Đánh giá khả năng xuất hiện dòng tách bờ tại khu vực bãi biển Quy Nhơn, Bình Định

Dòng tách bờ (RIP current) là một dòng nước mạnh, phổ biến ở các bãi biển tại Việt Nam

cũng như thế giới, có hướng từ bờ ra khơi. Đây là một dòng chảy nguy hiểm, mỗi năm đều có những

tai nạn đáng tiếc xảy ra với người tắm biển. Nghiên cứu này đã sử dụng nguồn số liệu thực đo do

Trung tâm Động lực học-Thủy khí-Môi trường thực hiện năm 2018 phục vụ việc ứng dụng bộ mô

hình MIKE 21 Coupled mô phỏng trường thủy động lực và dòng tách bờ tại khu vực bãi biển Quy

Nhơn. Thông qua các kịch bản tính toán trong các điều kiện khác nhau, cho thấy khu vực gần công

viên vui chơi (đường An Dương Vương) và khu vực phía nam cuối bãi biển Quy Nhơn có khả năng

xuất hiện dòng tách bờ vào mùa gió Đông Bắc. Vào mùa gió Tây Nam, cường độ dòng tách bờ

mạnh, xuất hiện gần khu vực tượng đài Chiến Thắng. Các khu vực này thường tập trung đông người

dân địa phương và khách du lịch tắm biển nên cần chú ý tránh các tai nạn đáng tiếc có thể xảy ra.

Đánh giá khả năng xuất hiện dòng tách bờ tại khu vực bãi biển Quy Nhơn, Bình Định trang 1

Trang 1

Đánh giá khả năng xuất hiện dòng tách bờ tại khu vực bãi biển Quy Nhơn, Bình Định trang 2

Trang 2

Đánh giá khả năng xuất hiện dòng tách bờ tại khu vực bãi biển Quy Nhơn, Bình Định trang 3

Trang 3

Đánh giá khả năng xuất hiện dòng tách bờ tại khu vực bãi biển Quy Nhơn, Bình Định trang 4

Trang 4

Đánh giá khả năng xuất hiện dòng tách bờ tại khu vực bãi biển Quy Nhơn, Bình Định trang 5

Trang 5

Đánh giá khả năng xuất hiện dòng tách bờ tại khu vực bãi biển Quy Nhơn, Bình Định trang 6

Trang 6

Đánh giá khả năng xuất hiện dòng tách bờ tại khu vực bãi biển Quy Nhơn, Bình Định trang 7

Trang 7

Đánh giá khả năng xuất hiện dòng tách bờ tại khu vực bãi biển Quy Nhơn, Bình Định trang 8

Trang 8

Đánh giá khả năng xuất hiện dòng tách bờ tại khu vực bãi biển Quy Nhơn, Bình Định trang 9

Trang 9

Đánh giá khả năng xuất hiện dòng tách bờ tại khu vực bãi biển Quy Nhơn, Bình Định trang 10

Trang 10

Tải về để xem bản đầy đủ

pdf 14 trang viethung 2780
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Đánh giá khả năng xuất hiện dòng tách bờ tại khu vực bãi biển Quy Nhơn, Bình Định", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Đánh giá khả năng xuất hiện dòng tách bờ tại khu vực bãi biển Quy Nhơn, Bình Định

