần quan 
trọng trong nghiên cứu quá trình trầm tích dưới 
biển. Trong hướng nghiên cứu này, đặc trưng sự 
hình của khoáng vật sét thường được coi là những 
công cụ hiệu quả để xác định nơi nào chúng được 
sinh ra và môi trường cổ địa lý liên quan không chỉ 
dưới đại dương mà còn cả trên đất liền (Colin và 
nnk., 2006; Liu và nnk., 2004, 2005, 2007b; Sang 
và nnk., 2019). Khoáng vật sét được hình thành 
trong quá trình phong hóa và chịu ảnh hưởng 
mạnh mẽ của điều kiện khí hậu, thành phần thạch 
học và hoạt động kiến tạo (Chamley, 1989). Đá gốc 
ở mỗi lưu vực sông thường chịu ảnh hưởng của 
các quá trình bién đỏi khí hậu và hoạt động kiến 
tạo khác nhau làm cho sản phẩm phong hóa của 
chúng cũng không giống nhau (Selvaraj và Chen, 
2006; Wang và nnk., 2011; Liu và nnk., 2007a, 
2008, 2009, 2012; Hu và nnk., 2014; Jonell và nnk., 
2016; Sang và nnk., 2018). Do đó, sự hình thành 
_____________________ 
*Tác giả liên hệ 
E - mail: phamnhusang@humg.edu.vn 
DOI: 10.46326/JMES.2020.61(5).02 
 Phạm Như Sang và nnk./Tạp chí Khoa học Kỹ thuật Mỏ - Địa chất 61 (5), 11 - 19 13 
của khoáng vật sét thường mang đặc trưng cho 
từng lưu vực sông. Dựa vào những đặc trưng của 
tổ hợp khoáng vật sét trong trầm tích mà chúng đã 
được sử dụng rộng rãi để xác định nguồn gốc nơi 
chúng được sinh ra. 
Đông Nam Á là khu vực cung cấp lượng lớn sản 
phẩm phong hóa cho trầm tích biển Đông và sản 
phẩn này được sử dụng rộng rãi trong nghiên cứu 
môi trường cổ địa lý trên bề mặt trái đất và dưới 
đại dương (Milliman và nnk., 1999; Clift và nnk., 
2014; Liu và nnk., 2004, 2007a, 2012; Huang và 
nnk., 2016). Trong khu vực này sông Mekong 
được coi là nơi cung cấp nguồn vật liệu trầm tích 
quan trọng hàng đầu (Milliman và nnk., 1999; Liu 
và Stattegger, 2014; Hình 1). Sông Mekong dài 
4.350 km, bắt nguồn từ cao nguyên Tây Tạng của 
Trung Quốc và chảy qua một loạt các nước 
Mynama, Thái Lan, Lào, Campuchia và Việt Nam 
sau đó chúng đổ vào phía ... 
trước thì những khu vực này khoáng vật smectit 
cũng là khoáng vật phổ biến trong sản phẩm 
phong hóa ở bán đảo Sumatra, Mã Lai và Thái Lan. 
Có nghĩa là nếu khu vực này đóng góp nhiều 
kaolinit thì cũng đóng góp nhiều smectit. Tuy 
nhiên, sự biến đổi về thành phần của chúng lại 
không tương đồng với nhau ở thời kỳ băng hà và 
gian băng trong cả ba lỗ khoan (Liu và nnk., 2004; 
Jiwarungrueangkul và nnk., 2019; Hình 2). Do đó, 
smectit ở khu vực nghiên cứu không thể đến chủ 
yếu từ bán đảo Sumatra, Mã Lai và Thái Lan. Bên 
cạnh đó, các sông nhỏ thuộc khu vực Thái Lan 
trầm tích thường đổ vào vịnh Thái Lan và bị giữ 
lại, sự trao đổi khoáng vật sét giữa vịnh này và 
biển Đông là rất hạn chế (Liu và nnk., 2016; Hình 
1). Chính vì vậy, các nhà nghiên cứu trước đều đã 
cho rằng smectit và kaolinit đều đến từ sông 
Mekong và chịu ảnh hưởng chi phối của gió mùa 
Đông Á, bởi gió mùa này sẽ ảnh hưởng mạnh mẽ 
đến quá trình phong hóa ở lưu vực sông thông qua 
nhiệt độ và lượng mưa (Liu và nnk., 2004; Colin và 
nnk., 2010; Jiwarungrueangkul và nnk., 2019). 
