Xu hướng vận động của điểm nhìn trần thuật trong văn xuôi Việt Nam sau 1975

Trần thuật là phương diện hình thức cơ bản của tác phẩm tự sự, có vai trò rất

quan trọng trong việc chuyển tải ý đồ nghệ thuật cũng như thái độ thẩm mĩ của nhà văn.

Bài viết này nhằm tổng kết, khái quát hóa bình diện điểm nhìn trần thuật - một bình diện

nổi bật, thể hiện rõ sự đổi mới của thực tiễn văn xuôi nước ta sau 1975 và góp phần khắc

họa trung thực bức tranh văn học sử mà người đọc, người học, người dạy Ngữ văn hiện

nay đang quan tâm.

Xu hướng vận động của điểm nhìn trần thuật trong văn xuôi Việt Nam sau 1975 trang 1

Trang 1

Xu hướng vận động của điểm nhìn trần thuật trong văn xuôi Việt Nam sau 1975 trang 2

Trang 2

Xu hướng vận động của điểm nhìn trần thuật trong văn xuôi Việt Nam sau 1975 trang 3

Trang 3

Xu hướng vận động của điểm nhìn trần thuật trong văn xuôi Việt Nam sau 1975 trang 4

Trang 4

Xu hướng vận động của điểm nhìn trần thuật trong văn xuôi Việt Nam sau 1975 trang 5

Trang 5

Xu hướng vận động của điểm nhìn trần thuật trong văn xuôi Việt Nam sau 1975 trang 6

Trang 6

Xu hướng vận động của điểm nhìn trần thuật trong văn xuôi Việt Nam sau 1975 trang 7

Trang 7

Xu hướng vận động của điểm nhìn trần thuật trong văn xuôi Việt Nam sau 1975 trang 8

Trang 8

Xu hướng vận động của điểm nhìn trần thuật trong văn xuôi Việt Nam sau 1975 trang 9

Trang 9

Xu hướng vận động của điểm nhìn trần thuật trong văn xuôi Việt Nam sau 1975 trang 10

Trang 10

pdf 10 trang minhkhanh 10540
Bạn đang xem tài liệu "Xu hướng vận động của điểm nhìn trần thuật trong văn xuôi Việt Nam sau 1975", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Xu hướng vận động của điểm nhìn trần thuật trong văn xuôi Việt Nam sau 1975