Đánh giá khả năng xuất hiện dòng tách bờ tại khu vực bãi biển Quy Nhơn, Bình Định
VNU Journal of Science: Earth and Environmental Sciences, Vol. 35, No. 4 (2019) 34-47 
34 
Original Article 
Assessing the Possibility of Appearing RIP Current 
at Quy Nhon Beach, Binh Dinh Province 
Nguyen Xuan Loc , Dang Dinh Duc 
Center for Environmental Fluid Dynamics, VNU University of Science, 334 Nguyen Trai, Hanoi, Vietnam 
Received 09 July 2019 
Revised 09 November 2019; Accepted 25 November 2019 
Abstract: RIP current is a strong, popular water flow at beaches in Vietnam as well as in the world, 
with the direction of flow from the shore to the sea. This is a dangerous flow, each year there are 
unfortunate accidents for swimmers. This study used the measured data source implemented by the 
Center for Environmental Fluid Dynamics in 2018 to build the model MIKE 21 Coupled for 
simulating the hydrodynamic field and the rip current at Quy Nhon beach area. Through calculation 
scenarios under different conditions show that, the area near the amusement park (An Duong Vuong 
road) and the southern-most area of Quy Nhon beach are likely to appear rip current in the northeast 
monsoon season. In the southwest monsoon season, the intensity of the rip current is strong, 
appearing near the Victory Monument area. These areas are often crowded by swimmers with local 
people and tourists, so pay attention to avoid accidents that may happen. 
Keywords: Quy Nhon beach, rip current, swimmer.
________ 
 Corresponding author. 
 E-mail address: nxloc@hus.edu.vn 
 https://doi.org/10.25073/2588-1094/vnuees.4416 
VNU Journal of Science: Earth and Environmental Sciences, Vol. 35, No. 4 (2019) 34-47 
 35 
Đánh giá khả năng xuất hiện dòng tách bờ 
tại khu vực bãi biển Quy Nhơn, Bình Định 
Nguyễn Xuân Lộc , Đặng Đình Đức 
Trung tâm Động lực học Thủy khí Môi trường, Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, ĐHQGHN, 
334 Nguyễn Trãi, Hà Nội, Việt Nam 
Nhận ngày 09 tháng 7 năm 2019 
Chỉnh sửa ngày 09 tháng 11 năm 2019; Chấp nhận đăng ngày 25 tháng 11 năm 2019 
Tóm tắt: Dòng tách bờ (RIP current) là một dòng nước mạnh, phổ biến ở các bãi biển tại Việt Nam 
cũng như thế giới, có hướng từ bờ ra khơi. Đây là một dòng chảy nguy hiểm, mỗi năm đều có những 
tai nạn đáng tiếc xảy ra với người tắm biển. Nghiên cứu này đã sử dụng nguồn số liệu thực đo do 
Trung tâm Động lực học-Thủy khí-Môi trường thực hiện năm 2018 phục vụ việc ứng dụng bộ mô 
hình MIKE 21 Coupled mô phỏng trường thủy động lực và dòng tách bờ tại khu vực bãi biển Quy 
Nhơn. Thông qua các kịch bản tính toán trong các điều kiện khác nhau, cho thấy khu vực gần công 
viên vui chơi (đường An Dương Vương) và khu vực phía nam cuối bãi biển Quy Nhơn có khả năng 
xuất hiện dòng tách bờ vào mùa gió Đông Bắc. Vào mùa gió Tây Nam, cường độ dòng tách bờ 
