Hệ thống phân loại và đặc điểm cảnh quan vùng bờ tỉnh Quảng Ngãi

Nghiên cứu cảnh quan vùng bờ có ý nghĩa quan trọng trong xác định các thuộc tính tự

nhiên, nhân sinh của lãnh thổ, lãnh hải, là cơ sở khoa học có giá trị cho hoạch định không gian phát

triển kinh tế gắn với sử dụng hợp lý tài nguyên và bảo vệ môi trường. Vùng bờ tỉnh Quảng Ngãi

được xác định theo ranh giới trên lục địa của 6 huyện, thành phố giáp biển, ranh giới trên biển lấy

theo đường ranh giới vùng khai thác thủy sản ven bờ của tỉnh. Đây là khu vực kinh tế động lực, có

ý nghĩa quan trọng của tỉnh Quảng Ngãi. Cảnh quan vùng bờ bao gồm các cảnh quan trên đất liền

và cảnh quan biển, đảo ven bờ được hình thành do kết quả tác động tương hỗ của các hợp phần và

yếu tố tự nhiên và nhân sinh. Cấu trúc cảnh quan vùng bờ tỉnh Quảng Ngãi đã được xác định bao

gồm 1 hệ, 2 phụ hệ, 3 lớp, 6 phụ lớp,10 kiểu và 108 loại cảnh quan. Trong đó, có 75 loại cảnh quan

lục địa, 27 loại cảnh quan biển và 6 loại cảnh quan đảo. Cảnh quan vùng bờ tỉnh Quảng Ngãi có sự

phân hóa từ tây sang đông (từ các cảnh quan núi thấp, đồng bằng - gò đồi trên lục địa đến cảnh quan

biển nông, cảnh quan đảo ven bờ) và phân hóa theo phương bắc - nam thể hiện rõ ở sự phân dị các

loại CQ đồng bằng. Các cảnh quan này có tính biến động, nhạy cảm cao đối với các tác động bên

ngoài, trong đó có các hoạt động phát triển

Hệ thống phân loại và đặc điểm cảnh quan vùng bờ tỉnh Quảng Ngãi trang 1

Trang 1

Hệ thống phân loại và đặc điểm cảnh quan vùng bờ tỉnh Quảng Ngãi trang 2

Trang 2

Hệ thống phân loại và đặc điểm cảnh quan vùng bờ tỉnh Quảng Ngãi trang 3

Trang 3

Hệ thống phân loại và đặc điểm cảnh quan vùng bờ tỉnh Quảng Ngãi trang 4

Trang 4

Hệ thống phân loại và đặc điểm cảnh quan vùng bờ tỉnh Quảng Ngãi trang 5

Trang 5

Hệ thống phân loại và đặc điểm cảnh quan vùng bờ tỉnh Quảng Ngãi trang 6

Trang 6

Hệ thống phân loại và đặc điểm cảnh quan vùng bờ tỉnh Quảng Ngãi trang 7

Trang 7

Hệ thống phân loại và đặc điểm cảnh quan vùng bờ tỉnh Quảng Ngãi trang 8

Trang 8

Hệ thống phân loại và đặc điểm cảnh quan vùng bờ tỉnh Quảng Ngãi trang 9

Trang 9

Hệ thống phân loại và đặc điểm cảnh quan vùng bờ tỉnh Quảng Ngãi trang 10

Trang 10

Tải về để xem bản đầy đủ

pdf 15 trang viethung 6240
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Hệ thống phân loại và đặc điểm cảnh quan vùng bờ tỉnh Quảng Ngãi", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Hệ thống phân loại và đặc điểm cảnh quan vùng bờ tỉnh Quảng Ngãi