Xu hướng vận động của điểm nhìn trần thuật trong văn xuôi Việt Nam sau 1975
TẠP CHÍ KHOA HỌC SỐ 3/2016 37 
XU HƯỚNG VẬN ĐỘNG CỦA ĐIỂM NHÌN TRẦN THUẬT 
TRONG VĂN XUÔI VIỆT NAM SAU 1975 
Nguyễn Thị Tuyết Minh1 
Trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2 
Tóm tắt: Trần thuật là phương diện hình thức cơ bản của tác phẩm tự sự, có vai trò rất 
quan trọng trong việc chuyển tải ý đồ nghệ thuật cũng như thái độ thẩm mĩ của nhà văn. 
Bài viết này nhằm tổng kết, khái quát hóa bình diện điểm nhìn trần thuật - một bình diện 
nổi bật, thể hiện rõ sự đổi mới của thực tiễn văn xuôi nước ta sau 1975 và góp phần khắc 
họa trung thực bức tranh văn học sử mà người đọc, người học, người dạy Ngữ văn hiện 
nay đang quan tâm. 
Từ khóa: Điểm nhìn trần thuật, văn xuôi sau 1975, Việt Nam 
1. MỞ ĐẦU 
Trần thuật là phương diện hình thức cơ bản của tác phẩm tự sự, có vai trò quan trọng 
trong việc chuyển tải ý đồ nghệ thuật cũng như thái độ thẩm mĩ của nhà văn. Nhân loại thế 
kỉ XXI đạt được thành tựu to lớn trong lĩnh vực tự sự/ trần thuật (học) - một lĩnh vực khoa 
học liên ngành với rất nhiều lí thuyết được khái quát từ thực tiễn phong phú của sáng tạo 
và tiếp nhận văn chương. Bài viết này không đi sâu vào các vấn đề lí thuyết trần thuật học 
mà vận dụng một số khái niệm công cụ đã được giới nghiên cứu xác lập để nhận diện, 
miêu tả và đánh giá về một chặng đường văn xuôi có nhiều đổi mới quan trọng ở nước ta - 
chặng đường từ sau 1975. Mục đích của chúng tôi nhằm tổng kết, khái quát hóa thực tiễn 
sáng tạo văn xuôi, góp phần vào việc khắc họa trung thực bức tranh văn học sử mà người 
đọc, người học, người dạy Ngữ văn hiện nay đang rất quan tâm. Trong khuôn khổ giới hạn, 
chúng tôi không thể bao quát mọi vấn đề của nghệ thuật trần thuật mà chỉ tập trung vào 
một khía cạnh nổi bật, thể hiện rõ sự đổi mới của văn xuôi nước ta 40 năm qua, đó là vấn 
đề điểm nhìn trần thuật. 
2. NỘI DUNG 
1
 Nhận bài ngày 25.03.2016; gửi phản biện và duyệt đăng ngày 28.04.2016. 
 Liên hệ tác giả: Nguyễn Thị Tuyết Minh; Email: nguyenthituyetminhsp2@gmail.com 
TẠP CHÍ KHOA HỌC SỐ 3/2016 38 
Điểm nhìn là vấn đề then chốt của kết cấu tác phẩm nghệ thuật. Nó hiện diện khắp nơi, chi 
phối hầu hết các yếu tố trên các cấp độ của văn bản; là “vị trí từ đó người kể nhìn ra và miêu tả sự 
vật trong tác phẩm. Không thể có nghệ thuật nếu không có điểm nhìn”. Trên thực tế, “giá trị của 
sáng tạo nghệ thuật một phần không nhỏ là do đem lại cho người thưởng thức một cái nhìn mới 
đối với cuộc sống. Sự thay đổi của nghệ thuật bắt đầu từ thay đổi điểm nhìn”(1). Mặt khác, thông 
qua điểm nhìn trần thuật, người đọc có dịp đi sâu tìm hiểu cấu trúc tác phẩm và nhận ra đặc 
điểm phong cách của nhà văn. Khảo sát điểm nhìn trần thuật trong văn xuôi Việt Nam sau 
1975, chúng tôi nhận thấy những xu hướng vận động như sau: 
2.1. Xu hướng nhạt dần điểm nhìn đại diện cộng đồng, gia tăng điểm nhìn cá thể hoá 
