Xu hướng cách tân trong văn chương Tản Đà - nhìn từ phương diện thể loại
Trong khoảng 30 năm đầu của thế kỉ XX, nền văn học Việt Nam bắt đầu bước vào giai đoạn tái cấu trúc theo hướng hiện
đại hóa. Quá trình này được tiến hành trong sự “dùng dằng” giữa hai khuynh hướng: nếu tầng lớp cựu học cố gắng giữ gìn những
khuôn thước mẫu mực của văn chương cổ điển, thì thế hệ tân học lại ra sức học tập văn học hiện đại phương Tây và từng bước
hướng đến một nền văn chương mới. Đứng trước những thách thức và cơ hội của thời đại, một nhà Nho như Tản Đà đã mạnh
dạn tháo dỡ “cái cũ” trong trục dẫn của “cái mới”, lấy tư tưởng hiện đại phương Tây hòa nhập với minh triết phương Đông để
chuyển hóa, kết tinh thành thứ văn chương độc đáo, mới lạ. Nếu dấu ấn Á Đông làm cho văn chương Tản Đà thâm sâu, đượm
đà, thì những hơi hướng hiện đại phương Tây làm cho thứ văn chương ấy thêm lấp lánh, nhiều sắc màu. Trong xu hướng cách
tân nghệ thuật ấy, nỗ lực tiệm cận với tiểu thuyết hiện đại và xu hướng tự do hóa thi ca là hai trong số những đóng góp quan trọng
của Tản Đà. Được kiểm nghiệm bằng sự thành công vượt bậc trên văn đàn, những cách tân sáng tạo của Tản Đà đã gợi mở
những hướng đi tiềm năng cho thế hệ văn sĩ kế tiếp và góp phần đẩy nhanh tiến trình hiện đại hóa văn học dân tộc.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Tóm tắt nội dung tài liệu: Xu hướng cách tân trong văn chương Tản Đà - nhìn từ phương diện thể loại
UED Journal of Social Sciences, Humanities & Education, ISSN: 1859 - 4603 https://doi.org/10.47393/jshe.v11i1.911 TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI, NHÂN VĂN VÀ GIÁO DỤC Tạp chí Khoa học Xã hội, Nhân văn và Giáo dục, Tập 11, Số 1 (2021), 47-55 | 47 Cite this article as: Le, T. S. (2021). The tendency of modernization in Tan Da’s literature - viewed from a genre perspective. UED Journal of Social Sciences, Humanities and Education, 11(1), 47-55. https://doi.org/10.47393/jshe.v11i1.911 XU HƯỚNG CÁCH TÂN TRONG VĂN CHƯƠNG TẢN ĐÀ – NHÌN TỪ PHƯƠNG DIỆN THỂ LOẠI Lê Thanh Sơn Trường Đại học Sư phạm - Đại học Đà Nẵng, Việt Nam Tác giả liên hệ: Lê Thanh Sơn - Email: lethanhson1881989@gmail.com Ngày nhận bài: 24-12-2020; ngày nhận bài sửa: 18-5-2021; ngày duyệt đăng: 17-6-2021 Tóm tắt: Trong khoảng 30 năm đầu của thế kỉ XX, nền văn học Việt Nam bắt đầu bước vào giai đoạn tái cấu trúc theo hướng hiện đại hóa. Quá trình này được tiến hành trong sự “dùng dằng” giữa hai khuynh hướng: nếu tầng lớp cựu học cố gắng giữ gìn những khuôn thước mẫu mực của văn chương cổ điển, thì thế hệ tân học lại ra sức học tập văn học hiện đại phương Tây và từng bước hướng đến một nền văn chương mới. Đứng trước những thách thức và cơ hội của thời đại, một nhà Nho như Tản Đà đã mạnh dạn tháo dỡ “cái cũ” trong trục dẫn của “cái mới”, lấy tư tưởng hiện đại phương Tây hòa nhập với minh triết phương Đông để chuyển hóa, kết tinh thành thứ văn chương độc đáo, mới lạ. Nếu dấu ấn Á Đông làm cho văn chương Tản Đà thâm sâu, đượm đà, thì những hơi