Hệ thống phân loại và đặc điểm cảnh quan vùng bờ tỉnh Quảng Ngãi
VNU Journal of Science: Earth and Environmental Sciences, Vol. 36, No. 4 (2020) 52-66 
52 
Original Article 
The Classification System and Characteristics 
of Coastal Landscapes in Quang Ngai Province 
Dang Thi Ngoc1, , Nguyen Cao Huan1, Nguyen Dang Hoi2, Tran Van Truong1, 
Ngo Trung Dung2 
1VNU University of Science, 334 Nguyen Trai, Hanoi, Vietnam 
2Institute of Tropical Ecology, Vietnam-Russian Tropical Centre, 63 Nguyen Van Huyen, Hanoi, Vietnam 
Received 20 March 2020 
Revised 06 September 2020; Accepted 17 September 2020 
Abstract: Studying coastal landscapes is an important and meaningful content in determining the 
natural and human properties of the territory and territorial sea, which is a valuable scientific basis 
for spatial planning in the economic development associated with the use of resources and 
environmental protection. The Quang Ngai’s coastal area is determined according to the continental 
boundary of 6 maritime districts/ cities and the boundary on the sea of the provincial coastal fishing 
zone. Coastal landscapes include terrestrial landscapes, marine landscapes, and island landscapes 
formed by the result of the interaction of natural components and human factors. The landscape 
structure of the coastal areas in Quang Ngai includes 1 system, 2 sub-systems, 3 classes, 6 sub-
classes, 10 types, and 108 kinds of landscapes, In which, there are 75 kinds of terrestrial landscape, 
27 kinds of marine landscape, and 6 kinds of the island landscape. The landscapes of the study area 
have differentiation from west to east (from the low mountain landscapes, hill - plain landscapes to 
marine landscapes and island landscapes) and from north to south, which is clearly represented in 
the differentiation of plain landscape kinds. The landscapes are highly variable, sensitive to external 
impacts, including development activities. 
Keywords: Coastal landscape, landscape differentiation, Quang Ngai. 
________ 
 Corresponding author. 
 E-mail address: dangngoc2406@gmail.com 
 https://doi.org/10.25073/2588-1094/vnuees.4589 
D.T. Ngoc et al. / VNU Journal of Science: Earth and Environmental Sciences, Vol. 36, No. 4 (2020) 52-66 53 
Hệ thống phân loại và đặc điểm cảnh quan vùng bờ 
tỉnh Quảng Ngãi 
Đặng Thị Ngọc1, , Nguyễn Cao Huần1, Nguyễn Đăng Hội2, Trần Văn Trường1, 
Ngô Trung Dũng2 
1Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, Đại học Quốc gia Hà Nội, 334 Nguyễn Trãi, Hà Nội, Việt Nam 
2Viện Viện Sinh thái nhiệt đới, Trung tâm Nhiệt đới Việt - Nga, 63 Nguyễn Văn Huyên, Hà Nội, Việt Nam 
Nhận ngày 20 tháng 3 năm 2020 
Chỉnh sửa ngày 06 tháng 9 năm 2020; Chấp nhận đăng ngày 17 tháng 9 năm 2020 
Tóm tắt: Nghiên cứu cảnh quan vùng bờ có ý nghĩa quan trọng trong xác định các thuộc tính tự 
