Bản chất của dịch vụ ngân hàng và các hình thái phát triển của nó trong bối cảnh ứng dụng công nghệ
Lịch sử cho thấy, công nghệ đã góp phần quan trọng trong việc định hình
các hình thái phát triển nhưng không làm thay đổi bản chất của dịch vụ ngân hàngtối đa hóa trải nghiệm khách hàng và gia tăng sức khỏe tài chính với các dịch vụ
mang tính cá nhân hóa cao, tức thời và có cảm xúc. Trên cơ sở gợi ý của Brett King
(2018), bài viết đã mô hình hóa các hình thái phát triển của dịch vụ ngân hàng dựa
trên mối quan hệ với các điều kiện nền tảng như: khả năng hấp thụ công nghệ; mức
độ cạnh tranh của thị trường; ứng dụng công nghệ trong phát triển kênh phân phối
từ vật lý lên không gian số;
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Bản chất của dịch vụ ngân hàng và các hình thái phát triển của nó trong bối cảnh ứng dụng công nghệ", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Bản chất của dịch vụ ngân hàng và các hình thái phát triển của nó trong bối cảnh ứng dụng công nghệ
1 © Học viện Ngân hàng ISSN 1859 - 011X Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng Số 226- Tháng 3. 2021 Bản chất của dịch vụ ngân hàng và các hình thái phát triển của nó trong bối cảnh ứng dụng công nghệ Tô Kim Ngọc Ngân hàng thương mại cổ phần Ngoại thương Việt Nam Nguyễn Khương Duy Công ty TNHH Deloitte Việt Nam Ngày nhận: 01/03/2021 Ngày nhận bản sửa: 00/00/2021 Ngày duyệt đăng: 23/03/2021 Tóm tắt: Lịch sử cho thấy, công nghệ đã góp phần quan trọng trong việc định hình các hình thái phát triển nhưng không làm thay đổi bản chất của dịch vụ ngân hàng- tối đa hóa trải nghiệm khách hàng và gia tăng sức khỏe tài chính với các dịch vụ mang tính cá nhân hóa cao, tức thời và có cảm xúc. Trên cơ sở gợi ý của Brett King (2018), bài viết đã mô hình hóa các hình thái phát triển của dịch vụ ngân hàng dựa trên mối quan hệ với các điều kiện nền tảng như: khả năng hấp thụ công nghệ; mức độ cạnh tranh của thị trường; ứng dụng công nghệ trong phát triển kênh phân phối từ vật lý lên không gian số; hay thiết kế dịch vụ theo hướng giảm lực ma sát và Substance of banking services and their forms of development under context of technology disruption Abstract: History has shown that technology has played a critical role in shaping the forms of banking service without changing its substance- maximizing customer experience and increasing financial sustainability with emotionally personalized and real-time services. Based on the idea suggested by Brett King (2018), this article develops a framework of change in banking service forms in line with underlying conditions such as technology absorption, market competitiveness, application of technology in developing distribution channels from physical branch to digital space or designing frictionless services... and especially the legal framework’s constraints. To specify, this article points out that the key regulation regarding e-Know-Your-Client (eKYC), information sharing mechanism, sandbox testing, cloud storage or blockchain-based value exchange mechanism and delegation to virtual assistants... should be adjusted appropriately to fit the situation of each country. Having to keep balance between benefits and risks relating to each degree of regulation openness, the implications of financial inclusion is key in establishing the policymakers’ determination toward innovation. Keywords: technology 4.0, openness of legal framework, open banking service ecosystem, financial inclusion. Ngoc Kim To Email: ngoctk.HO@vietcombank.com.vn Vietcombank Joint Stock Commercial Bank Duy Khuong Nguyen Email: duynguyen@deloitte.com Deloitte Vietnam Company Limited Bản chất của dịch vụ ngân hàng và các hình thái phát triển của nó trong bối cảnh ứng dụng công nghệ Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 226- Tháng 3. 