mạnh, xuất hiện gần khu vực tượng đài Chiến Thắng. Các khu vực này thường tập trung đông người 
dân địa phương và khách du lịch tắm biển nên cần chú ý tránh các tai nạn đáng tiếc có thể xảy ra. 
Từ khóa: Bãi biển Quy Nhơn, rip current, người tắm biển. 
1. Mở đầu 
Dọc bờ biển Việt Nam có nhiều bãi tắm đẹp 
nhưng những bãi tắm này đã xảy ra nhiều tai nạn 
đáng tiếc mà một trong các nguyên nhân là dòng 
tách bờ (DTB) tiếng Anh gọi là rip current gây 
ra. Dòng chảy này có hướng vuông góc với bờ 
và vận tốc dòng khá lớn, có thể khiến một người 
bơi giỏi cũng không thể bơi ngược vào bờ được. 
DTB được hình thành chủ yếu phụ thuộc vào các 
đặc trưng sóng, thủy triều, địa hình đáy đới sát 
bờ...Với nguyên nhân hình thành chính bởi sóng, 
do đó trong điều kiện tự nhiên, DTB cũng có xu 
________ 
 Tác giả liên hệ. 
 Địa chỉ email: nxloc@hus.edu.vn 
 https://doi.org/10.25073/2588-1094/vnuees.4416 
hướng xảy ra ngẫu nhiên và biến động lớn trong 
quá trình hình thành. Bởi tính ngẫu nhiên và phụ 
thuộc vào nhiều yếu tố như vậy, đã có nhiều 
nghiên cứu khác nhau trong và ngoài nước [1-8] 
nhằm làm sáng tỏ nguyên nhân, cơ chế hình 
thành và dự báo dòng chảy này như: các nghiên 
cứu ban đầu trong phòng thí nghiệm đã được 
Bowen và Inman thực hiện từ năm 1969 [1, 2], 
Horikawa và Sasaki (1972) [3] là những người 
đầu tiên nghiên cứu DTB khi dùng khí cầu và 
máy bay trực thăng có gắn máy quay phim vật 
thể trôi để nghiên cứu DTB. Cùng năm, Edward 
K. Noda đã áp dụng mô hình dòng chảy do sóng 
N.X. Loc, D.D. Duc / VNU Journal of Science: Earth and Environmental Sciences, Vol. 35, No. 4 (2019) 34-47 
36 
tại đới sóng đổ nhào để nghiên cứu DTB [4]. 
Năm 1990, Zyserman et al. giới thiệu phương 
pháp xác định kích thước của DTB [5]. Kế đến, 
Sorensen et al. (1998) sử dụng mô hình số trị để 
mô phỏng quá trình hình thành DTB [6]. Thời 
gian gần đây, các nghiên cứu chủ yếu sử dụng 
các hệ thống mô hình kết hợp hoặc nhiều mô 
hình riêng lẻ để mô phỏng DTB trong điều kiện 
thủy động lực khác nhau cũng như quá trình 
tương tác giữa chúng. Ở Việt Nam đã cũng có 
nhiều nghiên cứu khác nhau về DTB. Một trong 
những nghiên cứu đầu tiên là của Nguyễn Bá 
Xuân (2009) khi phân tích các đặc điểm của 
DTB cho toàn dải Nam Trung Bộ. Tiếp đến Lê 
Đình Mầu và cộng sự (2012) đã tiến hành điều 
tra, nghiên cứu nguyên nhân cơ chế hình thành 
DTB dựa trên số liệu đo đạc, khảo sát thực địa. 
Ngoài ra, đã có những nghiên cứu DTB cho các 
khu vực khác như nghiên cứu tính toán dòng Rip 
khu vực Nha Trang [7] hay mô phỏng dòng rip 
tại khu vực Nhơn Lý, Bình Định [8]. Tuy nhiên 
các kết quả này chưa đủ chi tiết và ứng dụng còn 
hạn chế. Bài báo này sẽ trình bày khả năng ứng 
dụng mô hình toán để mô phỏng DTB và ứng 
dụng dự báo sự xuất hiện dòng chảy này cho khu 
vực bãi biển Quy Nhơn, tỉnh Bình Định. 
Hình 1. Khu vực bãi biển Quy Nhơn. 