nhiên, nhân sinh của lãnh thổ, lãnh hải, là cơ sở khoa học có giá trị cho hoạch định không gian phát 
triển kinh tế gắn với sử dụng hợp lý tài nguyên và bảo vệ môi trường. Vùng bờ tỉnh Quảng Ngãi 
được xác định theo ranh giới trên lục địa của 6 huyện, thành phố giáp biển, ranh giới trên biển lấy 
theo đường ranh giới vùng khai thác thủy sản ven bờ của tỉnh. Đây là khu vực kinh tế động lực, có 
ý nghĩa quan trọng của tỉnh Quảng Ngãi. Cảnh quan vùng bờ bao gồm các cảnh quan trên đất liền 
và cảnh quan biển, đảo ven bờ được hình thành do kết quả tác động tương hỗ của các hợp phần và 
yếu tố tự nhiên và nhân sinh. Cấu trúc cảnh quan vùng bờ tỉnh Quảng Ngãi đã được xác định bao 
gồm 1 hệ, 2 phụ hệ, 3 lớp, 6 phụ lớp,10 kiểu và 108 loại cảnh quan. Trong đó, có 75 loại cảnh quan 
lục địa, 27 loại cảnh quan biển và 6 loại cảnh quan đảo. Cảnh quan vùng bờ tỉnh Quảng Ngãi có sự 
phân hóa từ tây sang đông (từ các cảnh quan núi thấp, đồng bằng - gò đồi trên lục địa đến cảnh quan 
biển nông, cảnh quan đảo ven bờ) và phân hóa theo phương bắc - nam thể hiện rõ ở sự phân dị các 
loại CQ đồng bằng. Các cảnh quan này có tính biến động, nhạy cảm cao đối với các tác động bên 
ngoài, trong đó có các hoạt động phát triển. 
Từ khóa: cảnh quan vùng bờ, phân hóa cảnh quan, Quảng Ngãi. 
1. Mở đầu 
Vùng bờ được hiểu là khu vực chuyển tiếp 
giữa đất liền hoặc đảo với biển, bao gồm vùng 
biển ven bờ và vùng đất ven biển (Luật tài nguyên, 
môi trường biển và hải đảo, 2015). Vùng bờ chịu 
tác động trực tiếp bởi các quá trình tự nhiên từ đất 
liền (môi trường lục địa), từ biển (môi trường 
biển) và các hoạt động nhân sinh. Việc sử dụng 
hợp lý tài nguyên, bảo vệ môi trường vùng bờ hiện 
là một trong những vấn đề cấp bách, được nhiều 
nước, nhiều nhà khoa học quan tâm, trong đó có 
các nhà Địa lý nghiên cứu cảnh quan. Điều này đã 
________ 
 Tác giả liên hệ. 
 Địa chỉ email: dangngoc2406@gmail.com 
 https://doi.org/10.25073/2588-1094/vnuees.4589 
được khẳng định trong Hội nghị địa lý quốc tế 
năm 2018 “Địa lý cảnh quan trong thế kỷ 21” tổ 
chức tại Simferopol, Nga [1]. 
Nghiên cứu cảnh quan (CQ) dưới nước nói 
chung, CQ biển nói riêng là một khuynh hướng 
mới của địa lý hiện đại [2,3], nó giải quyết được 
các vấn đề liên quan đến quản lý và sử dụng hợp 
lý tài nguyên, bảo vệ môi trường vùng bờ [4]. 
Nghiên cứu một cách hệ thống CQ biển và hải 
đảo, nhất là CQ vùng bờ về đặc điểm đặc trưng 
của các đơn vị CQ, quy luật phân hóa của chúng 
theo không gian và động lực theo thời gian có 
D.T. Ngoc et al. / VNU Journal of Science: Earth and Environmental Sciences, Vol. 36, No. 4 (2020) 52-66 54 
tính đến tác động của quá trình tự nhiên và nhân 
sinh tạo cơ sở khoa học vững chắc cho việc sử 
dụng hợp lý tài nguyên, quản lý tổng hợp vùng 
bờ hiệu quả và khẳng định chủ quyền biển đảo 
của quốc gia. Tuy nhiên, nghiên cứu CQ vùng 