20212 nhất là các ràng buộc của khung khổ pháp lý. Cụ thể, bài viết đã chỉ ra các điểm nút cần được tháo gỡ và điều chỉnh phù hợp với thực trạng của từng quốc gia như: định danh khác hàng điện tử (e-KYC); cơ chế chia sẻ thông tin; thử nghiệm sandbox; lưu trữ đám mây; hay cơ chế trao đổi giá trị qua blockchain và ủy quyền trợ lý ảo Trong bối cảnh phải cân bằng giữa lợi ích và rủi ro tương ứng với từng độ mở của quy định pháp lý, hàm ý về phát triển bao trùm đối với khả năng tiếp cận tài chính đóng vai trò quan trọng trong việc xác lập quyết tâm của các nhà làm luật đối với đổi mới. Từ khóa: công nghệ 4.0, độ mở khung khổ pháp lý, hệ sinh thái dịch vụ ngân hàng mở, phát triển tài chính bao trùm. 1. Giới thiệu Cách mạng công nghệ 4.0 đã định hình lại thế giới với các tác động chưa từng có tiền lệ và không thể đảo ngược. Đó là nơi các ngân hàng đang đối diện với các cơ hội và thách thức đan xen từ khách hàng mới, thị trường mới và cả các quy định mới. “Chúng ta (khách hàng) cần dịch vụ ngân hàng, chứ không phải các ngân hàng” hay “Nếu các ngân hàng không thay đổi, chúng tôi (giới tài chính công nghệ - fintech) sẽ thay đổi ngân hàng” là những câu nói đầy thách thức từ thị trường (Citigroup, 2018). Trong khi đó, ở nhiều quốc gia, các nhà làm luật cũng đã và đang cho thấy sự ưu tiên đối với mục tiêu phát triển tài chính bao trùm hơn là việc bảo hộ các ngân hàng truyền thống trước áp lực cạnh tranh. Trước bối cảnh đó, các ngân hàng thương mại (NHTM) truyền thống được đặt vào tình thế buộc phải thay đổi để tồn tại, trong đó nổi lên xu hướng ứng dụng công nghệ 4.0 vào phát triển hệ sinh thái dịch vụ ngân hàng mở. Tuy vậy, với xuất phát điểm khác nhau từ bối cảnh vĩ mô- vi mô đến động lực phát triển, mỗi ngân hàng ở từng nền kinh tế lại chọn cho mình những hướng đi riêng, tạo nên bức tranh chuyển dịch hình thái dịch vụ ngân hàng từ truyền thống lên hiện đại đa chiều và nhiều màu sắc. Điều này dẫn tới một thực tế là các ngân hàng đi sau trong tiến trình này khó xác định được cách tiếp cận đúng đắn nếu không nắm rõ được bản chất và các điều kiện nền tảng chi phối quá trình chuyển dịch đó. Để góp phần làm rõ chủ đề này, bài viết được bố cục như sau: Phần 2 đề cập tới bản chất và các hình thái phát triển của dịch vụ ngân hàng. Phần 3 giới thiệu quá trình chuyển dịch các hình thái phát triển trong mối quan hệ với các điều kiện nền tảng. Tiếp đó, các ràng buộc pháp lý và hàm ý của phát triển tài chính bao trùm được phân tích ở Phần 4, trước khi đưa ra kết luận trong Phần 5. Bài viết tổng hợp các kết quả nghiên cứu trước đó, quan sát thực tế ở Việt Nam, kết hợp với xâu chuỗi các hiện tượng để phát hiện ra bản chất và mô hình hóa các mối quan hệ tương tác trong một tổng thể nhất quán. 2. Bản chất của dịch vụ ngân hàng và vai trò của đột phá công nghệ trong phát triển các hình thái dịch vụ ngân hàng 2.1. Bản chất bất biến của dịch vụ ngân hàng Tính ứng dụng, thỏa mãn tức thời, gia tăng sức khỏe tài chính và sự hài lòng của khách hàng là bản chất bất biến