2. Tài liệu và phương pháp 
2.1. Khảo sát thực địa và thu thập số liệu 
Bãi biển Quy Nhơn dài 5 km là bãi biển có 
độ dốc không quá lớn, nằm trong khu vực khuất 
gió được che chắn bởi bán đảo Phương Mai có 
địa hình dạng đón sóng có hướng từ Đông- Đông 
Bắc đến Nam - Đông Nam, bất kể dù là vào mùa 
gió Đông Bắc hay Tây Nam. Do  ... 1 0,01 2,26 
>= 5,50 0,01 0,03 0,00 0,00 0,00 0,00 0,00 0,00 0,03 
Tổng (%) 1,97 50,05 11,77 7,94 19,09 8,50 0,42 0,25 100 
Hình 2. Độ cao sóng trong đợt khảo sát thứ nhất (16-23/1/2018) 
N.X. Loc, D.D. Duc / VNU Journal of Science: Earth and Environmental Sciences, Vol. 35, No. 4 (2019) 34-47 
38 
Hình 3. Hoa sóng trong đợt khảo sát thứ nhất (16-23/1/2018). 
Hình 4. Độ cao sóng trong đợt khảo sát thứ hai (27/3-4/4/2018). 
Hình 5. Hoa sóng trong đợt khảo sát thứ hai (27/3-4/4/2018). 
Hình 6. Mực nước tại cửa đầm trong đợt khảo sát thứ nhất (16-23/1/2018). 
N.X. Loc, D.D. Duc / VNU Journal of Science: Earth and Environmental Sciences, Vol. 35, No. 4 (2019) 34-47 
39 
Hình 7. Mực nước tại cửa đầm trong đợt khảo sát thứ hai (27/3-4/4/2018). 
Hình 8. Lưới tính toán của khu vực nghiên cứu. 
Kết quả đo đạc cho thấy, trong đợt khảo sát 
thứ nhất, độ cao sóng trung bình khoảng 0,51m 
(hình 3), hướng sóng chủ đạo là hướng Đông 
Nam (hình 4); Mực nước tại khu vực cửa đầm 
trong đợt 1 lớn nhất là 0,484m vào 10h 
18/1/2018 và thấp nhất là -0,906m vào 7h 
19/1/2018 (hình 7). Trong đợt khảo sát thứ hai, 
độ cao sóng trung bình là 0,27m (hình 5), hướng 
sóng chủ đạo là Nam và Đông Nam (hình 6); 
mực nước tại khu vực cửa đầm lớn nhất là 
0,301m vào 18h 28/3/2018 và thấp nhất là -
0,799m vào 2h 29/3/2018. 
2.2. Xây dựng mô hình toán 
Trường dòng chảy tổng cộng vùng ven biển 
thành phố Quy Nhơn được mô phỏng bởi mô 
hình MIKE 21/3 với hai mô đun HD và SW do 
Viện Thủy lực Đan Mạch xây dựng. Đây là kết 
quả mô phỏng của mô hình được hiệu chỉnh kiểm 
định qua số liệu thực đo thông qua hai đợt khảo 
sát do CEFD thực hiện. 
Hình 10. Địa hình khu vực nghiên cứu. 
Xây dựng lưới tính và thiết lập mô hình tính 
toán trên cơ sở cân đối về thời gian tính toán, 
phạm vi tính toán, độ chi tiết địa hình, độ phân 
giải lưới tính và xu thế phù hợp bản chất vật lý 
N.X. Loc, D.D. Duc / VNU Journal of Science: Earth and Environmental Sciences, Vol. 35, No. 4 (2019) 34-47 
40 
của các quá trình thủy động lực vùng ven bờ. Căn 
cứ trên mục tiêu và nghiên cứu và bộ dữ liệu đã 
thu thập, khảo sát miền tính toán được xác định 
bao gồm toàn bộ vịnh Quy Nhơn, phía Bắc từ 
khu vực Nhơn Hải (Quy Nhơn, Bình Định), phía 
Nam đến khu vực bãi biển Bãi Rạng (Sông Cầu, 
Phú Yên). Lưới tính được thiết lập từ bản đồ địa 
hình do CEFD thực hiện và dữ liệu độ sâu toàn 
cầu GEBCO_2019. Lưới tính là lưới phi cấu trúc 
với tổng số nút là 16744, tổng số phần tử là 
32717 sử dụng phương pháp phần tử hữu hạn. 
