Đặc điểm của điển cố trong thơ bang giao Việt Nam giai đoạn từ thế kỉ X đến hết thế kỉ XIV
Việc sử dụng điển cố tạo ra tính hàm súc khiến cho câu văn, câu thơ “đậm đà lí
thú” bởi trường liên tưởng và ý nghĩa biểu tượng mà tích cũ, chuyện xưa gợi ra. Trong
thơ bang giao Việt Nam từ thế kỉ X đến hết thế kỉ XIV, đặc điểm sáng tác này xuất hiện
qua số lượng, phạm vi, xuất xứ của điển cố và nội dung ý nghĩa, phương thức sử dụng
điển cố của tác giả.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Đặc điểm của điển cố trong thơ bang giao Việt Nam giai đoạn từ thế kỉ X đến hết thế kỉ XIV", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Đặc điểm của điển cố trong thơ bang giao Việt Nam giai đoạn từ thế kỉ X đến hết thế kỉ XIV
TẠP CHÍ KHOA HỌC − SỐ 7/2016 41 ĐẶC ĐIỂM CỦA ĐIỂN CỐ TRONG THƠ BANG GIAO VIỆT NAM GIAI ĐOẠN TỪ THẾ KỈ X ĐẾN HẾT THẾ KỈ XIV Trần Thị The1 Trường Đại học Sư phạm Hà Nội Tóm tắt: Việc sử dụng điển cố tạo ra tính hàm súc khiến cho câu văn, câu thơ “đậm đà lí thú” bởi trường liên tưởng và ý nghĩa biểu tượng mà tích cũ, chuyện xưa gợi ra. Trong thơ bang giao Việt Nam từ thế kỉ X đến hết thế kỉ XIV, đặc điểm sáng tác này xuất hiện qua số lượng, phạm vi, xuất xứ của điển cố và nội dung ý nghĩa, phương thức sử dụng điển cố của tác giả. Từ khóa: Văn học, điển tích, bang giao, thơ sứ trình, thơ bang giao Việt Nam, từ thế kỉ X đến hết thế kỉ XIV. 1. MỞ ĐẦU Dùng điển tích, điển cố làm phương diện diễn tả nội dung dường như là một đặc điểm phổ quát trong văn học trung đại. Đây là một loại hình ngôn ngữ đặc biệt, gồm các “chuyện cũ”, “lời xưa” được trích dẫn trong các sách kinh điển đã trở thành mẫu mực cho việc biểu đạt một nội dung nào đó. Bàn về vấn đề này, nhà nghiên cứu Nguyễn Ngọc San khẳng định: “Điển cố là viết gọn chuyện cũ lời xưa thành đôi ba câu chữ để đưa vào văn chương, làm cho câu văn hàm súc ngắn gọn, lời ít ý nhiều” [1]. Đồng quan điểm này, tác giả Dương Quảng Hàm cho rằng: “Các văn sĩ Tàu và ta, khi viết văn thường mượn một sự tích xưa hay một câu thơ, câu văn cổ để diễn tình ý của mình nhưng không kể rõ việc ấy hoặc dẫn cả nguyên văn mà chỉ dùng một vài chữ để ám chỉ việc ấy hoặc câu văn ấy. Cách làm ấy có thể gọi chung là dùng điển cố” [2]. Với những nhận định này, các nhà nghiên cứu đã chỉ ra hai dạng thức của cách dùng điển: thứ nhất là mượn “chuyện cũ” (dụng điển), thứ hai là mượn “lời xưa” (lấy chữ). Mượn chuyện cũ tức là dẫn lại tích xưa, chuyện xưa, người đọc qua tích đó hiểu được hàm ý sâu xa của câu thơ, lời thơ. Dùng “lời xưa” là 1 Nhận bài ngày 28.07.2016; gửi phản biện và duyệt đăng ngày 20.08.2016 Liên hệ tác giả: Trần Thị The; Email: tranthe.ncsk32@gmail.com 42 TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ ĐÔ H NỘI mượn một vài câu chữ trong câu văn, câu thơ cổ để đặt vào câu thơ của mình khiến người đọc phải nhớ lại câu văn câu thơ kia mà hiểu ý. Khả năng truyền đạt nội dung lớn hơn nhiều so với ý nghĩa chứa đựng trong bản thân từ ngữ là đặc