Khoáng vật sét kaolinit thường được hình 
thành trong điều kiện nóng và ẩm và phụ thuộc 
mạnh mẽ vào hiện tượng thủy phân ở trên lưu vực 
sông (Chamley, 1989). Tuy nhiên, sự biến đổi 
thành phần khoáng vật sét kaonilit và illit cũng 
như clorit khá tương đồng trong cả hai thời kỳ 
Hình 3. Biểu đồ tam giác thể hiện sự phân bố tổ 
hợp khoáng vật sét của 3 lỗ khoan MD97-2150, 
MD01-2393 và SO18383-3 và các sông xung 
quanh khu vực này là sông Mekong, các sông nhỏ 
ở bán đảo Mã Lai, Sumatra, Borneo, và Thái Lan 
(Liu và nnk., 2004, 2005, 2007a, 2012, 2016; 
Jiwarungrueangkul và nnk., 2019). 
 Phạm Như Sang và nnk./Tạp chí Khoa học Kỹ thuật Mỏ - Địa chất 61 (5), 11 - 19 17 
băng hà và gian băng (Liu và nnk., 2004; 
Jiwarungrueangkul và nnk., 2019; Hình 2). Điều 
này chứng tỏ rằng, kaolinit ở khu vực nghiên cứu 
đến từ quá trình xói mòn từ các lớp trầm tích trên 
lưu vực sông Mekong có chứa kaolinit hàm lượng 
cao. Bên cạnh đó, khi mực nước biển thấp kaolinit 
có thể đến từ thệm lục địa bị phơi ra trong thời kỳ 
này. Do đó, sự biến đổi thành phần khoáng vật sét 
kaolinit ở 3 lỗ khoan này chủ yếu phản ánh quá 
trình xói mòn ở lưu vực sông Mekong. Smectit là 
khoáng vật thứ sinh và chúng thường được sinh ra 
trong quá trình phong hóa hóa học từ các đá có 
thành phần bazơ dưới điều kiện thời tiết ấm và ẩm 
(Chamley, 1989). Sự biến đổi của khoáng vật sét 
smectit ở trong thời kỳ băng hà và gian băng là 
khác và tương đối đối lập với sự biến đổi của cả 3 
khoáng vật illit, clorit và kaolinit (Liu và nnk., 
2004; Jiwarungrueangkul và nnk., 2019; Hình 2). 
Điều đó cho thấy, smectit ở khu vực phía tây nam 
biển Đông không đến từ quá trình xói mòn và quá 
trình phong hóa vật lý, mà nó phải để từ quá trình 
phong hóa hóa học ở lưu vực sông Mekong. Ở lưu 
vực này, các sản phẩm phong hóa từ đá bazan xuất 
hiện phổ biến ở phần trung tâm lưu vực và phần 
hạ lưu, đây chính là nguồn gốc tiềm năng của 
khoáng vật sét smectit. 
4. Kết luận 
Tổ hợp khoáng vật sét từ 3 lỗ khoan trầm tích 
MD01-2393, MD97-2150 và SO18383-3 ở khu 
vực tây nam biển Đông được sử dụng trong 
nghiên cứu để đánh giá tổng quan về đặc điểm 
nguồn gốc trầm tích khu vực này. Qua nghiên cứu 
này có thể đưa ra những kết luận sau: 
Thành phần khoáng vật sét trong trầm tích 
gồm chủ yếu khoáng vật sét smectit từ 11÷58%, 
khoáng vật sét illit từ 19÷45%, và ít hơn là khoáng 
vật sét clorit từ 10÷25%, khoáng vật sét kaolinit 
từ 11÷29%. 
Sông Mekong là nguồn cung cấp chủ yếu vật 
liệu trầm tích cho khu vực phía tây nam biển Đông 
trong cả thời kỳ băng hà và gian băng. Sự thay đổi 
của khoáng vật sét ở khu vực này có thể do sự biến 
đổi của điều kiện thời tiết trên lưu vực sông 
Mekong tác động đến quá trình phong hóa và xói 
mòn ở lưu vực này. 