Lưới tính toán thay đổi được xây dựng theo mức 
độ mịn dần sao cho có thể phản ánh tốt nhất các 
điều kiện quanh khu vực nghiên cứu chi tiết. 
Vùng phía ngoài vịnh có độ sâu khoảng 20 – 
25m, kích thước lưới khoảng 300 – 400m. Vùng 
sát bờ, độ sâu khoảng 2-3m, kích thước lưới 
khoảng 10 – 15m nhằm thể hiện chính xác nhất 
địa hình và các địa vật (hình 9). 
Các điều kiện của mô hình: 
- Số liệu sóng ngoài khơi nhận được từ số 
liệu sóng tái phân tích toàn cầu (ECMWF) được 
sử dụng để làm biên đầu vào cho biên phía Biển 
Đông. 
- Số liệu mực nước thủy triều (thiên văn) dự 
tính từ bộ công cụ MIKE 21 Toolbox được sử 
dụng làm điều kiện biên mực nước cho mô hình. 
- Số liệu mực nước và dòng chảy cho biên 
phía đầm Thị Nại được tính toán từ bộ mô hình 
thủy lực 1 chiều (MIKE 11) được xây dựng trong 
khuôn khổ Đề tài cấp Bộ “Nghiên cứu xây dựng 
công nghệ cảnh báo, dự báo lũ và cảnh báo ngập 
lụt cho các sông chính ở Bình Định, Khánh Hòa” 
do Trung tâm Khí tượng thủy văn Quốc gia chủ 
trì thực hiện năm 2016 được sử dụng làm điều 
kiện biên phía đầm Thị Nại. 
Để kết quả từ mô hình đã xây dựng đưa ra là 
chính xác, nghiên cứu đã tiến hành hiệu chỉnh – 
kiểm định mô hình theo chuỗi số liệu đo đạc thực 
đo. Số liệu mực nước, sóng trong thời kì khảo sát 
từ ngày 17-23/1/2018 được sử dụng để hiệu 
chỉnh mô hình và số liệu trong thời gian từ 28/3 
-5/4/2018 được sử dụng để kiểm định mô hình. 
Kết quả hiệu chỉnh mô hình trong thời đoạn này 
được thể hiện từ hình 11 đến hình 13 và kết quả 
kiểm định mô hình được thể hiện trên hình 14 
đến hình 16. 
Hình 11. Hiệu chỉnh mực nước. 
Hình 12. Hiệu chỉnh độ cao sóng. 
 a. Tính toán b. Thực đo 
Hình 13. Hiệu chỉnh hướng sóng. 
Hình 14. Kiểm định mực nước. 
N.X. Loc, D.D. Duc / VNU Journal of Science: Earth and Environmental Sciences, Vol. 35, No. 4 (2019) 34-47 
41 
Hình 15. Kiểm định độ cao sóng. 
 a. Tính toán b. Thực đo 
Hình 16. Kiểm định hướng sóng. 
Từ các kết quả này có thể thấy, các kết quả 
hiệu chỉnh và kiểm định mô hình đều cho kết quả 
tốt, bộ thông số mô hình đã xây dựng có tính ổn 
định và khá chính xác trong việc mô phỏng các 
quá trình thủy động lực tại khu vực nghiên cứu 
và có đủ tin cậy để mô phỏng các kịch bản tính 
toán tiếp theo. 
2.3. Xây dựng kịch bản tính toán 
Các kịch bản tính toán nhằm đánh giá khả 
năng xuất hiện của DTB tại khu vực nghiên cứu 
dựa trên các kịch bản trong điều kiện bình 
thường về sóng (hướng sóng, chu kì, độ cao 
sóng) theo hai mùa gió chính là Đông Bắc, Tây 
Nam và theo các kịch bản về hướng sóng (thời 
gian tính toán là 15 ngày). 
Đới với kịch bản điều kiện sóng bình thường, 
do trong khu vực nghiên cứu không có các tài 
liệu quan trắc dài hạn nên đã sử dụng số liệu sóng 
ngoài khơi tại biên ngoài của miền tính trích xuất 
từ cơ sở dữ liệu sóng tái phân tích toàn cầu 
(ECMWF) để tính toán. 