điểm nổi bật nhất của các điển tích điển cố. Thơ bang giao là một bộ phận của thi ca trung đại, chịu ảnh hưởng trực tiếp của thi pháp cũng như quan niệm thẩm mĩ của thời đại, việc dùng điển không là ngoại lệ. Vì thế tìm hiểu thơ bang giao không thể không quan tâm đến điển tích điển cố. Trong thơ bang giao Việt Nam giai đoạn từ thế kỉ X đến hết thế kỉ XIV, việc sử dụng điển tích điển cố phong phú đa dạng trên các phương diện: số lượng, nguồn gốc xuất xứ, phạm vi, cấp độ ý nghĩa mà điển cố biểu đạt. 2. NỘI DUNG 2.1. Số lượng, xuất xứ, phạm vi của điển cố trong thơ bang giao thế kỉ X - XIV Trong thơ ca bang giao Việt Nam giai đoạn từ thế kỉ X đến hết thế kỉ XIV, các nhà ngoại giao / thi nhân đều có thói quen “dụng điển”, “lấy chữ”. Tuy nhiên, việc sử dụng điển cố điển tích ở mỗi tác giả là khác nhau. Nhiều thi nhân hay sử dụng điển coi điển là phương thức hữu hiệu để diễn tả tình ý mình như Phạm Sư Mạnh, Hồ Tông Thốc, Trần Mạnh... Có những bài sử dụng tới 7 điển như Ô Giang Hạng Vũ miếu, Đề Hạng Vương từ... Ngược lại có tác giả chú trọng về cảnh sắc thiên nhiên và con người Trung Hoa trong thực tại nên ít sử dụng điển như Mạc Đĩnh Chi, Nguyễn Trung Ngạn... Đặc biệt, có trường hợp tác giả không sử dụng điển cố như Mạc Ký, Trần Đình Thâm, Nguyễn Cố Phu. Khảo sát 100 bài thơ bang giao giai đoạn từ thế kỉ X đến hết thế kỉ XIV, ta thấy có 124 điển cố (bao gồm cả “dụng điển” và “lấy chữ”). Chúng có mặt ở hầu khắp các đề tài cả trong thơ đón tiếp sứ thần Thiên triều và thơ đi sứ phương Bắc. Tỉ lệ xuất hiện điển cố trung bình 1,24 điển/ 1 bài. Số lượng này chỉ mang tính ước đoán một cách tương đối do sự phức tạp của việc xác định điển cố trong tác phẩm của mỗi thi nhân. Bởi lẽ trong thơ đề vịnh các nhân vật, địa danh lịch sử, đối tượng đề vịnh cũng đồng thời là những điển văn học mà sứ thần vẫn sử dụng trong các sáng tác trong nước. Trong phần khảo sát này, người viết không xếp những điển chỉ địa danh gắn với các nhân vật lịch sử mà các sứ thần bắt gặp trên đường đi sứ, vì đây cũng là các sự vật hiện tượng diễn ra trong thực tại. Tuy chỉ là ước đoán, nhưng phần nào cũng phản ánh đặc điểm sáng tác của tác giả cũng như vốn kiến thức thông kim bác cổ, sự uyên bác và khả năng xử lí thông tin tinh tế của mỗi thi nhân. Về xuất xứ, các điển cố trong thơ bang giao giai đoạn từ thế kỉ X đến hết thế kỉ XIV được vận dụng trên cả hai nguồn: các nhân vật, sự kiện lịch sử và các câu nói, câu thơ nổi tiếng trong những văn bản cổ Trung Hoa. Nói về những con người tài hoa trung nghĩa bị cuộc đời vùi dập, tác giả lấy câu chuyện cuộc đời Khuất Nguyên; đề cao con người ngay TẠP CHÍ KHOA HỌC − SỐ 7/2016 43 thẳng, quyết giữ vững phẩm hạnh kẻ sĩ trước sự giả dối đảo điên của thời đại, các thi nhân mượn câu chuyện Đào Tiềm từ giã chốn quan trường trở về nhà xưa quê cũ vui thú điền viên với giậu cúc, gốc liễu; ngợi ca sự tiết hạnh thủy chung, thơ bang giao thường nhắc đến câu chuyện của “đế phi” là Nga Hoàng và Nữ Anh khóc