Mỗi kiểu tư duy văn học là sản phẩm của một tâm thức văn hoá, một tâm thế sáng tạo cụ thể. 
Trong giai đoạn đất nước có chiến tranh, nhà văn được đặt ở vị trí trung tâm của đời sống và đại 
diện cho lợi ích cộng đồng. Người kể chuyện trong văn xuôi Việt Nam từ 1945 - 1975 thường 
đồng nhất cái nhìn của mình với chân lí. Đó là cái nhìn “toàn tri”, được bảo đảm bằng kinh nghiệm 
của cộng đồng. Sau 1975, đất nước phát triển trong hoà bình, nhu cầu đổi mới toàn diện đời sống 
xã hội được ý thức và văn học cũng không thể viết như cũ. Từ đầu thập kỉ 80, văn xuôi bắt đầu 
chuyển mạnh sang cảm hứng thế sự - đời tư với điểm nhìn cá thể hoá. Mặc dù vẫn còn những tác 
phẩm duy trì điểm nhìn đại diện cộng đồng như Ông cố vấn, Quãng đời xưa in bóng, Đường về Sài 
Gòn nhưng chúng hầu như bị lấn át so với những tác phẩm tiếp cận hiện thực bằng cái nhìn cá 
thể hóa, tức là bằng kinh nghiệm cá nhân. 
Khảo sát trên các tác phẩm được dư luận chú ý, chúng tôi thấy sự chuyển dịch điểm nhìn khá 
rõ. Từ 1975 đến 1980, nhìn chung văn xuôi vẫn nghiêng về điểm nhìn đại diện cộng đồng. Có thể 
kể đến hàng loạt tác phẩm được bạn đọc yêu thích như: Tháng Ba ở Tây Nguyên (Nguyễn Khải), 
Miền cháy, Lửa từ những ngôi nhà, Những người đi từ trong rừng ra (Nguyễn Minh Châu), Năm 
1975 họ đã sống như thế (Nguyễn Trí Huân), Đất trắng (Nguyễn Trọng Oánh) Từ 1980 đến 
1986, dư luận bắt đầu dành sự quan tâm hơn cho những tác phẩm mang cảm hứng đạo đức - thế sự 
hay đời tư với điểm nhìn của kinh nghiệm cá nhân như Đứng trước biển, Cù lao Tràm (Nguyễn 
Mạnh Tuấn), Mưa mùa hạ, Mùa lá rụng trong vườn (Ma Văn Kháng), Người đàn bà trên chuyến 
tàu tốc hành, Bến quê (Nguyễn Minh Châu), Gặp gỡ cuối năm, Thời gian của người (Nguyễn 
Khải), Thời xa vắng (Lê Lựu) Từ 1986 trở đi, người đọc hầu như chỉ còn bị cuốn hút bởi những 
tác phẩm mà ở đó, số phận cá nhân trở thành đối tượng khám phá chủ yếu. Trong những cuốn tiểu 
thuyết được giải thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam hai năm 1988 - 1989, chỉ có Ông cố vấn của 
Hữu Mai là còn thấy rõ sự chi phối của điểm nhìn cộng đồng, nhưng nó được dư luận đánh giá cao 
(1)
 Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (đồng chủ biên) (2010), Từ điển thuật ngữ văn học, Nxb Giáo 
dục Việt Nam, tr.113. 
TẠP CHÍ KHOA HỌC SỐ 3/2016 39 
trước hết ở khối lượng tư liệu lịch sử và nhân vật Vũ Ngọc Nhạ đã được thể hiện rất “đời thường”. 
Ba cuốn tiểu thuyết được giải của Hội Nhà văn mùa giải 1990 - 1991 cùng hàng loạt tác phẩm 
được chú ý khác, và những tiểu thuyết được giải các năm 2000, 2005, 2006, 2007, 2009, 2011, 
2012 sau này, đều được viết bởi cảm hứng thế sự với điểm nhìn cá thể hoá. Đó là Nỗi buồn chiến 
tranh, Bến không chồng, Mảnh đất lắm người nhiều ma, Cát bụi chân ai, Bến trần gian, Hồi ức 
binh nhì, Ánh trăng, Cuốn gia phả để lại, Bi kịch nhỏ, Bức thư gửi mẹ Âu Cơ, Hậu thiên đường, 