Theo số liệu thống kê về sóng (1979 – 2018), 
các hướng sóng chính tác động đến khu vực 
nghiên cứu gồm các sóng hướng NE, E và SE. 
Các sóng khi đi vào vịnh Quy Nhơn đều khúc xạ 
thành hướng SE để đi vào khu vực bãi. Các kịch 
bản với hướng sóng khác nhau được tính toán 
với độ cao và chu kì sóng ngoài khơi lần lượt là 
H = 3m và T= 6s. 
3. Kết quả mô phỏng theo các kịch bản 
Kịch bản trong điều kiện thường:
N.X. Loc, D.D. Duc / VNU Journal of Science: Earth and Environmental Sciences, Vol. 35, No. 4 (2019) 34-47 
42 
a) Trường dòng chảy vịnh Quy Nhơn trong điều kiện bình thường mùa gió Đông Bắc 
b) Hai dòng tách bờ xuất hiện trong điều kiện bình thường mùa gió Đông Bắc 
Hình 17. Trường dòng chảy khu vực bờ biển Quy Nhơn trong điều kiện thường mùa gió Đông Bắc. 
Với các điều kiện thủy động lực bình thường, 
trong mùa gió Đông Bắc (HTB =1,4m và TTB = 
7s, chủ yếu sóng hướng Đông Bắc – Đông), DTB 
xuất hiện tại khu vực phía Nam bãi biển Quy 
Nhơn và gần khu vực Công viên vui chơi trên 
đường An Dương Vương, TP. Quy Nhơn (hình 
17). Vận tốc DTB xuất hiện tại hai vị trí này cũng 
tương đối nhỏ, nằm trong khoảng từ 6-16 cm/s. 
Trong mùa gió Tây Nam, trong điều kiện 
bình thường (độ cao sóng và chu kì sóng trung 
bình lần lượt là 0,72m và 5s, chủ yếu sóng Đông 
Nam), kết quả mô phỏng từ mô hình cho thấy 
DTB xuất hiện ở gần khu vực Công viên vui chơi 
(đường An Dương Vương, TP.Quy Nhơn) (hình 
18). DTB có bề rộng khoảng 70m, chảy thẳng ra 
phía ngoài khoảng 200m với vận tốc khoảng 8-
16 cm/s.
N.X. Loc, D.D. Duc / VNU Journal of Science: Earth and Environmental Sciences, Vol. 35, No. 4 (2019) 34-47 
43 
a) Trường dòng chảy vịnh Quy Nhơn trong điều kiện bình thường mùa gió Tây Nam 
b) Dòng tách bờ trong mùa gió Tây Nam 
Hình 18. Dòng tách bờ xuất hiện trong điều kiện bình thường mùa gió Tây Nam. 
Kịch bản sóng hướng Đông Bắc: Kết quả 
tính toán cho thấy, đối với sóng hướng Đông 
Bắc, khu vực bờ biển Quy Nhơn sẽ xuất hiện 
DTB ở khu vực phía nam của bãi biển (Hình 
19b). DTB này có vận tốc dao động khoảng 15 – 
30 cm/s, chiều rộng của dòng chảy khoảng 90m, 
hướng ra ngoài khơi khoảng 250-300m. 
N.X. Loc, D.D. Duc / VNU Journal of Science: Earth and Environmental Sciences, Vol. 35, No. 4 (2019) 34-47 
44 
a) Trường dòng chảy vịnh Quy Nhơn trong kịch bản sóng hướng Đông Bắc 
b) Dòng tách bờ ở phía Nam bờ biển Quy Nhơn 
c) Dòng tách bờ xuất hiện ở gần tượng đài Chiến Thắng 
Hình 19. Trường dòng chảy sát bờ biển Quy Nhơn trong kịch bản sóng hướng Đông Bắc. 
Ngoài ra, tại khu vực gần tượng đài Chiến 
Thắng cũng xuất hiện DTB (Hình 19c), được 
thành tạo bởi xoáy cục bộ ở phía Bắc bãi biển 
Quy Nhơn và dòng dọc bờ từ phía nam bãi biển 
đi lên. Dù vậy, DTB này có vận tốc dòng rất nhỏ, 
chỉ khoảng 4 – 10 cm/s. 
Kịch bản sóng hướng Đông: Với kịch bản 
sóng hướng Đông, kết quả tính toán cho thấy 