hướng hiện đại phương Tây làm cho thứ văn chương ấy thêm lấp lánh, nhiều sắc màu. Trong xu hướng cách tân nghệ thuật ấy, nỗ lực tiệm cận với tiểu thuyết hiện đại và xu hướng tự do hóa thi ca là hai trong số những đóng góp quan trọng của Tản Đà. Được kiểm nghiệm bằng sự thành công vượt bậc trên văn đàn, những cách tân sáng tạo của Tản Đà đã gợi mở những hướng đi tiềm năng cho thế hệ văn sĩ kế tiếp và góp phần đẩy nhanh tiến trình hiện đại hóa văn học dân tộc. Từ khóa: Tản Đà; văn học giao thời; cách tân nghệ thuật; tiểu thuyết hiện đại; thơ tự do. 1. Mở đầu Có thể thấy, Tản Đà là một hiện tượng văn học khá phức tạp, xuất hiện và tồn tại trong khoảng trên dưới 30 năm đầu của thế kỉ XX. Đây là khoảng thời gian chứng kiến sự xáo động mạnh mẽ trong cơ tầng xã hội và nền tảng văn hóa dân tộc. Khi nghiên cứu, định dạng và phân loại các vấn đề về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội phần lớn các học giả đều thống nhất gọi khoảng thời gian này là “giai đoạn giao thời”. Tính chất “giao thời” thực chất là trạng huống “lưỡng lự” của quá trình tiếp xúc văn hóa, được biểu hiện bằng sự tranh chấp giữa các vấn đề cũ - mới, truyền thống - hiện đại, bản địa - ngoại lai, phương Đông - phương Tây. Trong cái chạng vạng, chông chênh của sinh quyển văn hoá, nền văn học Việt Nam bước vào giai đoạn tái cấu trúc theo hướng hiện đại, mà chủ yếu là việc học tập văn học hiện đại phương Tây trên phương diện tư duy sáng tác và hệ thống thể loại. Đứng trước những thử thách và cơ hội của thời đại mới, Tản Đà đã mạnh dạn tháo dỡ “cái cũ” trong trục dẫn của “cái mới”, lấy tư tưởng hiện đại phương Tây hòa nhập với văn hóa minh triết phương Đông để chuyển hóa thành một thứ văn chương độc đáo, mới lạ. Đặc tính liên văn hóa ấy trong văn chương Tản Đà vừa là một đặc trưng mang tính thời đại - một hệ quả của quá trình tiếp xúc và “cưỡng bức” về văn hóa - nhưng mặt khác, đó vừa là minh chứng cho sự dấn thân táo bạo và một bản năng nghệ thuật thiên phú của ông. Từ một “nhà Nho thất thời”, Tản Đà đã biết cách “chuyển họa vi phúc”, biến một cơn khủng hoảng về văn hóa thành trữ lượng thẩm mĩ, biến thách thức thành cơ hội để bản thân phát tiết sáng tạo, từ đó chế tác ra những tác phẩm văn chương mang dư ấn truyền thống nhưng vẫn lấp lánh thứ ánh sáng mới mẻ, tân thời. Lê Thanh Sơn 48 2. Nội dung 2.1. Tản Đà và nỗ lực tiệm cận với tiểu thuyết hiện đại Trong sự chuyển dịch của hệ hình văn học, hệ thống thể loại bắt đầu có sự đa dạng và xáo trộn mạnh mẽ. Nếu như trước đây, lực lượng sáng tác và đối tượng thưởng thức của văn học là các quan lại, Nho sĩ, nên chủ yếu sáng tác bằng các thể loại trữ tình xoay quanh các phương thức phú, tỉ, hứng, vốn đã trở thành thói quen thẩm mĩ trong văn hóa cổ điển phương Đông. Ngược lại, văn học trong thời đoạn mới chủ yếu hướng đến môi trường đô thị để đáp ứng nhu cầu thưởng thức của tầng lớp thị dân. Các văn sĩ tự do du nhập những thể loại văn học mới từ phương Tây, thông qua con đường báo chí, dịch thuật Trong trào lưu