Khoáng vật sét illit và clorit ở phía tây nam biển 
Đông được hình thành chủ yếu từ quá trình phong 
hóa vật lý từ các đá biến chất và đá granit ở cao 
nguyên Tây Tạng thuộc lưu vực sông Mekong. 
Khoáng vật kaolinit được vận chuyển đến khu vực 
tây nam biển Đông bởi quá trình xói mòn của các 
sản phẩm phong hóa giàu kaolinit ở phần trung 
tâm lưu vực sông Mekong. Trong khi đó, khoáng 
vật smectit được hình thành bởi quá trình phong 
hóa hóa học các đá giàu thành phần bazơ trong 
điều kiện ấm và ẩm ở phần trung tâm và phần hạ 
lưu lưu vực sông Mekong. 
Lời cảm ơn 
Để hoàn thành được bài báo này nhóm tác giả 
xin gửi lời cảm ơn tới các nhà khoa học như Zhifei 
Liu, Thanakorn Jiwarungrueangkul và Christophe 
Colin về những tài liệu quý giá trong khu vực tây 
nam biển Đông. Nhóm nghiên cứu xin cảm ơn sự 
giúp đỡ và tạo điều kiện vô cùng quý báu của các 
thầy cô trong Khoa Khoa học và Kỹ thuật Địa chất, 
các Phòng Ban chức năng của Trường Đại học Mỏ 
- Địa chất đã tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình 
nghiên cứu của nhóm tác giả. Nghiên cứu này 
được tài trợ bởi Bộ Khoa học và Công nghệ Quốc 
gia trong đề tài mã số KC.09.30/16-20 do Trường 
Đại học Mỏ - Địa chất chủ trì. 
Tài liệu tham khảo 
Chamley, H., (1989). Clay Sedimentology. 
Springer, New York, 623 pages. 
Chen, Q., Liu, Z., Kissel, C., (2017). Clay 
mineralogical and geochemical proxies of the 
East Asian summer monsoon evolution in the 
South China Sea during Late Quaternary. 
Scientific Reports, 7, 42083. 
Clift, P. D., Wan, S., Blusztajn, J., (2014). 
Reconstructing chemical weathering, physical 
erosion and monsoon intensity since 25 Ma in 
the northern South China Sea: A review of 
competing proxies. Earth-Science Reviews, 130, 
86-102. 
Colin, C., Turpin, L., Blamart, D., Frank, N., Kissel, 
C., Duchamp, S., (2006). Evolution of 
weathering patterns in the Indo-Burman 
Ranges over the last 280 kyr: Effects of 
sediment provenance on 87Sr/86Sr ratios 
tracer. Geochemistry, Geophysics, Geosystems, 7, 
1-16. 
Colin, C., Siani, G., Sicre, M. A., Liu, Z., (2010). 
Impact of the East Asian monsoon rainfall 
changes on the erosion of the Mekong River 
18 Phạm Như Sang và nnk./Tạp chí Khoa học Kỹ thuật Mỏ - Địa chất 61 (5), 11 - 19 
basin over the past 25,000 yr. Marine Geology, 
271, 84-92. 
Diekmann, B., Petschick, R., Gingele, F. X., Futterer, 
D. K., Abelmann, A., Brathauer, U., Gersonde, R., 
Mackense, A., (1996). Clay mineral fluctuations 
in Late Quaternary sediments of the 
southeastern South Atlantic: Implications for 
past changes of deep water advection. In: 
Wefer, G., Berger, W. H., Siedler, G., Webb, D. 
(eds.), The South Atlantic: Present and Past 
Circulation. Springer-Verlag, Berlin, 621-644 
pages. 
Gingele, F. X., Müller, P. M., Schneider, R. R., (1998). 
Orbital forcing of freshwater input in the Zaire 
Fan area: Clay mineral evidence from the last 
200 kyr. Palaeogeography, Palaeoclimatology, 
Palaeoecology, 138, 17-26. 
Hanebuth, T. J. J., Voris, H. K., Yokoyama, Y., Saito, 
Y., Okuno, J., (2011). Formation and fate of 
sedimentary depocentres on Southeast Asia's 
Sunda Shelf over the past sea-level cycle and 
biogeographic implications. Earth‐Science 
Reviews, 104, 92-110. 