Cánh đồng bất tận, Và khi tro bụi, Một mình một ngựa, Đội gạo lên chùa, Trò chơi hủy diệt cảm 
xúc 
Sự dịch chuyển từ điểm nhìn đại diện cộng đồng sang điểm nhìn cá nhân trong truyện ngắn 
còn rõ rệt hơn nữa. Từ những truyện ngắn gây bất ngờ đầu tiên như Hai người trở lại trung đoàn 
(Thái Bá Lợi), Bứ ... , nghĩ hộ của nhà 
văn một thời giờ đây dường như không còn thích hợp nữa. Trình độ của bạn đọc ngày càng không 
ngừng được nâng cao. Cái tôi cá nhân của người đọc đòi hỏi được xác lập như một nhân vị. Hơn 
nữa, cuộc sống đương đại hiện ra phức tạp muôn hình, muôn vẻ và người đọc có nhu cầu đánh giá, 
xem xét mọi điều bằng những trải nghiệm của riêng mình. Mặt khác, văn xuôi hôm nay không chỉ 
phản ánh hiện thực mà còn suy ngẫm về hiện thực. Hiện thực được mở ra với biên độ vô cùng rộng 
lớn: có hiện thực quen thuộc khả kiểm, khả tín, nhưng cũng có vùng hiện thực xa lạ, mơ hồ, bí ẩn, 
bất khả tín Đối với một số tác phẩm thì hiện thực không còn là mục đích tối thượng mà chỉ là 
phương tiện để thể hiện tư tưởng của nhà văn. Đối với nhiều nhà văn thì không chỉ “kể nội dung” 
mà còn là “viết nội dung”; điều quan trọng không phải là kể chuyện gì mà chính là cách thức kể 
câu chuyện ấy như thế nào. Cùng viết về một đề tài, cùng kể về một câu chuyện nhưng nhà văn 
này kể thì hấp dẫn, lôi cuốn độc giả; còn nhà văn kia thì không. Điều này trước hết do sự đa dạng 
hoá điểm nhìn trần thuật mang lại. Việc đa dạng hoá điểm nhìn trần thuật khiến cho “khối vuông 
rubic” của hiện thực, của lòng người được phơi lộ; thể hiện nhu cầu khám phá bản chất cuộc sống 
một cách sâu sắc, thận trọng; nhu cầu bình đẳng giữa nhà văn với độc giả Đa dạng hoá điểm 
nhìn trần thuật trong văn xuôi sau 1975 được biểu hiện ở việc gia tăng số lượng người kể chuyện, 
TẠP CHÍ KHOA HỌC SỐ 3/2016 42 
và nhà văn trao điểm nhìn trần thuật cho mọi nhân vật, không phân biệt nhân vật chính - phụ, nhân 
vật tin cậy - không tin cậy Nổi bật là các dạng thức sau đây: 
2.2.1. Luân phiên, lồng ghép điểm nhìn trần thuật 
Đây là hiện tượng tác phẩm không mặc định ở một điểm nhìn mà luôn đan xen, dịch chuyển 
từ điểm nhìn này sang điểm nhìn khác. Nhiều nhân vật trong tác phẩm luân phiên nhau đóng vai 
trò người kể chuyện, và từng nhân vật ấy bày tỏ cách nhìn riêng của mình về hiện thực. Cũng có 
khi, cùng lúc tồn tại nhiều điểm nhìn, các điểm nhìn chồng lên nhau, đan chéo, móc nối với nhau 
để mở ra cho người đọc những khám phá mới về đối tượng. Điều này tạo nên tính phức điệu, đa 
âm cho câu chuyện và tác phẩm văn xuôi trở thành một cấu trúc đa tầng, cùng lúc vang lên nhiều 
tiếng nói khác nhau. Chẳng hạn, trước số phận cơ cực, bất hạnh của người đàn bà trong 
truyện Chiếc thuyền ngoài xa, Nguyễn Minh Châu để cho nhiều điểm nhìn cùng soi rọi vào 
cái nhìn trẻ thơ, non nớt của đứa con trai kết án ông bố tàn bạo, và thề sẽ giết ông ta để bảo 