của không gian văn học mới, tiểu thuyết là một trong những thể loại được chú ý đến sớm nhất và có những bước chuyển mình đáng kể trong tiến trình hiện đại hóa văn học. Những cái tên mở đường như Nguyễn Trọng Quản (Thầy Lazaro Phiền, 1887), Trần Chánh Chiếu (Hoàng Tố Anh hàm oan, 1910) Trương Duy Toản (Phan Yên ngoại sử, 1910), Hồ Biểu Chánh (Ai làm được, 1912) đã ít nhiều gây được sự chú ý trong độc giả đô thị. Tuy nhiên, nếu chúng ta hình dung: “Tiểu thuyết là hình thức tự sự cỡ lớn đặc biệt phổ biến trong thời cận đại và hiện đại. Với những giới hạn rộng rãi trong hình thức trần thuật, tiểu thuyết có thể chứa đựng lịch sử của nhiều cuộc đời, những bức tranh phong tục của xã hội miêu tả cụ thể các điều kiện sinh hoạt giai cấp tái hiện lại nhiều tính cách đa dạng” (Phuong Luu, 2006, 387), thì rõ ràng, ở thời điểm này, văn học dân tộc chưa có được một tiểu thuyết hiện đại đúng nghĩa. Ngược dòng thời gian, có thể thấy rằng, văn học cổ điển các nước phương Đông thường quan tâm đến văn vần nhiều hơn văn xuôi, cho nên thành tựu về thi ca cổ điển rất phong phú và đạt đến đỉnh cao, nhưng khi nói về nghệ thuật văn xuôi thì tương đối hạn chế. Về đại thể, thuật ngữ tiểu thuyết1 trong tư duy sáng tác và tiếp nhận của người Việt là mượn từ Trung Hoa mà mục đích của nó là nhằm phân biệt với hai thể loại cơ bản khá ... dằng, lưu luyến, tựa như tiếng lòng xao xuyến, bâng khuâng của kẻ ở - người đi. Kế tiếp, sự sắp xếp của những âm tiết mở ở cuối mỗi dòng thơ (ai, ui, ôi, ơi) tuy không hiệp vần như thơ cũ, nhưng được lặp đi lặp lại tạo ra độ ngân nga, vang vọng kéo dài về mặt âm thanh, như lời thở dài luyến tiếc của chủ thể trữ tình. Cùng với đó, sự vận ngôn thiên về thanh bằng dường như biến cả bài thơ trở thành một bức tranh bình đạm, nhẹ nhàng, tan dần trong cái không cái mênh mang, hư huyễn của một khung trời viễn mộng. Rồi bỗng nhiên, giữa cái mơ màng, bảng lảng ấy, thi nhân chen vào một câu thơ cao vút với 4 thanh trắc: “Cái hạc/ bay lên/ vút/ tận trời!”. Nhịp thơ thay đổi đột ngột thành 2/2/1/2 khiến chữ “vút” trở thành tiêu điểm của cả cảnh thơ lẫn tình thơ. Một chữ “vút” nhanh như ánh chớp mà nặng tựa thái sơn! Có thể nói, sự tinh anh, xuất thần của Tản Đà trong Tống biệt là đã mang cái Khoảnh khắc để đối chọi với Vĩnh cữu, lấy cảnh thiên thai để diễn dịch trần thế, từ chỗ tồn tại hóa chốn hư vô, tưởng gần ngay trước mắt mà xa tận chân mây. Kẻ ngậm ngùi, người ngơ ngác, ngỡ lạc vào bồng lai tiên cảnh, rồi phút chốc chỉ còn lại đoái trông, thẩn thơ “Thơ tự do không vần, câu thơ dài ngắn khác nhau, co duỗi linh hoạt không có nghĩa là thiếu sự liên kết nội tại giữa các yếu tố cấu thành bài thơ. Chính cảm xúc, năng lượng tâm linh và logic nội tại của sự vật sẽ kết dính các hình ảnh, chi tiết và ngôn ngữ thi ca” (T. P. T. Nguyen, 2014, 38), cho nên, khi đọc Tống biệt, chúng ta không thấy “độc vận”, không còn “hài thanh”, cũng không có niêm luật cân chỉnh, nhưng cả bài thơ lại trở thành một khối thống nhất với nhạc điệu mới lạ, linh