của dịch vụ ngân hàng, chứ không phải tên ... của ngân hàng 3.0 sống và làm việc với công nghệ thì thế hệ Z được sinh ra và lớn lên trong công nghệ. Nhân tố nhâu khẩu học này sẽ thúc đẩy dịch vụ tài chính ngân hàng phát triển mạnh mẽ hơn nữa (Hình 4). Đến giai đoạn 4.0, hệ sinh thái ngân hàng mở được tích hợp và nhúng vào cuộc sống hàng ngày thông qua các trợ lý ảo (Hình 6) sẽ là bước đột phá tiếp theo của hình thái dịch vụ ngân hàng. Trong đó: Giai đoạn đầu của hình thái 4.0 được đặc trưng bởi các dịch vụ ngân hàng mang tính cá nhân hóa cao, theo bối cảnh trực tiếp và hướng tới thời gian thực trên hệ sinh thái ngân hàng mở (Hình 4). Cụ thể, thông qua ứng dụng công nghệ dữ liệu lớn, phân tích chuyên sâu của trí tuệ nhân tạo (học máy không giám sát) để phát hiện xu hướng trong thói quen, sở thích tiêu dùng của khách hàng, để từ đó đưa ra các gợi ý đề xuất dịch vụ mang tính cá nhân hóa cao, theo bối cảnh trực tiếp và gần như tức thời (bởi lúc này mức độ ứng dụng của công nghệ block-chain và trợ lý ảo còn hạn chế). Bên cạnh đó, việc tương tác với các đối tác qua giao diện lập trình ứng dụng (API) trên nền tảng đám mây sẽ mở rộng sự đa dạng của hệ sinh thái dịch vụ bao gồm cả dịch vụ tài chính lẫn phi tài chính. Để hướng tới được hình thái này, trước tiên đòi hỏi cơ chế chia sẻ thông tin người dùng giữa ngân hàng và các đối tác, vừa bảo mật thông tin vừa phát triển dịch vụ mới. Mối quan hệ cộng sinh này phản ánh nội hàm của lợi thế kinh tế theo quy mô và lợi thế so sánh. Fintech chuyên môn hóa thế mạnh của mình trong việc phát triển các ý tưởng sáng tạo nhằm đổi mới dịch vụ ngân hàng; trong khi đó, ngân hàng đóng vai trò tạo nền tảng kết nối để cung cấp hệ sinh thái dịch vụ đa dạng cho khách hàng. Nếu như không có cơ chế này, các ngân hàng chỉ có thể đóng vai trò là trung gian môi giới cho các dịch vụ phi tài chính để hưởng phí mà không thể đi tới trình độ phát triển cao hơn. Rõ ràng, một lần nữa, khung khổ pháp lý lại cho thấy mức độ ràng buộc đáng kể cần có sự điều chỉnh thích hợp. Thực tế, các nhà làm luật ở khu vực liên minh châu Âu (EU) và Anh đã khởi xướng xu hướng chia sẻ thông tin này với Chỉ thị Dịch vụ Thanh toán 2 (Payment Servie Directive 2 - PSD2) và Ngân hàng mở (Open banking). Trong đó, điển hình là các quy định về ngân hàng mở còn yêu cầu thiết kế tiêu chuẩn của các giao diện lập trình ứng dụng (API), nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho khả năng liên kết giữa các ngân hàng và hệ sinh thái. Ngoài ra, còn cần có hành lang pháp lý cho việc triển khai cơ chế sandbox thử nghiệm dịch vụ mới trong khi vẫn bảo vệ được người dùng với ý tưởng “thất bại nhanh có kiểm soát” nhằm thúc đẩy tiến trình phát triển và đưa ra thị trường các dịch vụ mới. Thêm vào đó, vấn đề sử dụng công nghệ đám mây (cơ sở hạ tầng, nền tảng và ứng dụng như là dịch vụ) cũng đóng vai trò quan trọng trong việc kết nối các chủ thể trong hệ sinh thái ngân hàng TÔ KIM NGỌC - NGUYỄN KHƯƠNG DUY Số 226- Tháng 3. 