bờ, nhất là CQ biển vẫn còn nhiều hạn chế, liên 
quan đến những khó khăn trong công tác điều tra, 
khảo sát các yếu tố tự nhiên (địa mạo đáy biển, 
động lực biển, sinh vật biển,...) và vấn đề an ninh 
chủ quyền trên biển. 
Trong nghiên cứu địa lý, phân loại CQ trên 
đất liền đã có nhiều kết quả, trong khi đó có khá 
ít cô ... n nhiệt - ẩm 
trong điều kiện khí hậu hải dương và các hoạt 
động nhân sinh là những nhân tố quyết định chi 
phối đến sự phân hóa CQ trên đảo thành 6 loại 
CQ (từ CQ số 103 đến 108). Trong đó, CQ cây 
D.T. Ngoc et al. / VNU Journal of Science: Earth and Environmental Sciences, Vol. 36, No. 4 (2020) 52-66 63 
trồng hàng năm phân bố trên bề mặt bazan và 
thềm tích tụ (CQ số 104, 106) có diện tích lớn 
nhất, chiếm khoảng ½ DTTN của đảo. Cây trồng 
đặc trưng và chủ lực ở đây là hành, tỏi. Trên các 
sườn, họng núi lửa với đất nâu vàng là loại CQ 
rừng trồng và trảng cỏ cây bụi (CQ số 103) có 
chức năng phòng hộ. Các CQ quần cư phân bố 
tập trung trên địa hình bề mặt bazan và thềm ven 
biển (CQ số 105, 107). Trên bãi cát hiện đại là 
loại CQ bãi đá xen cát (CQ số 108). 
Kiểu CQ: Dựa trên sự hình thành của kiểu 
thảm thực vật và đặc trưng hệ sinh thái theo điều 
kiện sinh cảnh (trên đất liền - điều kiện sinh khí 
hậu, trên biển - điều kiện sinh cảnh nước), khu 
vực nghiên cứu được phân hóa thành 10 kiểu 
CQ: 1/ Kiểu CQ thực vật thường xanh nhiệt đới, 
mát ẩm trên núi thấp; 2/ Kiểu CQ thực vật 
thường xanh nhiệt đới, nóng ẩm trên núi thấp; 3/ 
Kiểu CQ thực vật thường xanh nhiệt đới, mát ẩm 
trên đồi; 4/ Kiểu CQ thực vật thường xanh nhiệt 
đới, nóng ẩm trên đồi; 5/ Kiểu CQ thực vật nửa 
rụng lá nóng, hơi khô trên đồi; 6/ Kiểu CQ thực 
vật thường xanh nhiệt đới, nóng ẩm khu vực 
đồng bằng ven biển; 7/ Kiểu CQ thực vật nửa 
rụng lá nóng, hơi khô khu vực đồng bằng ven 
biển; 8/ Kiểu CQ thực vật thủy sinh nhiệt đới trên 
vùng biển nông ven bờ hiện đại; 9/ Kiểu CQ thực 
vật thủy sinh nhiệt đới trên vùng biển nông ven 
bờ cổ; 10/ Kiểu CQ thực vật thường xanh nhiệt 
đới, nóng ẩm trên đảo ven bờ. 
3.4. Đặc điểm phân hóa và tính biến động, nhạy 
cảm của cảnh quan vùng bờ tỉnh Quảng Ngãi 
a) Sự phân hóa cảnh quan từ tây sang đông 
và từ bắc xuống nam 
CQ vùng bờ tỉnh Quảng Ngãi có sự phân hóa 
từ tây (lục địa) sang đông (biển, đảo) theo sự 
giảm dần độ cao địa hình. Các lớp, phụ lớp CQ 
phân bố dạng dải, song song với đường bờ biển: 
từ CQ núi ở phía tây đến CQ đồng bằng - gò đồi 
ở trung tâm, chuyển tiếp xuống CQ biển và đảo 
ven bờ ở phía đông. Sự phân hóa này xuất hiện ở 
cấp lớp, phụ lớp và loại CQ (Hình 3). 
Cấu trúc địa chất - tân kiến cũng đã tạo nên sự 
phân dị của CQ khu vực nghiên cứu theo chiều từ 
bắc xuống nam. Phía đông bắc là đồng bằng mài 
mòn - bóc mòn dạng gò đồi Bình Sơn. Chuyển 
tiếp xuống là dải đồng bằng xâm thực - mài mòn 