hoạt, biến tấu theo dòng cảm xúc ẩn sâu trong chủ thể trữ tình. Có thể hình dung, Tống biệt là một “bức tranh toàn bích” bằng ngôn từ, với lấm tấm chút hồng phớt của cánh đào phai, với tí tách những tiếng nước chảy trong nguồn, với cái mờ mờ, bàng bạc của “bóng trăng chơi”, tất cả như đặt vào cái “hư không” nơi cánh hạc bay vút, rồi cơ hồ gieo vào lòng người những xao xuyến, bâng khuâng. Lời thơ lúc trầm bổng, u hoài, lúc dập dìu, nổi sôi, khi nhẹ nhàng như “lưu thủy hành vân”, khi gấp gáp như “ô vân đạp tuyết”, như xé tan cả không gian thần tiên, hư huyễn, để lại sau con chữ là cái trơ trọi của trời đất, cái thơ thẩn của bóng trăng, và hằn in đâu đó là sự lưu lạc của lòng người giữa chốn nhân gian. Học giả Thạch Trung Giả đã có những lời bình tuyệt đẹp về Tống biệt: “Cửa động đầu non đường lối cũ, mấy chữ khô lặng như vô tình nhưng rất gợi cảm. Thơ thẩn bóng trăng chơi khiến người đọc nhận thấy vầng trăng được nhân cách hóa như một linh hồn trầm tư cúi xuống nơi đã ghi vết một cuộc tình duyên đẹp nhất nhưng cũng bi thương nhất trên đời” (Thach, 1973, 511). Quả thực, không phải dễ dàng để có thể diễn dịch, bình phẩm cho hết cái xuất thần trong cách dụng ngôn ấy của thi sĩ, bởi ẩn tàng trong đó là cả những điều mơ hồ, những vẻ đẹp hư huyễn mà con mắt của người thường không dễ chân thấu. Lấy thi pháp của “hoàng hạc” để gợi đến chuyện trần ai, mượn cảnh Lưu - Nguyễn tạ từ thiên thai để vẽ ra cái tình tha thiết của khách du tử thời hiện kim, rồi trình diễn trong một hình thức thơ cách tân, độc đáo, với trục dẫn cảm xúc là cái tôi lãng mạn [trữ tình], vừa hư huyễn, bay bổng, vừa tinh tế, sâu lắng, Tản Đà đã làm ngỡ ngàng tất cả thi đàn thời điểm ấy. Tiêu biểu cho xu hướng “tự do hóa” thi ca, ngoài thi phẩm Tống biệt, thì Bài hát của Tây Thi cũng xứng đáng là một bản hợp âm ma thuật, vượt ra khỏi giới hạn của “tư thiên trầm nghĩa” chốn nhân gian. Chẳng phải “ngẫu khúc” hay “lãng ca”, cũng không mang theo vẻ đẹp mơ màng, huyễn hoặc, Bài hát của Tây Thi gây ấn tượng mạnh mẽ bằng sự réo rắt trong âm điệu, dồn nén trong cảm xúc: Non xanh xanh [1/2] Nước xanh xanh [1/2] Nước non như vẽ bức tranh tình! [4/3] Non nước tan tành [2/2] Giọt luỵ tràn năm canh! [3/2] Đêm năm canh [1/2] Luỵ năm canh [1/2] Nỗi niềm non nước [2/2] Đố ai quên cho đành! [2/1/2] Quên sao đành [1/2] Nhớ sao đành [1/2] Trần hoàn xa cách [2/2] Lê Thanh Sơn 54 Bồng Lai non nước xanh xanh! [2/2/2] (Nguyen K. X., 2002a, 394) Mỗi câu thơ ngắt nhịp linh hoạt, nhưng đều có quy luật để lặp lại, giống như đoạn điệp khúc của một khúc hát. Đặc biệt ở chỗ, những dòng thơ ngắn với nhịp ½ đúng ra là một câu thơ dài, nhưng Tản Đà đã cố tình cắt đi, rồi cấp cho nó một nhịp điệu ổn định, nhịp nhàng, như hiện ra trước mắt độc giả những bước đi duyên dáng, uyển chuyển trong điệu múa của Tây Thi, khi còn hầu hạ Ngô vương Phù Sai. Nhưng để ý cấu trúc cả bài thơ, việc tác giả để cho dòng thơ ngắn lại, vỡ ra cùng con chữ trên trang giấy, tựa như những giọt nước mắt ẩn chứa trong tâm can của