thương chồng đến chết; ngưỡng vọng triều đại thịnh trị, các sứ thần thường hay nói đến triều đại Nghiêu, Thuấn... Những điển này thường có xuất xứ từ sách sử, truyện kinh điển của Nho gia như: Kinh thi, Kinh lễ, Kinh Xuân Thu, Kinh dịch, Trung dung, Hậu Hán Thư, Tả truyện, sách Tôn Tử... Các câu thơ của các bậc sử gia – triết gia – thi nhân được rút ra từ Sở từ, Liệt tiên truyện, Ly tao, thơ Đường luật, Khuất Nguyên, Thôi Hiệu, Lý Bạch, Đỗ Phủ... Đây cũng là xu hướng chung của thi ca thời trung đại bởi điển tích điển cố trong các tác phẩm này đều liên quan đến hệ tư tưởng đạo đức Nho gia, hướng con người tới việc hành xử thuận theo đạo lí hoặc là mẫu mực trong sáng tác nghệ thuật phù hợp với quan niệm thẩm mĩ của thời đại. ... uộc chuyện trò tao nhã mà có một bài thơ). Bài thơ hay đâu chỉ bởi lời lẽ chí tình mà còn ở ngôn từ tao nhã, đôn hậu nhiều điển cố điển tích. Kinh thi có câu: “Đầu ngã dĩ mộc đào / Báo chi dĩ quỳnh dao. (Tặng ta quả đào mộc / Ta đáp lại bằng ngọc quỳnh dao). Nhớ Lí Bạch, Đỗ Phủ viết: “Lạc nguyệt mãn ốc lương / Do nghi chiếu nhan sắc (Mộng Lí Bạch – Trăng sáng đầy rường nhà / Những tưởng rọi sáng dung nhan). Trong sách Gia ngữ cũng chép: Khổng Tử sang đất Đàm gặp Trình Tử dọc đường, hai người nghiêng lọng nói chuyện với nhau rất thân mật. Về sau người ta dùng từ “Khuynh cái” (Nghiêng lọng) để nói lên tình bạn khi xa nhau mong có ngày gặp lại. Vua Thái Tông mượn các ý đó để biểu thị tình cảm quí mến, thân mật, quyến luyến của mình đối với sứ thần phương Bắc Trương Hiển Khanh. Lời thơ ý vị, tinh tế, hàm súc, sâu xa. Dùng nhiều điển tích không phải để phô trương chữ nghĩa, Trần Thái Tông muốn gửi gắm tâm tình của mình. Điều đó làm cho các sứ thần nhà Nguyên hết sức vị nể. 50 TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ ĐÔ H NỘI Mặc dù là những vần thơ làm với mục đích ngoại giao nhưng vượt lên trên, đọng lại sau đó vẫn là tâm tình của những vị sứ giả ở hai quốc gia, hai dân tộc. Ai bảo rằng những câu thơ này chỉ đơn thuần là xã giao, chính trị mà không gửi gắm tâm tình của người diễn ngôn. Chính những tình cảm này đã làm cho thơ xướng họa, tặng tiễn vốn đậm chất chính trị khô khan xa rời địa hạt của thơ ca chức năng và nhập vào địa hạt của thơ ca nghệ thuật một cách tự nhiên nhuần nhị. Đề tài này vẫn được tiếp tục và đẩy mạnh trong thơ bang giao giai đoan sau. Những cuộc gặp gỡ giao tình văn chương chốn chân trời của sứ thần Việt Nam với sứ thần Trung Quốc, hay sứ thần Việt Nam với sứ thần Triều Tiên, Nhật Bản có lẽ đều bắt đầu từ những vần thơ xướng họa của các sứ thần Đại Việt với các sứ thần Nguyên, Minh giai đoạn này. Nói thế để thấy được vai trò tiên phong, nền móng của thơ bang giao X – XIV. Trong những vần thơ xướng họa, đối đáp, tặng tiễn đó những điển tích vẫn xuất hiện nhiều và tỏ ra rất đắc dụng vừa thể hiện tình giao hảo giữa các dân tộc vừa thể hiện tình bạn hữu... Cách sử dụng điển cũng là một nét độc đáo trong bút pháp của các nhà ngoại giao Đại