DTB xuất hiện ở khu vực gần tượng đài Chiến 
Thắng (hình 20b). 
Trong kịch bản này, DTB được hình thành 
bởi sự kết hợp giữa xoáy cục bộ khu vực phía 
bắc bờ biển Quy Nhơn và dòng chảy dọc bờ từ 
phía nam bờ biển đi lên. DTB này có vận tốc 
tương đối nhỏ, khoảng 8 – 20 cm/s, tuy nhiên bề 
rộng của dòng chảy này khá lớn, khoảng 350 – 
380m, chảy ra phía ngoài khá xa và gặp dòng 
chảy từ đầm Thị Nại ra thì dừng lại.
N.X. Loc, D.D. Duc / VNU Journal of Science: Earth and Environmental Sciences, Vol. 35, No. 4 (2019) 34-47 
45 
a) Trường dòng chảy vịnh Quy Nhơn trong kịch bản sóng hướng Đông 
b) Dòng tách bờ xuất hiện trong kịch bản sóng hướng Đông 
Hình 20. Trường dòng chảy sát bờ biển Quy Nhơn trong kịch bản sóng hướng Đông. 
Kịch bản sóng hướng Đông Nam: Đây là sóng 
có hướng đi thẳng vào vịnh, có thể gây ra tác 
động lớn nhất nếu độ lớn sóng đủ lớn. Cùng với 
đó, sóng hướng Đông Nam thường xuất hiện vào 
mùa hè khi gió Tây Nam thịnh hành và cũng là 
mùa du lịch, khu vực bãi biển Quy Nhơn sẽ diễn 
ra nhiều hoạt động vui chơi, du lịch và sẽ có nhiều 
người dân cũng như du khách tập trung về đây. 
DTB nếu xuất hiện vào khoảng thời gian này 
thì sẽ tác động nguy hiểm, có thể gây ra các tai 
nạn đáng tiếc. Kết quả tính toán cho thấy DTB 
xuất hiện ở khu vực gần tượng đài Chiến Thắng 
(Hình 21). DTB này có vận tốc dao động trong 
khoảng từ 15-25 cm/s, chiều rộng của dòng chảy 
này khá lớn nằm trong khoảng 200-300m, hướng 
ra ngoài khơi khoảng 500m. Tương tự với trường 
hợp hướng sóng Đông, DTB này được hình 
thành từ xoáy cục bộ ở khu vực phía Bắc bãi biển 
Quy Nhơn và dòng chảy dọc bờ từ phía nam lên.
N.X. Loc, D.D. Duc / VNU Journal of Science: Earth and Environmental Sciences, Vol. 35, No. 4 (2019) 34-47 
46 
a) Trường dòng chảy vịnh Quy Nhơn trong kịch bản hướng sóng Đông Nam 
b) Dòng tách bờ xuất hiện trong kịch bản hướng sóng Đông Nam 
Hình 21. Trường dòng chảy sát bờ biển Quy Nhơn trong kịch bản sóng hướng Đông Nam. 
Kết quả tính toán theo các kịch bản đã đánh 
giá được ảnh hưởng của hướng sóng Đông Nam, 
tới cường độ của DTB là lớn nhất, trong khi đó 
vào mùa gió Đông Bắc, sóng Đông Bắc làm DTB 
xuất hiện tại nhiều vị trí trên bãi biển Quy Nhơn. 
Vì vậy cần đưa ra các cảnh báo người dân những 
khu vực có khả năng xuất hiện cũng như các giải 
pháp để giảm thiểu các tai nạn đáng tiếc do DTB 
gây ra. 
4. Kết luận 
Nghiên cứu đã ứng dụng mô hình MIKE 
21/3 và xây dựng bộ thông số phù hợp với khu 
vực nghiên cứu sử dụng hai module là HD và 
SW để mô phỏng chi tiết khả năng xuất hiện 
DTB tại khu vực bãi biển Quy Nhơn. Mô hình 
đã mô phỏng sự xuất hiện của DTB theo các kịch 
bản điều kiện thường và các điều kiện sóng khác 
nhau. 
Dựa trên các kết quả tính toán, mô phỏng 
này, nghiên cứu đã đưa ra khả năng xuất hiện 
DTB tại các vị trí khác nhau dọc bờ biển Quy 