Huang, J., Jiang, F., Wan, S., Zhang, J., Li, A., Li, T., 
(2016). Terrigenous supplies variability over 
the past 22,000 yr in the southern South China 
Sea slope: Relation to sea level and monsoon 
rainfall changes. Journal of Asian Earth 
Sciences, 117, 317-327. 
Hu, B., Li, J., Cui, R., Wei, H., Zhao, J., Li, G., Fang, X., 
(2014). Clay mineralogy of the riverine 
sediments of Hainan Island, South China Sea: 
Implications for weathering and provenance. 
Journal of Asian Earth Sciences, 96, 84-92. 
Holtzapffel, T., (1985). Les minéraux argileux: 
préparation, analyse diffractométrique et 
determination. Society Géological Nord 
Publication, 12, 1-136. 
Jiwarungrueangkul, T., Liu, Z., Stattegger, K., Sang, 
P.N., (2019). Reconstructing chemical 
weathering intensity in the Mekong River 
basin since the Last Glacial Maximum. 
Paleoceanography and Paleoclimatology, 34, 1-
16. 
Jonell, T. N., Clift, P. D., Hoang, L. V., Hoang, T., 
Carter, A., Wittmann, H., Böning, P., Pahnke, K., 
Rittenour, T., (2016). Controls on erosion 
patterns and sediment transport in a 
monsoonal, tectonically quiescent drainage, 
Song Gianh, central Vietnam. Basin Research, 
29, 1-25. 
Li X. J., (2005). Sedimentary characteristics of the 
Western South China Sea and their variations 
since the Late Pleistocene. Dissertation for the 
Doctoral Degree (in Chinese), Tongji University, 
91 pages. 
Liu, Z., Colin, C., Trentesaux, A., Blamart, D., 
Bassinot, F., Siani, G., Sicre, M., (2004). 
Erosional history of the eastern Tibetan 
Plateau since 190 kyr ago: Clay mineralogical 
and geochemical investigations from the 
southwestern South China Sea. Marine 
Geology, 209, 1-18. 
Liu, Z., Colin, C., Trentesaux, A., Siani, G., Frank, N., 
Blamart, D., Farid, S., (2005). Late Quaternary 
climatic control on erosion and weathering in 
the eastern Tibetan Plateau and the Mekong 
Basin. Quaternary Research, 63, 316-328. 
Liu, Z., Colin, C., Huang, W., Phon, L. K., Tong, S., 
Chen, Z., Trentesaux, A., (2007a). Climatic and 
tectonic controls on weathering in south China 
and Indochina Peninsula: Clay mineralogical 
and geochemical investigations from the Pearl, 
Red, and Mekong drainage basins. 
Geochemistry, Geophysics, Geosystems, 8, 1-18. 
Liu, Z., Zhao, Y., Li, J., Colin, C., (2007b). Late 
Quaternary clay minerals off Middle Vietnam 
in the western South China Sea: Implications 
for source analysis and East Asian monsoon 
evolution. Science in China Series D-Earth 
Sciences, 50, 1674-1684. 
Liu, Z., Tuo, S., Colin, C., Liu, J.T., Huang, C.Y., 
Selvaraj, K., Chen, C. T. A., Zhao, Y., Siringan, F. 
P., Boulay, S., Chen, Z., (2008). Detrital fine-
grained sediment contribution from Taiwan to 
the northern South China Sea and its relation 
to regional ocean circulation. Marine Geology, 
255, 149-155. 
Liu, Z., Zhao, Y., Colin, C., Siringan, F. P., Wu, Q., 
(2009). Chemical weathering in Luzon, 
Philippines from clay mineralogy and major-
element geochemistry of river sediments. 
Applied Geochemistry, 24, 2195-2205. 
 Phạm Như Sang và nnk./Tạp chí Khoa học Kỹ thuật Mỏ - Địa chất 61 (5), 11 - 19 19 
Liu, Z., Wang, H., Hantoro, W. S., Sathiamurthy, E., 
Colin, C., Zhao, Y., Li, J., (2012). Climatic and 
tectonic controls on chemical weathering in 
tropical Southeast Asia (Malay Peninsula, 
Borneo, and Sumatra). Chemical Geology, 291, 
1-12. 
Liu, Z., Stattegger, K., (2014). South China Sea 
fluvial sediments: An introduction. Journal of 
Asian Earth Sciences, 79, 507-508. 