Việt thời đại Lí Trần. Bên cạnh khuynh hướng khẳng định, dùng điển như một phương cách mượn lời xưa để diễn đạt chuyện hôm nay, mượn tích xưa để diễn đạt một nội dung nào đó, các sứ thần Đại Việt còn mượn điển để phủ định lại chính điển, đặt các điển bên nhau để hàm ý, tạo lập đánh giá, bàn bạc... Cả bài thơ Tạ Bắc sứ Mã Hợp Mưu, Dương Đình Trấn, chỉ có 8 câu thất ngôn bát cú Đường luật, tác giả Trần Minh Tông sử dụng tới bảy điển tích: “Cửu đỉnh điện an nhược Thái sơn / Thời dương thời vũ chướng yên hàn / Phổ thiện ngọc bạch qui Nghiêu Thuấn / Tị ốc huyền ca học Khổng Nhan / Đồng trụ bất tu lao Mã Viện / Bồ tiên nan phục tiễn Lưu Khoan / Thánh ân hạo đãng từ vân khoát / Hóa tác cam lâm mãn thế gian” (Tạ Bắc sứ Mã Hợp Mưu, Dương Đình Trấn – Chín cái vạc đặt vững như núi Thái sơn / Nắng mưa phải thì, lam chướng tan / Cả thiên hạ mang ngọc lụa về chầu Nghiêu, Thuấn / Khắp mọi nhà đàn hát, học theo Khổng Tử, Nhan Hồi / Không cần Mã Viện phải mất công dựng cột đồng / Khó mà còn khen ngợi Lưu Khoan có roi cói / Ơn thánh thượng mênh mông, mây lành rộng rãi / Hóa làm mưa ngọt đầy khắp thế gian). Việc sử dụng điển cố dày đặc không chỉ cho thấy tài năng mà còn cho thấy tấm lòng nhân đạo của người đứng đầu dân tộc – vua Trần Minh Tông. Cái tài toát lên từ những kiến thức văn hóa, lịch sử Trung Hoa, từ việc ngoại giao linh hoạt khôn khéo vừa thể hiện sự nhún nhường, đề cao Thiên triều vừa thể hiện quyết tâm giữ vững nền độc lập dân tộc. Cái đức lại được thể hiện ở khát vọng hòa bình để nhân dân nghỉ sức. Các điển “cửu đỉnh”, “thái sơn”, “ngọc bạch”, “Không Tử”, “Nhan Hồi” đều hướng tới ca ngợi thiên triều thịnh trị. Điển “Đồng trụ Mã Viện” “Bồ tiên Lưu Khoan” lại ngầm ý phủ định. Lưu Khoan một viên quan đời Hán, có đức khoan hòa dùng roi cói để trừng phạt kẻ có lỗi, cốt làm cho họ biết xấu hổ mà chừa. TẠP CHÍ KHOA HỌC − SỐ 7/2016 51 Vậy tại sao một nhân vật được Trung Quốc ngợi ca như vậy, Trần Minh Tông lại phủ định mạnh mẽ “nan phục tiễn Lưu Khoan”? Mã Viễn tướng nhà Đông Hán đã đàn áp cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng, trước khi về cho dựng cột đồng ở biên giới, mục đích phân chia lãnh thổ. Ở đây Trần Minh Tông đã thẳng thắn khai trừ “bất tu lao”. Nếu đọc hời hợt sẽ không thấy có mối liên quan giữa nội dung bốn câu thơ trên và bốn câu thơ dưới. Bốn câu thơ đầu với các điển: “Cửu đỉnh”, “Thái Sơn”, “Ngọc bạch”, “Nghiêu Thuấn”, “Khổng Nhan” tác giả ngợi ca triều đại thịnh trị của Trung Hoa. Bốn câu sau với các điển Lưu Khoan, Mã Viện, với hàm ý phủ định việc làm của hai nhân vật lịch sử đó. Khi xâu chuỗi các điển cố chúng ta thấy có một mạch liên kết chặt chẽ của ý thơ: nếu như triều đại nhà Nguyên cũng thịnh trị, vững chắc, yên bình như “cửu đỉnh”, “Thái Sơn”; vua Nguyên đức độ như “Nghiêu Thuấn”, bề tôi trung thành như “Khổng Tử”, “Nhan Hôì” thì cả thiên hạ sẽ qui phục, đâu cần sử dụng đến hình phạt roi cói của Lưu Khoan, hay hình thức đấu tranh đàn áp của Mã Viện... Lấy ngôn