vệ mẹ. Nhưng con chị thì hiểu biết hơn, vừa khóc lóc vừa can ngăn em. Nhà nhiếp ảnh thì 
sẵn sàng “giữa đường dẫu thấy bất bằng mà tha”. Viên thẩm phán thì khăng khăng: ly hôn 
là giải pháp đúng đắn nhất. Nhưng người đàn bà, kẻ hứng chịu những trận đòn roi tàn nhẫn 
và phi lý của chồng lại nhìn nhận khác hẳn: bà hiểu chồng, thương con, hiểu tình cảnh nan 
giải của gia đình mình; biết mình phải nhẫn nhục, cam chịu để bầy con đông đúc khỏi chết 
đói. Bi kịch của mẹ con bà không dễ dàng giải quyết được nếu chỉ trông cậy vào thiện chí 
cá nhân. Người đàn bà ấy có cái trí khôn của đời sống. Bà ta không ảo tưởng: “Lòng các 
chú tốt, nhưng các chú đâu có hiểu được người làm ăn lam lũ, khó nhọc”(4). Rõ ràng, 
nhân vật người đàn bà hiện diện trước ống kính “vạn hoa” của tác phẩm. Và bạn đọc không 
dễ dàng phán xét đơn giản đúng - sai từ một phía, mà phải thận trọng cân nhắc từ nhiều 
phía để cắt nghĩa sao cho thấu tình đạt lí. Người đàn bà ấy vừa đáng giận lại vừa đáng 
thương. Phía sau gương mặt xấu xí của bà ta là vẻ đẹp ẩn khuất trong tâm hồn, vẻ đẹp của 
mẫu tính: dám hy sinh và chịu trách nhiệm trước đàn con của mình. Trong tiểu thuyết Sông 
Côn mùa lũ (5), điểm nhìn trần thuật liên tục di chuyển từ nhân vật này đến nhân vật khác. 
Có lúc tác phẩm được kể dưới điểm nhìn của nhân vật lịch sử Nguyễn Huệ (các chương 17, 
19, 30, 32); có khi được kể dưới điểm nhìn của thầy giáo Hiến (các chương 1,7, 15); có 
lúc lại kể dưới điểm nhìn của An - người yêu Nguyễn Huệ (các chương 75, 92, 97); có lúc 
điểm nhìn lại được giao cho nhân vật Lãng - em trai An (các chương 87, 99) Rất nhiều 
biến cố được lí giải khác nhau từ điểm nhìn của mỗi nhân vật. Và sự kết hợp linh hoạt các 
điểm nhìn trần thuật khiến mỗi sự kiện của đời sống được cắt nghĩa thấu đáo, khách quan 
(4)
 Nguyễn Minh Châu (1999), Tuyển tập truyện ngắn, Nxb Văn học, Hà Nội, tr.129. 
(5)
 Nguyễn Mộng Giác (2003), Sông Côn mùa lũ (2 tập), Nxb Văn học & Trung tâm nghiên cứu 
Quốc học 
TẠP CHÍ KHOA HỌC SỐ 3/2016 43 
và đa diện hơn. Tác phẩm văn học khi ấy mang dáng dấp “một bản giao hưởng” nhiều bè, nhiều 
điệu; đạt tới hiệu quả thẩm mĩ phong phú, bất ngờ. 
Không chỉ luân phiên, nhiều tác phẩm văn xuôi Việt Nam sau 1975, đặc biệt là sau 
1986 còn lồng ghép điểm nhìn trần thuật để làm mới kĩ thuật tự sự. Trong tác phẩm có sự 
tương tác giữa điểm nhìn của người kể chuyện với một hoặc nhiều nhân vật, tạo ra sự hoà 
phối, đan xen, phức hợp của nhiều kinh nghiệm, nhiều luồng tư tưởng, có khi cùng chiều, 
có khi đối nghịch. Tiểu thuyết Hồ Quý Ly(6) của Nguyễn Xuân Khánh là một ví dụ. Ở đây, 
người trần thuật xưng “tôi” mà nhân vật cũng xưng “tôi” giành quyền tự kể (Chương II: 
Hồ Nguyên Trừng; chương V: Trần Khát Chân; chương VI: Cô gái vườn mai; chương XII: 
Đường lên Yên Tử; chương XIII: Hội thề Đốn Sơn). Ta đều biết, những nhân vật lịch sử 
như Hồ Nguyên Trừng, Trần Khát Chân là những con người của quá khứ, cách xa ngày 