người thiếu nữ vốn đang chất chứa quá nhiều ưu phiền. Ngoài ra, mỗi khổ thơ đều kết thúc bằng một dấu chấm than (!), điều này, một mặt đưa cao độ âm thanh lên đỉnh, nhưng mặt khác, nó cũng là dấu hiệu cho sự đứt gãy về mặt trường độ, đó chẳng khác gì những tiếng nấc nghẹn trên khóe môi của người con gái hồng nhan bạc mệnh kia. Với giai âm mới lạ, Tản Đà đã vẽ ra trước mắt người đọc cái duyên dáng, uyển chuyển của điệu múa Tây Thi, nhưng sau khung hình mĩ lệ ấy, thấp thoáng cả cuộc đời cay đắng, hờn tủi của người con gái hồng nhan mang số phận hẩm hiu, trở thành một món đồ trong trò chơi vương quyền của hai nước Việt - Ngô, để rồi chịu cái chết tang thương nơi đất khách quê người mà lòng vẫn còn vấn vương, đau đáu mối tình cùng Phạm Lãi thủa hàn vi. Không khóc mà lệ, không sầu mà đau, đó chính là cái tài tình của Tản Đà trong phép vận ngôn, để vừa có thể tháo dỡ cái khuôn thước khô cứng của thi ca cổ điển, mà vừa họa theo được cái thổn thức của cảm xúc, cái rưng rưng của lòng người. Rong chơi chốn Thiên thai với Tống biệt, ngạo nghễ trên tiên giới với Khúc hát của Tây Thi, Tản Đà đã từng bước chạm tới cái tinh hoa của vũ điệu ngôn từ, với “những cuộc ca vũ nhịp nhàng của âm điệu”, “những mãnh lực thần kì của chữ”, và cả “hội bay linh diệu của hình tượng” (Trinh & Nguyen, 2007, 184). Vậy là, không chỉ đóng góp vào sự phát triển của thể loại tiểu thuyết hiện đại, Tản Đà còn là thế hệ thi nhân đầu tiên ở Việt Nam dám tháo dỡ những quan niệm về “niêm, luật” để sáng tác thơ theo xu hướng tự do, phá cách. Không phải ngẫu nhiên, tác giả Nguyễn Đăng Điệp, khi nghiên cứu tiến trình hiện đại hóa thơ ca đã nhận định: “Nhân vật sáng chói nhất trên thi đàn hai mươi lăm năm đầu thế kỉ thuộc về Tản Đà” (Nguyen, 2016, 111). Những thể nghiệm thành công của Tản Đà đã để lại nhiều dư ấn tích cực trong cộng đồng tiếp nhận, đồng thời cũng hé mở những ánh bình minh đầu tiên cho phong trào Thơ mới. Quá trình tái cấu trúc trong văn học theo hướng cổ điển đến hiện đại, thực chất đều nằm trong dãy hệ thống liên văn bản (intertextuality) với sự chồng ghép và đối thoại liên tục giữa hệ hình văn học cũ và mới. Cho nên, chúng ta có thể thấy, cái âm hưởng mơ hồ, vô hình mà ám ảnh, da diết ở Tống biệt sẽ còn bắt gặp ít nhiều trong Hàn Mặc Tử, còn cái sắc điệu dập dìu, réo rắt, nhưng ma mị, lôi cuốn trong Bài hát của Tây Thi cũng không khó để tìm thấy ở Bích Khê sau này. Như vậy, sự xáo trộn và cả những xung đột gay gắt giữa cái mới và cái cũ, giữa truyền thống và hiện đại, cơ hồ đã trở thành một không gian thẩm mĩ vô cùng độc đáo, một cơ hội hiếm có, một sân khấu để “diễn viên” tài ba như Tản Đà tiên sinh “chuyển họa vi phúc” và dấn thân vào con đường sáng tạo nghệ thuật. 