Vai trò “tiên phong” của thiền sư Khánh Hòa trong phong trào chấn hưng phật giáo ở Việt Nam trong những năm 1920-1945 qua tài liệu lưu trữ

Trên cơ sở khảo cứu các tài liệu lưu trữ (ở Pháp và Việt Nam), các công trình nghiên cứu ở Việt Nam và các luận án tiến sĩ, bài viết góp phần làm sáng tỏ vai trò “tiên phong”của Thiền sư Khánh Hòa trong phong trào chấn hưng Phật giáo ở Việt Nam trong những năm 1920-1945 nói chung và vai trò đối với sự ra đời của Nam Kỳ Nghiên cứu Phật học Hội nói riêng

Vai trò “tiên phong” của thiền sư Khánh Hòa trong phong trào chấn hưng phật giáo ở Việt Nam trong những năm 1920-1945 qua tài liệu lưu trữ trang 1

Trang 1

Vai trò “tiên phong” của thiền sư Khánh Hòa trong phong trào chấn hưng phật giáo ở Việt Nam trong những năm 1920-1945 qua tài liệu lưu trữ trang 2

Trang 2

Vai trò “tiên phong” của thiền sư Khánh Hòa trong phong trào chấn hưng phật giáo ở Việt Nam trong những năm 1920-1945 qua tài liệu lưu trữ trang 3

Trang 3

Vai trò “tiên phong” của thiền sư Khánh Hòa trong phong trào chấn hưng phật giáo ở Việt Nam trong những năm 1920-1945 qua tài liệu lưu trữ trang 4

Trang 4

Vai trò “tiên phong” của thiền sư Khánh Hòa trong phong trào chấn hưng phật giáo ở Việt Nam trong những năm 1920-1945 qua tài liệu lưu trữ trang 5

Trang 5

Vai trò “tiên phong” của thiền sư Khánh Hòa trong phong trào chấn hưng phật giáo ở Việt Nam trong những năm 1920-1945 qua tài liệu lưu trữ trang 6

Trang 6

Vai trò “tiên phong” của thiền sư Khánh Hòa trong phong trào chấn hưng phật giáo ở Việt Nam trong những năm 1920-1945 qua tài liệu lưu trữ trang 7

Trang 7

Vai trò “tiên phong” của thiền sư Khánh Hòa trong phong trào chấn hưng phật giáo ở Việt Nam trong những năm 1920-1945 qua tài liệu lưu trữ trang 8

Trang 8

Vai trò “tiên phong” của thiền sư Khánh Hòa trong phong trào chấn hưng phật giáo ở Việt Nam trong những năm 1920-1945 qua tài liệu lưu trữ trang 9

Trang 9

Vai trò “tiên phong” của thiền sư Khánh Hòa trong phong trào chấn hưng phật giáo ở Việt Nam trong những năm 1920-1945 qua tài liệu lưu trữ trang 10

Trang 10

Tải về để xem bản đầy đủ

pdf 16 trang Danh Thịnh 08/01/2024 820
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Vai trò “tiên phong” của thiền sư Khánh Hòa trong phong trào chấn hưng phật giáo ở Việt Nam trong những năm 1920-1945 qua tài liệu lưu trữ", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Vai trò “tiên phong” của thiền sư Khánh Hòa trong phong trào chấn hưng phật giáo ở Việt Nam trong những năm 1920-1945 qua tài liệu lưu trữ