nay đã sáu thế kỉ. Họ đã “an nghỉ dưới mồ” từ lâu, vậy mà trong tác phẩm, nhà văn cho họ 
“sống lại” để kể chuyện mình và chuyện của thời đại mình. Câu chuyện lịch sử được “hiện 
tại hoá” như đang vận động, đang diễn ra, đang song hành cùng con người hôm nay. 
Nguyễn Xuân Khánh đã tạo ra sự hoà phối của hai loại điểm nhìn: điểm nhìn trần thuật 
khách quan và điểm nhìn chủ quan của từng nhân vật lịch sử. Tác phẩm, do đó, có cấu trúc 
mở, giàu tính đối thoại; nói về quá khứ nhưng chất chứa những suy ngẫm sâu sắc về hiện 
tại. Và những sự kiện của lịch sử luôn hiện diện trong tư thế đang vận động ở thì “hiện tại 
chưa hoàn thành”. Trong nhiều truyện ngắn của Nguyễn Huy Thiệp, vai trò bình đẳng 
trong điểm nhìn của mỗi nhân vật khiến cho tác phẩm luôn là một cấu trúc đa tầng, đa 
nghĩa. Đọc văn Nguyễn Huy Thiệp đầy bất ngờ, “tiền văn” không đoán được “hậu văn”. 
Chi tiết nào cũng đa nghĩa, đầy sức gợi và có khả năng kích thích đối thoại rất mạnh. Tiểu 
thuyết Chinatown (7) cũng sử dụng kĩ thuật lồng ghép điểm nhìn cực kì phức tạp: “tôi” và 
“hắn” là hai mà thực ra là một; “tôi” và “chị ta” cũng vừa đồng nhập vừa phân li như thế. 
Rõ ràng, luân phiên, lồng ghép điểm nhìn khiến chủ đề tác phẩm và tư tưởng tác giả 
không lộ diện, khó nắm bắt; đòi hỏi người thưởng thức nhiều suy nghĩ, nhưng cũng gợi 
nhiều liên tưởng khác nhau. Điều này khiến tác phẩm thực sự “là một quá trình”, khơi gợi 
ở bạn đọc sự “đồng sáng tạo”; đến với mỗi bạn đọc, tác phẩm không ngừng “sinh sôi” về 
nghĩa. Và tất yếu, xung quanh một tác phẩm dễ gây ra tranh luận trái chiều. 
2.2.2. Giao điểm nhìn trần thuật cho những nhân vật “không đáng tin cậy” 
Đây là hiện tượng trong tác phẩm, nhà văn giao nhiệm vụ kể chuyện cho những nhân vật dị 
biệt, đặc biệt - kiểu nhân vật “không đáng tin cậy”. Đó có thể là một thương binh bị chấn thương 
(6)
 Nguyễn Xuân Khánh (2000), Hồ Quý Ly, Nxb Phụ nữ. 
(7)
 Thuận (2005), Chinatown, Nxb Đà Nẵng. 
TẠP CHÍ KHOA HỌC SỐ 3/2016 44 
thần kinh như Kiên (Nỗi buồn chiến tranh - Bảo Ninh); có thể là một hồn ma đã uống nước ở Bến 
Lú, Sông Mê nên nhớ nhớ, quên quên như các nhân vật Hương và Hoa (Người sông Mê - Châu 
Diên); có thể là nhân vật bào thai đang nằm trong bụng mẹ (Thiên thần sám hối - Tạ Duy Anh); có 
khi là một thanh niên bị điện giật chết hụt rồi bỗng có khả năng đi ngược về quá khứ (Trong sương 
hồng hiện ra - Hồ Anh Thái) 
Nỗi buồn chiến tranh(8) sử dụng người trần thuật không phải là cái tôi bình thường mà là cái 
tôi tâm hồn đã bị chấn thương tâm lí. Anh ta cũng không phải kể về chiến tranh như đang diễn ra 
mà là câu chuyện được nhớ lại; nhớ lại những gì ấn tượng nhất. Trong tư cách một “nhà văn 
phường”, Kiên luôn nhắc đi nhắc lại lời thú nhận rằng: mình viết trong trạng thái “rối bời”, “bấn 
loạn”. Câu chuyện về chiến tranh được hiện lên trong dòng kí ức “chập chờn bất định” của Kiên 