3. Kết luận Có thể nói, khác với sự ổn định của thời kì văn học cổ điển, đặc trưng nổi bật của khuôn diện văn học giao thời là sự đa dạng, phong phú trong hệ thống thể loại, với hình thức “lệch chuẩn” và những thể nghiệm nghệ thuật sơ khởi, chứ chưa phải là sự kết tinh của những mô thức thẩm mĩ đã thành kinh điển, mẫu mực. Xét trên tiêu chí đó, Tản Đà xứng đáng là một tác giả giao thời có nhiều đóng góp quan trọng cho quá trình hiện đại hóa văn học dân tộc. Nhìn nhận lại toàn bộ văn nghiệp của Tản Đà, chúng ta thấy rằng, việc duy trì những thể loại văn học cổ điển như Đường thi, hát nói, lục bát là minh chứng hùng hồn cho dấu ấn văn hóa truyền thống, nhưng bên cạnh đó, Tản Đà còn dấn thân vào một cuộc chơi văn chương đầy táo bạo, với những cách tân nghệ thuật độc đáo, tinh tế. Trong nỗ lực tiệm cận với tiểu thuyết hiện đại, Tản Đà đã từng bước phá vỡ lằn ranh của tiểu thuyết chương hồi và hướng đến sự mới mẻ, tân thời ở tư tưởng thẩm mĩ. Đặc biệt, trong xu hướng tự do hóa thi ca, Tản Đà đã dám “phá chấp” tháo dỡ những “khuôn vàng thước ngọc” cổ điển, để chạm tới sự thăng hoa của “thi nhãn” trong lãnh giới của cái Đẹp và ngôn từ. Một mặt, những cách tân nghệ thuật đó là minh chứng hùng hồn về một nội lực văn hóa thâm tàng cùng nguồn “bá khí ngạo nghễ” giúp thi nhân “làm chủ” trên thi đàn dân tộc trong chừng ba mươi năm “bão táp” đầu thế kỉ XX; mặt khác, chính những tìm tòi, sáng tạo này của Tản Đà đã gợi mở những hướng đi tiềm năng cho ISSN: 1859 - 4603, UED Journal of Social Sciences, Humanities and Education, Vol. 11, No. 1 (2021), 47-55 55 các thế hệ văn sĩ về sau. Trong cái chạng vạng giữa cũ và mới, cái chênh chao giữa “Tây” và “Ta”, Tản Đà đã biết cách chuyển hóa và kết tinh những luồng thẩm mĩ tưởng chừng như đối nghịch ấy. Bởi vậy, thưởng lãm văn chương của Tản Đà cần có con mắt tinh tường và một tâm hồn nhạy cảm, đủ để nhận ra những nét mới trong cái cũ, những cách tân trong truyền thống, mà đúng hơn là những cốt cách bản địa trong hương sắc ngoại lai. Chính sự cộng hưởng, giao thoa những nguồn thẩm mĩ ấy trở thành điểm ưu trội thể hiện dấu ấn liên văn hóa, là thành tựu điển hình của văn chương Tản Đà. Tài liệu tham khảo Jakobson, R. (1987). Language in Literature. Harvard University Press. Le, T. S. (2020). The concept of conveying the dao through literature and core expression in Tan Da’s poetry. UED Journal of Social Sciences, Humanities and Education, 10 (Special), 152–158. https://doi.org/10.47393/jshe.v10iSpecial.835 Nguyen, D. D. (2016). Some issues of modern Vietnamese literature (Một số vấn đề văn học Việt Nam hiện đại). Social Sciences. Nguyen, H. S., Tran, D. S., Huyen, G., Tran, N. V., Tran, N. T., & Doan, T. T. V. (2010). The individual in ancient Vietnamese literature (Về con người cá nhân trong văn học cổ Việt Nam). Education. Nguyen, K. X. (2002a). The complete works of Tan Da (Book 1) [Tản Đà toàn tập (Tập 1)]. Literature. Nguyen, K. X. (2002b). T The complete works of Tan Da (Book 2) (Tản Đà toàn tập) (Tập 2). Literature. Nguyen, T. P. T. (2014). The tendency to liberalize language in Vietnamese poetry in the 20th century (Xu hướng tự do hóa ngôn ngữ thơ Việt Nam thế kỷ XX). National Politicics. Nhat, L. (1961). Writing and reading a novel (Viết và đọc tiểu thuyết). Doi