ngữ, sự hiểu biết về văn hóa lịch sử xứ người để đối đáp với chính văn thần của xứ người là một sự táo bạo, bản lĩnh và thông minh của vua Trần Minh Tông. Như vậy với việc sử dụng điển tích điển cố Trần Minh Tông không chỉ tỏ cho sứ thần Trung Hoa thấy rõ bản lĩnh Việt Nam, trí tuệ Việt Nam mà còn tăng thêm sức diễn đạt hấp dẫn của lời thơ. Hai câu thơ cuối kết lại bài thơ nhưng lại mở ra tất cả nhờ sự dư ba của ngôn từ nhờ sức biểu tượng của điển cố. Lời thơ của vị hoàng đế rất ý vị, tinh tế, sâu xa thể hiện khát vọng hòa bình của nước Nam ta. Hay trong Ca Phong đài, Nguyễn Trung Ngạn sử dụng hai điển là “Trạm lộ” và “Ca phong” trong thế đối sánh nhằm mục đích phủ định, phê phán: “Khả tích diệt Tần bình sở Hậu / Bất ca Trạm lộ chỉ ca Phong” (Đáng tiếc sau khi diệt Tần, bình sở xong / Không ca bài ca Trạm lộ mà chỉ ca bài ca Phong). Lưu Bang (Hán Cao Tổ) là nhân vật lịch sử vĩ đại được nhân dân Trung Hoa tôn thờ. Đối với Nguyễn Trung Ngạn, Hán Cao Tổ không phải là nhân vật hoàn hảo. Đài Ca Phong ở đất Bái Trung khắc bài Đại phong ca của Hán Cao Tổ sau khi diệt xong Tần, Sở trở về thăm quê hương và bắt đầu sự nghiệp trị bình. Bài ca tỏ chí lớn của Lưu Bang có câu “Sao có được người tráng sĩ để giữ bốn phương”. Lưu Bang chỉ muốn dùng oai vũ để chế ngự thiên hạ chứ không có lòng hòa hiếu vì chư hầu như bậc thiên tử trong bài thơ Trạm lộ trong Kinh Thi. Nguyễn Trung Ngạn phê phán Lưu Bang ở điểm đó. Trong bài thơ không một từ ngữ thể hiện thái độ phê phán Lưu Bang, nhưng ý nghĩa của bài thơ lại gợi ra từ hai điển cố: “Trạm lộ”, “ca phong”. Hai điển tích đặt trong thế đối xứng nhau tỏ ý phê phán người anh hùng tài mưu lược sau khi giành được thiên hạ không để nhân dân nghỉ sức an yên làm ăn mà luôn nuôi dã tâm bá chủ thiên hạ nên chỉ tập trung phát triển binh lực. Qua đó, Nguyễn Trung Ngạn cũng bộc lộ sự lựa chọn của riêng mình - một sứ thần thiết tha yêu hòa bình nhân đạo. 52 TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ ĐÔ H NỘI Cùng viết về Hạng Vũ, Ô Giang Hạng Vũ miếu (Phạm Sư Mạnh) và Đề Hạng Vương từ (Hồ Tông Thốc) đều sử dụng tới 7 điển cố. Toàn bộ số phận cùng sự nghiệp của Hạng Vũ được hai nhà thơ thể hiện qua hệ thống điển cố. Bằng cách này cả Phạm Sư Mạnh và Hồ Tông Thốc đã đưa những sự kiện, con người trong quá khứ về gần hơn với thực tại để nhận thức sâu sắc hơn về hiện thực lịch sử, từ đó mỗi nhà thơ cũng đưa ra quan điểm của mình về thời cuộc về sự xoay vần của tạo hóa: “Kỷ đa cái thế bạt sơn lực / Tân đạt nhàn hoa dã thảo trung” (Ô Giang Hạng Vũ miếu - Biết bao chí nhổ núi trùm đời / Đều nằm trong đám hoa dại cỏ đồng) và “Kinh doanh ngũ tải thành hà sự / Tiêu đắc khu khu tang Lỗ công” (Đề Hạng Vương từ - Năm năm lăn lộn được việc gì / Chỉ còn được vùi trong mả Lỗ công). Đời người được – thua, thành – bại, vinh – nhục, tốt – xấu, chính – tà,... khi chết cũng chỉ là một nấm mồ hoang xương lạnh bị thiên nhiên khỏa lấp. Kiếp người mong manh, phù vân, hư ảo. Chẳng có gì là