Điểm nhìn chủ quan hóa triệt để như thế, đòi hỏi ở người đọc sự ngờ vực, sự phản biện. Giao điểm 
nhìn trần thuật cho một nhân vật bị chấn thương như vậy, nhà văn Bảo Ninh muốn độc giả cùng 
trải nghiệm với một người lính “vô danh” nỗi đau đắng tận cùng của thân phận con người trong 
chiến tranh, để rồi tri nhận đầy đủ hơn giá trị của cuộc sống hòa bình. Mở đầu tiểu thuyết Người 
sông Mê, tác giả Châu Diên công khai rằng: ông không định “kể lại một câu chuyện” giống với 
hiện thực, không nhằm giảng giải, cắt nghĩa câu chuyện bằng lôgic đời sống mà đang trình bày một 
“trò chơi” của văn chương: “Trời và Đất đã cho sinh ra một ngày Đầu tiên, trong ngày đó có câu 
chuyện liên quan đến cô gái tên là Hoa Có điều khó hiểu và cũng gây khó dễ cho người kể 
chuyện, ấy là khi thì cô này nghĩ mình là Hoa, có khi chính cô lại cho rằng mình là Hương”; “Cô 
nhớ và không nhớ. Thực tình cô cũng có nhớ, nhưng rồi nhớ nhớ quên quên, thành thử là quên và 
nhớ lẫn lộn. Cô làm cho nhiều người ra trình diện trong cuốn sách này cũng có tật giống cô, ấy là 
cứ nhớ nhớ quên quên. Và có khi cô còn làm cho cả những ai tiếp xúc với các nhân vật trong sách 
này cũng lây cái tật quên quên nhớ nhớ ấy”(9). Nhân vật kể chuyện ở đây thật “không đáng tin 
cậy”. Cô ta chỉ là một hồn ma. Ngay từ đầu tác phẩm, tính chất hư cấu, bịa đặt cố ý lộ liễu nhằm 
gây ra sự ngờ vực với người đọc. Thậm chí tính “trò chơi” được tiết lộ ngay từ tên truyện: Người 
sông Mê. Tác phẩm không chia chương mà chia khúc, vừa theo trình tự kiếp luân hồi như quan 
niệm nhà Phật, vừa ngẫu hứng, vu vơ: Kiếp ảo, Kiếp gốc, Kiếp thực Hiện thực giả định này buộc 
người đọc phải có cách ứng xử khác: văn chương có nhất thiết chỉ có mục đích phản ánh hiện thực 
không? Văn chương còn có thể phản ánh những suy tư, mơ mộng về những vùng hiện thực bất khả 
tri - hiện thực của tâm linh, ảo giác. Nhân vật trần thuật ở đây không được điển hình hoá mà rất dị 
biệt, cá biệt, nhưng lại tạo ra một hiệu ứng thẩm mĩ bất ngờ với người đọc. Đọc xong câu chuyện, 
người ta bỗng thấy “thương người và lại thương thân”. Tiểu thuyết Thiên thần sám hối xác nhận 
“trò chơi” bằng chính lời Tựa: “Câu chuyện khó tin này là của một đứa trẻ còn ở trong bụng mẹ. 
(8)
 Bảo Ninh (2005), Nỗi buồn chiến tranh, Nxb Hội Nhà văn. 
(9)
 Châu Diên (2005), Người sông Mê, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội, tr.5. 
TẠP CHÍ KHOA HỌC SỐ 3/2016 45 
Nếu đọc xong mà quý vị vẫn không tin thì cũng không sao”(10). Và người trần thuật xưng “tôi” 
chính là cái bào thai ấy. Chỉ còn 72 giờ nữa là thai nhi phải chào đời. Nó đang trăn trở: có nên ra 
đời hay không? Ban đầu thai nhi “khao khát chờ đến cái ngày vĩ đại ấy”, nhưng rồi nó quyết định 
cứ ở trong bụng mẹ. Bởi nó đã nghe được câu chuyện một bà mẹ sinh con rồi bỏ con tại bệnh viện; 
chuyện một cô gái liên tục bị sảy thai vì quả báo do người chồng độc ác đã từng giết người; chuyện 