2021- Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng 11 mở. Mặt khác, để đáp ứng được bài toán quản lý, cần phát triển các công nghệ reg- tech (quản lý bằng công nghệ) ứng dụng trong quản lý không chỉ nội bộ ngân hàng mà còn từ góc độ ngân hàng trung ương. Ở tầm phát triển cao hơn, hệ sinh thái ngân hàng mở với các dịch vụ mang tính cá nhân hóa cao, tức thời, có cảm xúc (thấu hiểu người dùng) vượt ra ngoài bối cảnh trực tiếp sẽ được nhúng vào cuộc sống hàng ngày thông qua các trợ lý tài chính ảo có khả năng giao tiếp với nhau theo cơ chế ủy quyền (Hình 4). Bằng công nghệ học sâu, nhân diện giọng nói hay mạng lưới nơ-ron, các trợ lý giọng nói tích hợp trên điện thoại thông minh hay thiết bị thực tế tăng cường như kính mắt, đồng hồ thông minh (sử dụng công nghệ internet vạn vật - IoT) sẽ trở thành các nhà tư vấn tài chính đáng tin cậy, đồng hành cùng khách hàng. Thông qua đó, dịch vụ ngân hàng sẽ được nhúng vào cuộc sống hàng ngày của con người. Ở đó, có thể đưa ra các gợi ý vượt trên bối cảnh trực tiếp trên cơ sở tích hợp toàn bộ thông tin của người dùng, không chỉ tối đa hóa trải nghiệm mà còn gia tăng tích lũy tài sản, thực sự trở thành ngân hàng có cảm xúc và tức thời theo thời gian thực. Để hướng tới hình thái trưởng thành của giai đoạn 4.0, rõ ràng, sẽ cần lời giải cho bài toán về khung khổ pháp lý đối với cơ chế quản lý tiền kỹ thuật số trên nền tảng công nghệ blockchain và cơ chế ủy quyền cho các trợ lý tài chính ảo. 4. Độ mở của khung khổ pháp lý và hàm ý của mục tiêu phát triển tài chính bao trùm 4.1. Độ mở của khung khổ pháp lý Khung khổ pháp lý đóng vai trò rất quan trọng trong việc điều tiết và định hướng thị trường. Đặc trưng của nó là vừa mang tính hỗ trợ để thị trường hoạt động thông suốt, minh bạch, hiệu quả; vừa có tính chất ràng buộc để tạo môi trường ổn định và có trật tự. Brett King (2018) đã chỉ ra rằng, tồn tại một nghịch lý của sự phát triển là một hệ thống pháp lý đã phát huy rất tốt vai trò trong quá khứ nhằm đảm bảo an toàn tài chính của hệ thống lại được thiết kế với các đặc điểm khiến chúng trở nên không phù hợp để đương đầu với các thách thức trong tương lai. Từ những phân tích ở trên, các nút thắt nền tảng mà khung khổ pháp lý cần hướng đến giải quyết bao gồm: Thứ nhất, cơ chế e-KYC: Nền tảng công nghệ trí tuệ nhân tạo, dữ liệu lớn và sinh trắc học đã được kiểm chứng là mang lại kết quả xác thực chính xác hơn nhiều so với phương pháp thủ công truyền thống. Do đó, việc cho phép sử dụng e-KYC không những giảm bớt chi phí và rủi ro tuân thủ của các ngân hàng mà còn mở rộng khả năng cung ứng dịch vụ ngân hàng tới những khu vực mà mạng lưới chi nhánh vật lý không thể tiếp cận. Thứ hai, cơ chế chia sẻ thông tin người dùng, thử nghiệm sandbox: Để xây dựng được hệ sinh thái ngân hàng mở thực sự rất cần có khung khổ pháp lý về cơ chế chia sẻ thông tin giữa ngân hàng và các đối tác phát triển dịch vụ. Nếu không, các ngân hàng chỉ có thể đóng vai trò là các nhà môi giới, bán chéo các sản phẩm dịch vụ có sẵn của đối tác mà không có khả năng đồng sáng tạo. Đồng thời, cần có cơ chế bảo vệ quyền lợi khách hàng, tiến hành thử nghiệm trong sandbox với ý tưởng thất bại nhanh có kiểm soát; trên cơ sở đó, liên tục rút kinh nghiệm để hoàn thiện dịch vụ ngân hàng mới và đẩy nhanh tiến trình thương mại hóa. Thứ ba, quản lý cơ sở dữ liệu trên đám mây: Công nghệ đám mây mang tới nhiều lợi thế, đặc biệt là tính linh hoạt với quy mô, tốc độ ứng dụng công nghệ mới và Bản chất của dịch vụ ngân hàng và các hình thái phát triển của nó trong bối cảnh ứng dụng công nghệ Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng- Số 226- Tháng 3. 