mãi mãi vĩnh hằng, tất cả đều bị hủy hoại theo sự trôi chảy của thời gian, vậy cớ chi phải tranh giành, đố kị để hổ thẹn cùng núi sông?... Trong bài Vân Châu Ngân Giang dịch, Nguyễn Trung Ngạn cũng sử dụng nhiều điển. Có tới năm điển được sử dụng trong bài thơ này: “Lý thư”, “nhạn bạch” “cảo ngô” “kích trúc” “Minh kê khách”. Đây cũng là các điển mà người xa quê hay dùng để thể hiện nỗi lòng với quê hương cố quốc. Điều đặc biệt là các điển tích này đều kết hợp với các từ phủ định như “vô”, “bất”. Xa quê là nhớ quê là hoài vọng tin thư, vậy mà trong bài “vô tiêu tức”. Những âm thanh của cuộc sống giờ đã xa lắm rồi không còn một chút dấu vết, cửa Hàm Quan hiểm trở vắng bóng người. Tất cả dội vào nỗi hương quan của người lữ khách làm dậy nỗi nhớ quê da diết. Vì thế trong bài mới có hình ảnh người lữ khách “bất thành miên” (không ngủ được) và tâm trạng thì ngơ ngẩn “bất tri” (không biết) quên hết ý niệm thời gian... Phụng Bắc sứ cung độ Hy Lăng đại trùng nhật hữu cảm là một bài thơ xúc động về tình cảm của Phạm Nhân Khanh đối với vua Duệ Tông. Bài thơ có kết cấu hai phần. Sáu câu đầu gợi nhắc những ân tình vua – tôi. Hai câu cuối là tình cảm nhớ thương da diết của bề tôi đối với nhà vua. Tình cảm ấy hội tụ trong điển tích “Thương Ngô” và ngân nga ở hai câu thơ kết: “Lễ văn hữu tận tình vô tận / Trướng vọng Thương Ngô lệ mãn cân” (Lễ văn có khi hết, tình cảm không thể hết / Buồn trông núi Thương Ngô nước mắt đầm khăn). Núi Thương Ngô ở tỉnh Hồ Nam, Trung Quốc. Theo Thủy kinh chú, vua Thuấn đi tuần thú phía nam, mất ở chân núi Thương Ngô, mộ cũng táng ở đó. Trong câu thơ trên Phạm Nhân Khanh nhắc đến Thương Ngô gợi nhắc chuyện vua Trần Duệ Tông mất ở phía nam khi đi đánh Chiêm Thành. Tình cảm mãnh liệt đến mức tác giả cho rằng ngôn từ đành bất lực “lễ văn hữu tận”. Nhưng chỉ cần hai chữ “Thương Ngô” ở câu cuối thì ý thơ lại vút lên; tình cảm của tác giả vì thế mà thăng hoa tỏa sáng. TẠP CHÍ KHOA HỌC − SỐ 7/2016 53 Phụng mệnh đi sứ lưu biệt thân đệ (Doãn Ân Phủ) là nỗi niềm của người đi sứ. Các sứ giả giai đoạn này chưa nói đến lòng thương vợ nhớ con như các sứ giả đời Lê, Tây Sơn, Nguyễn nhưng trong tình quê hương vạn dặm ắt hẳn cũng có phần cho cái thế giới riêng tư ấy. Cái day dứt băn khoăn giữa hai chữ trung hiếu trong bài thơ này chẳng đã gửi gắm tấm lòng sâu nặng đối với thân nhân của người cầm cờ tiết đi sứ hay sao? Bài thơ không chỉ là sự day dứt giữa chữ trung chữ hiếu của người quân tử mà bao trùm lên tất cả là tình huynh đệ sắt son trong giờ phút biệt li. Nhân vật trữ tình trong bài thơ là sứ thần Doãn Ân Phủ tuy nhiên đọc bài thơ ta cứ thấy ngân nga đồng vọng giữa người đi và kẻ ở. Điều này được thể hiện độc đáo qua hệ thống điển tích. “Chim hồng nhạn”: loài chim sống dưới nước, khi bay con lớn bay trước, con bé bay sau có trật tự. Vì vậy, người xưa thường ví chim hồng nhạn với tình anh em trong một nhà. “Chim tính linh”: một giống chim nhỏ thân giống chim én. Người xưa cũng hay ví chim