- tích tụ dạng gò thoải sông Trà Khúc. Dọc dải ven 
biển từ sông Vệ tới Đức Phổ là kiểu đồng bằng 
tích tụ - mài mòn dạng lượn sóng thoải, có cấu 
trúc đặc trưng của dải đồng bằng ven biển Trung 
bộ Việt Nam với hệ đầm phá - đê cát (lagoon - 
bar) phát triển song song với đường bờ hiện đại. 
Từ mũi Sa Huỳnh xuống phía nam là dải đồng 
bằng nhỏ hẹp nhất - đồng bằng mài mòn - tích tụ 
Sa Huỳnh. Ở đây hình thành loại CQ có mức độ 
khô hạn sâu sắc do các đồi thấp ở phía nam nằm 
sát biển đã ngăn cản gió từ biển thổi vào, làm cho 
phía đông nam huyện Đức Phổ có lượng mưa rất 
thấp (mùa khô dài 3-4 tháng). Như vậy, càng 
xuống phía nam lớp CQ đồng bằng càng bị thu 
hẹp do đồi núi càng ăn sát ra biển, tạo nên các đơn 
vị CQ có tính dải hẹp tăng lên. Đặc điểm này là 
cơ sở để phân vùng CQ ở bước nghiên cứu tiếp 
theo. 
b) Tính đồng bằng và tính biển trong phân 
hóa cảnh quan 
Tính đồng bằng và tính biển được xem là 
những đặc trưng nổi trội của sự phân hóa CQ vùng 
bờ tỉnh Quảng Ngãi, nó quy định tính đặc thù 
trong các thế mạnh khai thác, sử dụng tài nguyên. 
- Tính đồng bằng ưu thế trên đất liền: Tính 
đồng bằng thể hiện sự hình thành các CQ gò đồi, 
đồng bằng theo các bậc độ cao khác nhau, đa 
dạng về vật liệu cấu thành. Dải đồng bằng kéo 
dài dạng tuyến theo phương tây bắc - đông nam, 
có tính phân bậc rõ theo hướng vuông góc với bờ 
biển. Tính đồng bằng thể hiện mức độ đa dạng 
CQ cao nhất trên phần đất liền với 38/75 loại CQ. 
Đồng thời, tính đặc thù này đã tạo ra tiềm năng 
tài nguyên đặc trưng: địa hình bằng phẳng, 
nguồn nước dồi dào, đất phù sa màu mỡ,... thuận 
lợi cho canh tác nông nghiệp và cư trú của cộng 
đồng người. CQ đồng bằng đã và đang trở thành 
không gian tiềm năng cho phát triển kinh tế, 
không chỉ là nơi sản xuất lương thực chính của 
tỉnh Quảng Ngãi, mà còn tập trung các trung tâm 
công nghiệp, cụm công nghiệp và các hoạt động 
thương mại - dịch vụ. 
D.T. Ngoc et al. / VNU Journal of Science: Earth and Environmental Sciences, Vol. 36, No. 4 (2020) 52-66 64 
Hình 3. Mặt cắt cảnh quan theo hướng từ tây sang đông.
- Tính biển: Vùng bờ tỉnh Quảng Ngãi có 
đường bờ biển dài 130km với 6 cửa biển (Sa 
Cần, Sa Kỳ, Cửa Đại, Cửa Lở, Mỹ Á, Sa Huỳnh), 
hệ thống vũng vịnh và mũi đá lớn (vũng Dung 
Quất, vũng Việt Thanh, mũi Ba Làng An, mũi Sa 
Huỳnh) với ngư trường rộng lớn trên 11.000 km2 
và có đảo tiền tiêu Lý Sơn. Sự gắn kết chặt chẽ 
với không gian biển/ đại dương đã làm nên tính 
biển (tính hải dương) đặc thù cho lãnh thổ nghiên 
cứu. Tính biển tác động đến đặc điểm tự nhiên 
trên đất liền và ảnh hưởng mạnh đến phương 
hướng phát triển kinh tế - xã hội của lãnh thổ, 
đặc biệt là ưu thế phát triển kinh tế biển. Vùng 
biển Quảng Ngãi là môi trường thuận lợi cho 
nhiều loài hải sản cư trú, sinh sống và phát triển, 
vì vậy có tiềm năng sinh học lớn, tạo khả năng 