202112 khả năng tương tác nhanh chóng với các đối tác thông qua các API tiêu chuẩn. Việc vận hành trên đám mây đối với ngân hàng mở thực sự sẽ tạo nên “thế giới phẳng” cho dịch vụ tài chính ngân hàng trên phạm vi toàn cầu. Tuy vậy, các rủi ro về dữ liệu người dùng, vấn đề an ninh mạng sẽ cần được cân nhắc hết sức kỹ lưỡng trước khi ban hành khung khổ pháp lý liên quan. Ở bối cảnh hiện tại, nhiều quốc gia vẫn yêu cầu các ngân hàng phải đặt máy chủ và cơ sở dữ liệu trên lãnh thổ của mình cho mục đích quản lý. Thứ tư, ứng xử với cơ chế trao đổi giá trị của công nghệ blockchain và cơ chế ủy quyền trợ lý ảo: Trên thực tế, không thể phủ nhận rằng chính khiếm khuyết trong thiết kế khiến cho Bitcoin chưa thể trở thành đồng tiền số toàn cầu, khi mà nhu cầu tích lũy và đầu cơ khiến giá cả của nó không ổn định, đồng thời người nắm giữ không chịu sử dụng cho mục đích tiêu dùng. Nhưng thay vì coi đó là sự kết thúc của tiền số, ít nhất, Bitcoin là một sân tập thử nghiệm cho một đồng tiền số nào đó trong tương lai (Brett King, 2018). Rõ ràng trong lúc cơ chế trao đổi giá trị của các đồng tiền kỹ thuật số chưa được định hình rõ, đồng thời chứng kiến sự trồi sụt mạnh trong biến động giá của Bitcoin, sẽ là không khó hiểu khi nhiều quốc gia chính thức tuyên bố không công nhận đồng tiền này, đồng thời tiếp tục nghiên cứu hàm ý của nó đối với sự phát triển đồng tiền số quốc gia trong tương lai. Ngoài ra, tới trình độ phát triển cao của các trợ lý ảo, nhu cầu về cơ chế ủy quyền, tương tác và xác lập giao dịch giữa các trợ lý ảo sẽ được đặt ra. 4.2. Hàm ý của mục tiêu phát triển bao trùm liên quan tới khả năng tiếp cận dịch vụ tài chính ngân hàng Việc linh hoạt, cởi mở về khung khổ pháp lý chịu nhiều ràng buộc cố hữu tùy vào bối cảnh của từng quốc gia. Trong hoàn cảnh đó, tư duy về mức độ ưu tiên đối với sự phát triển bao trùm liên quan tới khả năng tiếp cận dịch vụ tài chính (financial inclusion) sẽ là động lực quan trọng cho quá trình chuyển đổi, xét trên các phương diện sau: Thứ nhất, mục tiêu phát triển bao trùm giúp các nhà điều tiết cân bằng được các đối trọng cạnh tranh trên thị trường. Ví dụ tại Kenya, với sự ra đời của M-pesa, từ 70% người trưởng thành không có tài khoản ngân hàng năm 2005, tới 2018, 100% người trưởng thành đã có tài khoản tiền di động. Khoảng 22 triệu trong tổng số 26 triệu người dùng tiền di động và 40% GDP của Kenya luân chuyển qua hệ thống của M-pesa. Chủ yếu dưới áp lực của các ngân hàng truyền thống, cuộc điều tra về hoạt động của M-pesa do Bộ Tài chính Kenya khởi xướng không giúp đảo ngược được thực trạng rằng số lượng tài khoản tiền di động đã vượt qua số lượng tài khoản ngân hàng. Và quan trọng hơn, dưới góc nhìn của các nhà lập pháp, phổ cập dịch vụ tài chính ngân hàng nhận được sự ưu tiên lớn hơn so với việc bảo hộ các ngân hàng truyền thống trước áp lực cạnh tranh (Brett King, 2018). Thứ hai, khả năng triển khai dịch vụ ngân hàng trong không gian số tăng khả năng tiếp cận cho các hộ gia đình thu nhập thấp và phụ nữ. Ấn Độ là ví dụ điển hình. Ban đầu, ngân hàng trung ương Ấn Độ yêu cầu các ngân hàng phải có 25% chi nhánh mở ở khu vực nông thôn, nhưng không hiệu quả khi mà phân khúc khách hàng này thường không đáp ứng các yêu cầu KYC truyền thống. Sau đó, sáng kiến thẻ Aadhaar ra đời với cải cách liên quan tới eKYC đã mang tới hiệu quả đáng ngạc nhiên. Cụ thể, nếu như năm 2014, chỉ có TÔ KIM NGỌC - NGUYỄN KHƯƠNG DUY Số 226- Tháng 3. 