tính linh với tình anh em. Hai điển này cùng biểu tượng ý nghĩa lại được đặt trong hai câu thơ đối nhau của thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật, gắn liền với không gian khác nhau: “Tái viễn vân thâm hồng nhạn đoạn / Nguyên đầu phong cấp tính linh đàm” (Ngoài ải xa mây nhiều, chim hồng nhạn lẻ loi / Đầu đồng bằng gió mạnh, con tính linh lo lắng). Người đi xa cô đơn vì nỗi nhớ, người ở lại thì lo lắng cho những khó khăn trở ngại của người đi xa vạn dặm. Phải chăng đây chính là sự phân thân của chính Doãn Ân Phủ. Phải gắn bó và yêu mến người em lắm, Doãn Ân Phủ mới cô đơn, lẻ bóng khi đi sứ thiếu sự đồng hành của người em, khi chỉ một mình độc hành. Và cũng phải hiểu người em lắm tác giả mới thấu hiểu tâm trạng của người ở lại đang lo lắng cho người đi... Việc vận dụng một cách sáng tạo điển cố trong thơ bang giao giai đoạn này đã đem đến một “tinh thần hiện đại” cho những câu chuyện của quá khứ, thể hiện sự tài hoa của chữ nghĩa và cái sâu sắc trong cảm xúc trữ tình trong thơ. 3. KẾT LUẬN Như vậy điển tích điển cố trong thơ bang giao Việt Nam từ thế kỉ X đến hết thế kỉ XIV phong phú về số lượng, được sử dụng ở tất cả các đề tài và nhiều phạm vi khác nhau nhưng giống nhau ở chỗ tăng thêm sự hàm súc “ý tại ngôn ngoại” cho lời thơ, tạo hiệu quả cao trong diễn đạt. Không có nhiều biến thể nhưng chính cách sắp xếp đầy dụng ý giữa các điển cố đã tạo hiệu quả cao hiệu quả thẩm mĩ cao trong lời thơ. Chính điển tích điển cố đã làm cho những trang thơ bang giao lấp lánh màu sắc trí tuệ, khiến sứ thần Thiên triều ngạc nhiên, bị thuyết phục và khâm phục trước trí tuệ của các nhân sĩ Đại Việt. Điển tích điển cố mãi là một mã khóa quan trọng để tìm hiểu bộ phận thi ca bang giao nói riêng và thơ ca trung đại nói chung. 54 TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ ĐÔ H NỘI TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Nguyễn Ngọc San (1998), Từ điển điển cố trong nhà trường, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 2. Dương Quảng Hàm (1986), Việt Nam văn học sử yếu, Trung tâm học liệu – Bộ Giáo dục xuất bản, Hà Nội. 3. Nguyễn Đăng Na (2007), Con đường giải mã văn học Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội. CHARACTERISTICS OF CLASSIC REFERENCES IN VIETNAM DIPLOMATIC POETRY FROM X CENTURY TO THE END OF THE XIV CENTURY Abstract: The use of classic references makes the sentences and the verses becoming “fascinatingly charming” through a system of inferences and symbolic meanings that was formed by old tales. In Viet Nam diplomatic poetry from X century to the end of the XIV century, this feature is presented throughout the quantity, scope and origin of the classic reference, as well as the meaningful content and author’s use. Keywords: literature, classic reference, diplomatic, Envoy Poetry, Viet Nam diplomatic poetry, from X century to the end of the XIV century.
File đính kèm:
- dac_diem_cua_dien_co_trong_tho_bang_giao_viet_nam_giai_doan.pdf