phát triển mạnh ngành khai thác, nuôi trồng, chế 
biến thủy sản. Nhiều CQ bãi biển với cát mịn trải 
dài, phong cảnh đẹp như bãi biển Mỹ Khê, Sa 
Huỳnh, Khe Hai là tiềm năng cho phát triển du 
lịch. Dịch vụ cảng và vận tải biển cũng là một 
trong những thế mạnh từ biển. Quảng Ngãi hiện 
có cảng Dung Quất là cảng tổng hợp quốc gia, 
đầu mối khu vực, cảng Sa Kỳ – Lý Sơn là cảng 
tổng hợp dành cho vận chuyển hành khách, hàng 
bách hóa và xăng dầu, dọc theo đới bờ có các 
cảng nhỏ như Sa Cần, Bình Châu, Mỹ Á,... phục 
vụ các hoạt động đánh bắt hải sản, giao thông 
đường thủy, thương mại và du lịch. Đảo Lý Sơn 
với vị trí chiến lược và những lợi thế về điều kiện 
tự nhiên, tài nguyên thiên nhiên (CQ đẹp, hệ sinh 
thái biển khá đa dạng, phong phú,...) được phát 
triển theo hướng trở thành đô thị biển xanh, là 
đảo tiền tiêu với phát triển du lịch và bảo tồn 
biển, khu hậu cần nghề cá, giúp Quảng Ngãi 
vươn khơi bám biển ngư trường Hoàng Sa và 
Trường Sa, khẳng định chủ quyền lãnh thổ Việt 
Nam, đồng thời là nơi tiếp nhận và cung cấp sản 
phẩm du lịch. 
c) Tính biến động và nhạy cảm cao 
Cấu trúc không gian của CQ vùng bờ Quảng 
Ngãi có tính kém ổn định và mức độ nhạy cảm 
cao do phụ thuộc chặt chẽ vào các yếu tố động 
lực ngoại sinh (động lực sóng - biển, chế độ triều, 
chế độ nhiệt,). Điều này được phản ánh rõ 
trong đặc điểm của các yếu tố thành tạo CQ như 
nền mẫu chất - địa hình, thổ nhưỡng, trầm tích, 
thực vật và biến đổi, diễn thế sinh thái của CQ. 
Các dạng địa hình như bãi triều, cửa sông, đường 
bờ biển,... thường xuyên bị biến đổi do xói lở và 
bồi tụ. Vùng cửa sông và ven biển còn có sự thay 
đổi mạnh trong ngày do tác động của thủy triều, 
hình thành các CQ ngập nước tạm thời. Mùa khô, 
nước cạn, thủy triều lấn sâu vào nội đồng, gây 
nhiễm mặn CQ. Từ tư liệu viễn thám và các dấu 
hiệu nhận biết từ khảo sát thực địa cho thấy, 
những CQ rừng trồng trên đất cát và cồn cát ven 
biển, CQ rừng ngập mặn ngày càng thu hẹp diện 
tích do nhiều nguyên nhân như bão, di chuyển 
cồn cát, xâm thực bờ biển,... Ngập lụt, xâm thực 
bờ biển, xâm nhập mặn,... không ngừng ảnh 
hưởng đến các hệ sinh thái cửa sông, vùng đầm 
lầy ven biển và dải ven bờ. Mặt khác, do xu thế 
biến đổi khí hậu toàn cầu, nước biển dâng, kết 
hợp với triều, ảnh hưởng mạnh đến dải ven bờ. 
Tác động tổng hợp của chúng tạo nên những biến 
động CQ mạnh mẽ hơn. 
D.T. Ngoc et al. / VNU Journal of Science: Earth and Environmental Sciences, Vol. 36, No. 4 (2020) 52-66 65 
Nhân tố quan trọng tạo ra tính biến động và 
nhạy cảm cao của CQ vùng bờ Quảng Ngãi là 
các hoạt động khai thác tài nguyên, sử dụng lãnh 
thổ của con người như đánh bắt và nuôi trồng 
thủy hải sản, du lịch, xây dựng đô thị và các 
KCN,... Hệ quả là hình thành các CQ với thảm 
thực vật thứ sinh nhân tác nhạy cảm và kiểu sử 
dụng đất trong sự phụ thuộc vào động lực sông - 