2021- Tạp chí Khoa học & Đào tạo Ngân hàng 13 281 triệu (48%) phụ nữ tại Ấn Độ có tài khoản ngân hàng, tới năm 2018 đã tăng lên 61% (Brett King, 2018). Thứ ba, phát triển bao trùm liên quan tới phổ cập tài chính còn là tiền đề cho sứ mệnh và tầm nhìn để thúc đẩy sự hình thành các tập đoàn tài chính lớn trên thế giới. Việc cung cấp các dịch vụ tài chính ngân hàng kịp thời đến những người trung thực và chăm chỉ đang gặp khó khăn về tài chính không chỉ mở rộng tập khách hàng cho ngân hàng mà còn cải thiện đáng kể phúc lợi xã hội, thúc đẩy các giá trị nhân văn vượt ra ngoài khung khổ lợi ích kinh tế, hướng tới sự phát triển bền vững và bao trùm (không ai bị bỏ lại phía sau). 5. Kết luận Công nghệ góp phần quan trọng trong việc định hình các hình thái phát triển dịch vụ ngân hàng nhưng không làm thay đổi bản chất của nó. Xét trong bối cảnh của Việt Nam, các vấn đề mà khung khổ pháp lý cần quan tâm như eKYC được cho là sẽ đi trước, theo sau bởi cơ chế chia sẻ thông tin (thử nghiệm sandbox với cơ chế bảo vệ người tiêu dùng). Trong khi đó, dịch vụ đám mây có thể ứng dụng trên phạm vi Việt Nam trước khi hướng tới các dịch vụ đám mây công cộng. Ngoài ra, đối với các ứng dụng trao đổi giá trị qua công nghệ block chain, Việt Nam nên lựa chọn chiến lược “chờ và quan sát thêm” cho tới khi kiểm chứng và định danh được vai trò của tiền kỹ thuật số, song song với quá trình nghiên cứu đồng tiền số quốc gia. Tương thích với thực tế này, hình thái phát triển của dịch vụ ngân hàng ở Việt Nam theo đánh giá chủ quan của nhóm tác giả đang ở giữa giai đoạn 2.0 và 3.0, dựa theo các quan sát sau: (i) xuất hiện sự cạnh tranh của fintech trong lĩnh vực ngân hàng, nhân khẩu học thay đổi theo hướng ưu thích công nghệ mới; (ii) nỗ lực hợp kênh (đồng nhất ngân hàng điện tử và ngân hàng số) của nhiều NHTM; (iii) xu hướng chuyển đổi hệ thống ngân hàng lõi và cơ sở dữ liệu thế hệ mới và dần ứng dụng trí tuệ nhân tạo trong tự động hóa như chatbox, phát hiện gian lận đồng thời tăng cường liên kết với các đối tác nhằm đa dạng hóa dịch vụ trên nền tảng ứng dụng (song chủ yếu là dịch vụ phi ngân hàng do chưa có cơ chế chia sẻ thông tin); iv) cho phép sử dụng eKYC. Rất cần các nghiên cứu tiếp theo để làm rõ hơn nhận định này. Mỗi khi công nghệ thay đổi, sẽ tạo thời cơ tốt để các quốc gia đang phát triển có thể bắt kịp với các nước tiên tiến thông qua ứng dụng công nghệ. Do đó, mức độ, phạm vi và tốc độ điều chỉnh tương thích với trình độ phát triển của thị trường sẽ quyết định tới năng lực cạnh tranh quốc gia trong tương lai. Đồng thời, rộng hơn cả đổi mới khung khổ pháp lý cho lĩnh vực dịch vụ ngân hàng, phát triển dịch vụ ngân hàng trong bối cảnh 4.0 cần đặt trong tổng thế chiến lược phát triển nền kinh tế số của quốc gia nói chung ■ Tài liệu tham khảo 1. Brett King (2018), Bank 4.0: Banking Everywhere, Never at a Bank, Singapore: Marshall Cavendish Business, e-ISBN: 9789814828383. 2. Citigroup (2018), Bank of the future, Truy cập ngày 28 tháng 02 năm 2021, từ https://www.citibank.com/ commercialbank/insights/assets/docs/2018/The-Bank-of-the-Future/ 3. Economist (2017), The world’s most valuable resource is no longer oil, but data, Truy cập ngày 28 tháng 02 năm 2021, từ https://www.economist.com/leaders/2017/05/06/the-worlds-most-valuable-resource-is-no-longer-oil-but-data 4. Osterwalder, Alexander; Pigneur, Yves; Clark, Tim (2010), Business Model Generation: A Handbook For Visionaries, Game Changers, and Challengers, Strategyzer series, Hoboken, NJ: John Wiley & Sons. ISBN 9780470876411.
File đính kèm:
- ban_chat_cua_dich_vu_ngan_hang_va_cac_hinh_thai_phat_trien_c.pdf