Liu, Z., Zhao, Y., Colin, C., Stattegger, K., Wiesner, 
M.G., Huh, C. A., Zhang, Y., Li, X., 
Sompongchaiyakul, P., You, C. F., Huang, C. Y., 
Liu, J. T., Siringan, F. P., Le, K. P., Sathiamurthy, 
E., Hantoro, W. S., Liu, J., Tuo, S., Zhao, S., Zhou, 
S., He, Z., Wang, Y., Bunsomboonsakul, S., Li, Y., 
(2016). Source-to-Sink transport processes of 
fluvial sediments in the South China Sea. Earth-
Science Reviews, 153, 238-273. 
Milliman, J. D., Meade, R. H., (1983). World-wide 
delivery of river sediment to the oceans. The 
Journal of Geology, 91, 1-21. 
Milliman, J. D., Syvitski, J. P. M., (1992). 
Geomorphic/tectonic control of sediment 
discharge to the ocean: the importance of small 
mountainous rivers. The Journal of Geology, 
100, 525-544. 
Milliman, J. D., Farnsworth, K. L., Albertin, C. S., 
(1999). Flux and fate of fluvial sediments 
leaving large islands in the East Indies. Journal 
of Sea Research, 41, 97-107. 
Milliman, J. D., Farnsworth, K. L., (2011). River 
Discharge to the Coastal Ocean: A Global 
Synthesis. Cambridge University Press, 
Cambridge, 382 pages. 
Petschick, R., (2000). MacDiff 4.2.2 [online] 
available at 
frankfurt. de/ Rainr.html [cited 1-12-2001]. 
Sang, P. N., Liu, Z., Stattegger, K., (2019). 
Weathering and erosion in central Vietnam 
over the Holocene and Younger Dryas: Clay 
mineralogy and elemental geochemistry from 
the Vietnam Shelf, western South China Sea. 
Journal of Asian Earth Sciences, 179, 1-10. 
Sang, P. N., Liu, Z., Zhao, Y., Zhao, X., Pha, P. D., Long, 
H. V., (2018). Chemical weathering in central 
Vietnam from clay mineralogy and major-
element geochemistry of sedimentary rocks 
and river sediments. Heliyon, 4, e00710. 
Sathiamurthy, E., Voris, K. H., (2006). Maps of 
Holocene sea level transgression and 
submerged lakes on the Sunda Shelf. The 
Natural History Journal of Chulalongkorn 
University, Supplement, 2, 1-44. 
Selvaraj, K., Chen, C. A., (2006). Moderate 
Chemical Weathering of Subtropical Taiwan: 
Constraints from Solid-Phase Geochemistry of 
Sediments and Sedimentary Rocks. The 
Journal of Geology, 114, 101-116. 
Steinke, S., Hanebuth, T. J. J., Vogt, C., Stattegger, K., 
(2008). Sea level induced variations in clay 
mineral composition in the southwestern 
South China Sea over the past 17,000 yr. 
Marine Geology, 250, 199-210. 
Voris, H. K., (2000). Maps of Pleistocene sea levels 
in Southeast Asia: Shorelines, river systems 
and time durations. Journal of Biogeography, 
27, 1153-1167. 
Wang, H., Liu, Z., Edlic, S., Colin, C., L. I., J., Zhao, Y., 
(2011). Chemical weathering in Malay 
Peninsula and North Borneo: Clay mineralogy 
and element geochemistry of river surface 
sediments. Science China Earth Sciences, 54, 
272-282. 
Wang, J., Li, A., Xu, K., Zheng, X., Huang, J., (2015). 
Clay mineral and grain size studies of sediment 
provenances and paleoenvironment evolution 
in the middle Okinawa Trough since 17 ka. 
Marine Geology, 366, 49-61. 
Wehausen, R., Tian, J., Brumsack, H., Cheng, X., 
Wang, P., (2003). Geochemistry of Pliocene 
sediments from ODP Site 1143 (Southern 
South China Sea). Proceeding of the Ocean 
Drilling Program, Scientific Results, 184, 1-25. 

File đính kèm:

  • pdfdac_diem_nguon_goc_tram_tich_khu_vuc_tay_nam_bien_dong.pdf