biển - triều. Các CQ biển (CQ rạn san hô, cỏ 
biển, rừng ngập mặn và rừng phòng hộ ven biển), 
cùng nhiều loài sinh vật trong vùng bờ bị suy 
thoái do ảnh hưởng của việc gia tăng khai thác 
các nguồn lợi biển phục vụ du lịch, nuôi trồng 
thủy sản, khai thác khoáng sản ven biển, chuyển 
đổi đất không hợp lý, nạo vét luồng tàu và xây 
dựng các công trình ven biển không theo quy 
hoạch. Các CQ rạn san hô và cỏ biển có dấu hiệu 
bị suy giảm về diện tích và suy thoái về số loài 
do khai thác quá mức và ô nhiễm môi trường. 
CQ rừng ngập mặn chỉ còn diện tích rất nhỏ và 
khó có khả năng phục hồi tự nhiên do chịu tác 
động quá lớn của các hoạt động phát triển kinh 
tế – xã hội ven biển. Việc tăng diện tích nuôi 
trồng thủy sản, khai thác khoáng sản trên cát dẫn 
tới giảm diện tích rừng phòng hộ, gia tăng tốc độ 
lấn cát sâu vào đất liền,... Tất cả những tác động 
này đã và sẽ tiếp tục gây sức ép lên CQ, tạo nên 
những đơn vị CQ kém ổn định, nhạy cảm với 
những tác động từ bên ngoài và ngày càng mang 
đậm dấu ấn nhân sinh. 
4. Kết luận 
Nghiên cứu CQ vùng bờ là một hướng mới 
của địa lý học hiện đại, thực sự cần thiết nhằm 
xác lập cơ sở khoa học cho việc khai thác, sử 
dụng hiệu quả tài nguyên vùng bờ theo hướng 
bền vững, và góp phần khẳng định chủ quyền 
biển đảo quốc gia. Tuy nhiên theo đánh giá 
chung đến nay, nghiên cứu CQ vùng bờ vẫn còn 
nhiều hạn chế. 
CQ vùng bờ tỉnh Quảng Ngãi bao gồm các 
CQ trên đất liền, CQ biển và CQ đảo ven bờ. 
Dưới tác động tổng hợp của các hợp phần, yếu 
tố tự nhiên và nhân sinh đã hình thành một hệ 
thống CQ (ở tỷ lệ 1/50.000) bao gồm 01 hệ, 02 
phụ hệ, 03 lớp, 06 phụ lớp, 10 kiểu và 108 loại 
CQ (75 loại CQ đất liền, 27 loại CQ biển và 06 
loại CQ đảo). 
 CQ vùng bờ tỉnh Quảng Ngãi có sự phân 
hóa theo hướng tây - đông (từ các CQ núi thấp, 
gò đồi, đồng bằng chuyển tiếp xuống CQ biển 
nông và CQ đảo) và phân hóa theo phương bắc - 
nam thể hiện ở các kiểu đường bờ và hình thái 
đồng bằng. Đặc trưng nổi bật trong phân hóa CQ 
ở đây là tính đồng bằng chiếm ưu thế trên phần 
đất liền, tính biển ở phía đông và tính biến động, 
nhạy cảm cao của CQ đối với các tác động bên 
ngoài, trong đó có các hoạt động phát triển. 
Kết quả phân tích đặc điểm các đơn vị CQ 
cho phép xác định chức năng của chúng trên lãnh 
thổ nghiên cứu, để từ đó có định hướng khai thác, 
sử dụng hợp lý CQ. Tính đặc thù và đặc điểm 
phân hóa của CQ là cơ sở hoạch định không gian 
vùng bờ tỉnh Quảng Ngãi cho phát triển kinh tế, 
sử dụng tài nguyên, bảo vệ môi trường gắn với 
bảo đảm an ninh, chủ quyền biển đảo. 
Tài liệu tham khảo 
[1] E.A. Pozachenyuk et al, Landscape geography in 
the XXI century: Proceding of the international 
scientific conference, Simferopol: IT “ARIAL”, 
2018. 
[2] B.V. Preobrazhensky, V.V. Zharikov, L.V. 
Dubeikovsky, Fundamentals of Underwater 