một gã thanh niên coi đứa con là tội nợ Từ đó, tác phẩm gợi ám ảnh nơi độc giả về một hiện 
thực trớ trêu rất đáng bận tâm của đời sống đương đại: những nhầm lẫn đáng buồn của con người, 
những dục vọng tăm tối đang hủy hoại cái đẹp và ăn mòn các giá trị sống 
3. KẾT LUẬN 
Có thể thấy, xu hướng vận động của điểm nhìn trần thuật trong văn xuôi Việt Nam sau 1975 
là không ngừng gia tăng điểm nhìn cá thể, và đa dạng hóa điểm nhìn trần thuật. Trước áp lực 
cạnh tranh từ các phương tiện giải trí - truyền thông, lối sống và nhịp độ sống của thời đại 
kỹ trị buộc người viết văn phải nỗ lực kiếm tìm hình thức mới cho văn xuôi Việt Nam đương 
đại. Dường như nhà văn hôm nay đang cố gắng đi tìm câu trả lời cho câu hỏi: Có thể viết văn như 
thế nào? Khi tái hiện hiện thực đời sống, nhiều nhà văn có xu hướng vượt khỏi mô hình trần thuật 
quen thuộc, xác lập mối quan hệ mới giữa văn chương với hiện thực, giữa nhà văn với bạn đọc để 
tạo ra những kinh nghiệm đọc mới. Đa dạng hóa điểm nhìn, phá vỡ cái nhìn toàn tri; văn xuôi 
đương đại tìm đến những điểm nhìn mang rõ dấu ấn cá nhân, cá thể. Văn học của điểm nhìn nhìn 
trần thuật như vậy đúng là không dễ đọc với mọi độc giả, đặc biệt là những độc giả yêu thích sự 
mực thước, hiền lành. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Nguyễn Thị Bình (2012), Văn xuôi Việt Nam sau 1975, Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội. 
2. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (1999), Từ điển thuật ngữ văn học, Nxb Đại học 
Quốc gia Hà Nội. 
3. Nguyễn Văn Long, Lã Nhâm Thìn (2006), Văn học Việt Nam sau 1975 - Những vấn đề nghiên 
cứu và giảng dạy, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 
4. Trần Đình Sử (Chủ biên) (2004), Tự sự học - một số vấn đề lý luận và lịch sử, Nxb Đại học Sư 
phạm Hà Nội. 
5. Trần Đình Sử (Chủ biên) (2008), Tự sự học - một số vấn đề lý luận và lịch sử, Phần 2, Nxb 
Đại học Sư phạm Hà Nội. 
6. Các tuyển tập truyện ngắn, tiểu thuyết, kí Việt Nam sau 1975. 
(10)
 Tạ Duy Anh (2004), Thiên thần sám hối, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội, tr.5. 
TẠP CHÍ KHOA HỌC SỐ 3/2016 46 
THE MOVEMENT OF THE TREND WITH THE NARRATIVE 
OVERVIEW IN VIETNAMESE PROSE AFTER 1975 
Abstract:Narration is an aspect of the basic form of narrative works of art, plays a 
important role in conveying the artistic purpose and aesthetic attitude of the writer. This 
article is used for the purpose of summarizing, generalizing the narrative point of view-a 
prominent level. Futhermore, this article also reflects the innovation of practical prose in 
Vietnam after 1975 and contributes to portraying honestly the painting of literature and 
history which the reader, the learner, the literature lecturer are now interested in. 
Keywords: Narrative point of view, prose after 1975, Vietnam. 

File đính kèm:

  • pdfxu_huong_van_dong_cua_diem_nhin_tran_thuat_trong_van_xuoi_vi.pdf