Nhơn theo mùa khác nhau. Theo đó, các khu vực 
gần công viên vui chơi (đường An Dương 
Vương) và khu vực cuối bãi biển Quy Nhơn có 
khả năng xuất hiện DTB cao vào mùa gió Đông 
Bắc. Trong khi đó vào mùa gió Tây Nam, khu 
N.X. Loc, D.D. Duc / VNU Journal of Science: Earth and Environmental Sciences, Vol. 35, No. 4 (2019) 34-47 
47 
vực gần tượng đài Chiến Thắng có khả năng xuất 
hiện DTB với cường độ mạnh. Những khu vực 
này thường xuyên có người dân và khách du lịch 
tắm. Cũng đã có những trường hợp đuối nước do 
DTB gây ra trong thực tế tại những địa điểm này. 
Tuy nhiên, hiện nay vẫn cần thêm các nghiên cứu 
để đánh giá chi tiết hơn do dữ liệu địa hình khu 
vực bãi tắm chưa chi tiết nên kết quả tính toán 
mới dừng ở việc phát hiện được các vị trí DTB 
chính có kích thước lớn. 
Lời cảm ơn 
Nghiên cứu này được thực hiện tại Trung 
tâm Động lực học Thủy khí Môi trường, Trường 
Đại học Khoa học Tự nhiên, ĐHQGHN với sự 
tài trợ về kinh phí và các số liệu khảo sát. Nhóm 
thực hiện xin trân trọng cám ơn sự hỗ trợ quý báu 
này. 
Tài liệu tham khảo 
[1] A.J. Bowen, Rip currents l: Theoretical 
investigations, Journal of Geophysical Research, 
74 (1969) 5467-5478. https://doi.org/10.1029/ 
JC074i023p05467. 
[2] A.J. Bowen, D.I. Inman, Rip Currents 2: 
Laboratory and Field Observation, Journal of 
Geophysical Research 74 (1969) 5479 – 5490. 
https://doi.org/10.1029/JC074i023p05479. 
[3] K. Horikawa, T. Sasaki, Field observation of 
nearshore current system, Journal Coastal 
Engineering in Japan 15 (1972) 113-125. 
https://doi.org/10.1080/05785634.1972.119241
52. 
[4] E.K. Noda, RIP–Currents, Proceedings of 
Coastal Engineering, 1972, p. 653-668. https:// 
doi.org/10.1061/9780872620490.038. 
[5] J. Zyserman, J. Fredsoe, R. Deigaard, Prediction 
of the dimensions of a rip current system on a 
coast with bars, Proceedings of Coastal 
Engineering, 1990, P. 959-972. https://doi.org/ 
10.1061/9780872627765.074. 
[6] O.R. Sorensen, H.A. Schaffer, P.A. Madsen, 
Surf zone dynamics simulated by a Boussinesq 
type model. III. Wave-induced horizontal 
nearshore circulations, Coastal Engineering, 33 
(1998) 155-176. https://doi.org/10.1016/S0378 -
3839(98)00007-6. 
[7] Nguyen Ky Phung, Ngo Nam Thinh, Tran Tuan 
Hoang, Researching to calculate Rip currents in 
Nha Trang area, Advances in Science and 
Technology of Water Resources, Vol 12/2012, 
p. 85–90 (in Vietnamese).  
images/File/bai%20bao%20PGS.TS.%20Nguye
n%20Ky%20Phung.pdf. 
[8] Dang Dinh Kha, Nguyen Tho Sao, Tran Ngoc 
Anh, Simulate the Rip Currents in the South 
Coast of Nhon Ly, Binh Dinh Using 
Hydrodynamic Models, VNU Journal of 
Science: Earth and Environmental Sciences 
32(3S) (2016) 130-138 (in Vietnamese). 
https://js.vnu.edu.vn/EES/article/view/3647.

File đính kèm:

  • pdfdanh_gia_kha_nang_xuat_hien_dong_tach_bo_tai_khu_vuc_bai_bie.pdf