Nay. Pham, Q. (2006). Thuong Chi collection of literary works (Thượng Chi văn tập). Literature. Phuong, L. (2006). Literary theories (Lý luận văn học). Education. Thach, T. G. (1973). Encyclopaedia of analytic literature (Văn học phân tích toàn thư). La boi. Thanh, L. (1967). The diagram of Vietnamese literature (the final book) (Bảng lược đồ văn học Việt Nam) (quyển hạ)]. Trinh bay. Tran, D. H., & Le, C. D. (1988). Vietnamese literature in the transitional period, 1900-1930 (Văn học Việt Nam giai đoạn giao thời, 1900-1930). Universities and Vocational Schools. Tran, D. S. (2014). Literary theories (Book 2) (Lí luận văn học) (Tập 2). Hanoi National University of Education. Tran, N. (1998). Vietnam's Han language novels - Categorization and classification (Tiểu thuyết chữ Hán Việt Nam - Danh mục và phân loại). Proceedings of the 1st International Conference on Vietnamese Studies (Part 1), 485–495. Trinh, B. D., & Nguyen, D. M. (2007). Tan Da - About the author and his works (Tản Đà - Về tác gia và tác phẩm). Education. Tsubouchi, S. (2013). The essence of the novel (Chân tủy của tiểu thuyết) (Tran, H. Y., Trans.). The gioi. Vuong, T. N. (2003). A discussion of Vietnamese novels from the early 20th century to 1945 (Những lời bàn về tiểu thuyết trong văn học Việt Nam từ đầu thế kỷ XX cho đến 1945). The Writers' Association. THE TENDENCY OF MODERNIZATION IN TAN DA’S LITERATURE - VIEWED FROM A GENRE PERSPECTIVE Le Thanh Son The University of Danang - University of Science and Education, Vietnam Author corresponding: Le Thanh Son - Email: lethanhson1881989@gmail.com Article History: Received on 24th December 2020; Revised on 18th May 2021; Published on 17th June 2021 Abstract: During the first 30 years of the twentieth century, Vietnamese literature began to enter the period of restructuring in the direction of modernization. This process occurred in the conflicting existence between two tendencies: the former educated class tried to preserve the traditional values of the classical literature whereas the younger scholars actively absorbed the modern Western literature and gradually moved towards the new literature. Faced with the challenges and opportunities of the time, a Confucian like Tan Da boldly removed the “olds” in the pursuit of the “news”, integrating the Western thoughts into the Eastern wisdom to crystallize a unique and brand new form of literature. His works embraced the depth brought by the Oriental culture and adopted more colors with the Western breaths. Within this modernization process, his efforts to approach modern novels and his tendency to liberalize poetry are two among the most important contributions of Tan Da, opening up possibilities for the next generation of writers as well as helping accelerate modernization in national literature. Key words: Tan Da; transitional literature; artistic modernization; modern novels; free verse poems.
File đính kèm:
- xu_huong_cach_tan_trong_van_chuong_tan_da_nhin_tu_phuong_die.pdf