Landscape Science, Vladivostok: Dalnauka, 
2000. 
[3] D.G. Ilyushin, Modern methods of researching 
benthic communities. Engineering surveys, 9-10. 
Moscow, 2014, p. 98-104. 
[4] T.V. Pankeeva, H.B. Mironova, A.B. 
Parkhomenko, Bottom natural complexes of 
Laspi Bay (Black Sea, Sevastopol), Geopolitics 
and Ecogeodynamics of Regions, Volume 5 (15), 
Issue. 4.c, 2019, p. 319-332. 
[5] N.T. Long, N.V. Vinh, Initial classification of 
Vietnam's sea and island landscape, Proceedings 
of the 6th National Geographic Sciences 
Conference, Hue city, Technology and National 
Science Publisher, 2012, pp. 107-115 (in 
Vietnamese). 
[6] J.C. Roff, M.E. Taylor, National frameworks for 
marine conservation - a hierarchical geophysical 
approach, Aquatic Conservation: Marine and 
Freshwater Ecosystems, 10 (3)(2000) 209-223. 
D.T. Ngoc et al. / VNU Journal of Science: Earth and Environmental Sciences, Vol. 36, No. 4 (2020) 52-66 66 
https://sci-hub.tw/https://doi.org/10.1002/1099-
0755(200005/06)10:3%3c209:aid-aqc408%3 e3.0. 
co;2-j. 
[7] N.Golding, M.A.Vincent, D.W. Connor, , Irish 
sea pilot - a marine landscape classification for 
the Irish sea. JNCC Report No. 346, 
Peterborough, 2004. ISSN 0963-8091. 
[8] D.W. Connor, P.M. Gilliland, N. Golding, P. 
Robinson, D. Todd, E. Verling, UKSeaMap: the 
mapping of seabed and water column features of 
UK seas, Joint Nature Conservation Committee, 
Peterborough, 2006. ISBN: 1-86107-590-1 and 
978-1-86107-590-1. 
[9] N.N. Khanh, N.C. Huan, P.H. Hai, Research on 
Vietnam Landscape Classification Units in scale 
of 1/1.000.000 (mainland and sea), VNU Journal 
of Science (Geography Specialist) 1996 (15-22) 
(in Vietnamese). 
[10] K.M. Petrov, Underwater landscapes: theory, 
research methods. Leningrad: Science - 
Leningrad Branch, 1989. 
[11] V.A. Nikolaev, Small-scale landscape classification 
and mapping. Moscow: Moscow State University, 
1978. 
[12] P.H. Hai, N.T. Hung, N.N. Khanh, The landscape 
basis of the rational use of natural resources and 
environmental protection in Vietnam, Education 
Publishing House, Hanoi. 1997 (in Vietnamese). 
[13] Federation of Hydrogeology-Engineering 
Geology of Central, The investigation of 
hydrogeology-engineering geology and 
searching water source in Ly Son island - Quang 
Ngai, 1998 (in Vietnamese). 
[14] Quangngai Department of Natural Resources and 
Environment, Profile on the coastal area of 
Quang Ngai province, 2015 (in Vietnamese). 
[15] Quangngai Department of Science and 
Technology, Climate-Hydrological Characteristics 
of Quang Ngai Province up to 2010, Da Nang 
Publishing House, 2013 (in Vietnamese). 
[16] Quangngai Statistics Office, Quangngai 
Statistical Yearbook 2018, Statisticsal Publishing 
House, 2019 (in Vietnamese).

File đính kèm:

  • pdfhe_thong_phan_loai_va_dac_diem_canh_quan_vung_bo_tinh_quang.pdf