Vai trò “tiên phong” của thiền sư Khánh Hòa trong phong trào chấn hưng phật giáo ở Việt Nam trong những năm 1920-1945 qua tài liệu lưu trữ
Nghiên cứu Tôn giáo. Số 9&10 - 2016 61 
NINH THỊ SINH* 
VAI TRÒ “TIÊN PHONG” CỦA THIỀN SƯ KHÁNH HÒA 
TRONG PHONG TRÀO CHẤN HƯNG PHẬT GIÁO Ở 
VIỆT NAM TRONG NHỮNG NĂM 1920-1945 
QUA TÀI LIỆU LƯU TRỮ 
Tóm tắt: Trên cơ sở khảo cứu các tài liệu lưu trữ (ở Pháp và 
Việt Nam), các công trình nghiên cứu ở Việt Nam và các luận án 
tiến sĩ, bài viết góp phần làm sáng tỏ vai trò “tiên phong”của 
Thiền sư Khánh Hòa trong phong trào chấn hưng Phật giáo ở 
Việt Nam trong những năm 1920-1945 nói chung và vai trò đối 
với sự ra đời của Nam Kỳ Nghiên cứu Phật học Hội nói riêng. 
Từ khóa: Thiền sư Khánh Hòa, phong trào, chấn hưng, Phật 
giáo, lưu trữ, Việt Nam. 
1. Đặt vấn đề 
Trong khoảng thời gian giữa hai cuộc chiến tranh thế giới, dưới ảnh 
hưởng của phong trào chấn hưng Phật giáo ở Châu Á, đặc biệt là ở 
Trung Quốc, ở Việt Nam cũng xuất hiện cuộc vận động chấn hưng 
Phật giáo, mà nơi khởi đầu là Nam Kỳ. Trải qua gần 10 năm vận động 
sôi nổi, đến năm 1931, phong trào đạt được địa vị hợp pháp, đánh dấu 
bằng sự ra đời của Nam Kỳ Nghiên cứu Phật học Hội. Tiếp sau Nam 
Kỳ Nghiên cứu Phật học Hội, các hội Phật giáo lần lượt được thành 
lập ở Trung Kỳ và Bắc Kỳ. Mặc dù mỗi hội Phật học có một chương 
trình hoạt động riêng nhưng tất cả đều nhằm mục tiêu phổ thông giáo 
lý Phật giáo bằng việc phiên dịch kinh điển Phật giáo ra chữ Quốc 
ngữ, chỉnh đốn thiền môn, thiết lập kỷ luật tăng già, đào tạo một thế 
hệ thanh niên tu sĩ chân chính và hữu học. 
Chấn hưng Phật giáo là một trong ba vấn đề quan trọng trong lịch 
sử tôn giáo ở Việt Nam giai đoạn nửa đầu thế kỷ XX1, chính vì vậy đã 
thu hút sự quan tâm của các học giả ở cả trong và ngoài nước, ở nhiều 
* Khoa Lịch sử, Đại học Sư phạm Hà Nội 2; NCS Đại học Aix-Marseille và Viện 
Nghiên cứu Châu Á (Cộng hòa Pháp). 
62 Nghiên cứu Tôn giáo. Số 9&10 - 2016 
mức độ và khía cạnh khác nhau. Ở Việt Nam, chấn hưng Phật giáo 
được đề cập trước hết trong các tác phẩm về lịch sử Phật giáo Việt 
Nam. Có thể kể tới các công trình của Mật Thể2, Mai Thọ Truyền3, 
Vân Thanh4, Nguyễn Lang5, Nguyễn Tài Thư6, Nguyễn Duy Hinh7 
Một số khía cạnh của phong trào cũng là đối tượng nghiên cứu của các 
học giả trong nước, chẳng hạn như Trần Văn Giàu quan tâm đến vấn 
đề tư tưởng và triết học Phật giáo8, trong khi đó Thích Thiện Hoa9, 
Thích Đồng Bổn10 lại giới thiệu một số gương mặt tiêu biểu của phong 
trào. Báo chí Phật giáo thu hút sự quan tâm của Thích Thanh Đạt11, 
trong khi đó Nguyễn Thị Thảo12 lại tìm hiểu về vấn đề văn học và 
Phật học trên báo chí Phật giáo giai đoạn trước năm 1945. Nguyễn 
Quốc Tuấn tập trung tìm hiểu về đặc điểm và vai trò của Phật giáo 
Việt Nam trong thế kỷ XX13. 
Ở nước ngoài, phong trào chấn hưng Phật giáo được đề cập trong 
các nghiên cứu của Nguyễn Thế Anh14, Trịnh Văn Thảo15 (Pháp). 
Trong những năm gần đây, cũng đã thấy xuất hiện hai luận án tiến sĩ ở 
Hoa Kỳ tìm hiểu về chấn hưng Phật giáo. Đó là luận án tiến sĩ Triết 
học của Nguyễn Thị Minh16 và Ngô Đức Hoàng17. Nếu như Nguyễn 
Thị Minh khai thác khía cạnh giáo dục tăng chúng trong phong trào 
chấn hưng ở cả ba kỳ, thì luận án của Ngô Đức Hoàng lại tìm hiểu về 
vấn đề “nhập gian Phật giáo”. 
Các công trình nghiên cứu kể trên đã nghiên cứu hoặc là phong trào 
chung hoặc là các phương diện, khía cạnh khác nhau của phong trào 
chấn hưng Phật giáo. Bên cạnh đó, nhiều công trình cũng đã đề cập 
đến nhiều nhân vật quan trọng trong phong trào chấn hưng Phật giáo ở 
cả ba Kỳ. Chẳng hạn, Lê Tâm Đắc trong tác phẩm Phong trào chấn 
hưng Phật giáo ở miền Bắc Việt Nam 1924-1954 đã giới thiệu 10 
gương mặt tiêu biểu của phong trào chấn hưng Phật giáo ở Bắc Kỳ, 
Nguyễn Lang giới thiệu những đại diện tiêu biểu (tăng sĩ và cư sĩ) của 
cả ba Kỳ. Tuy nhiên, có một nhân vật rất quan trọng và là một trong 
hai nhân vật gắn liền với phong trào chấn hưng Phật giáo ở Nam Kỳ - 
Thiền sư Khánh Hòa, nhưng các nghiên cứu mới chỉ dừng lại ở việc 
giới thiệu tiểu sử, hoặc đưa ra nhận định hết sức khái quát về vai trò 
của Thiền sư trong phong trào chấn hưng. Ví dụ, Nguyễn Lang, trong 
Việt Nam Phật giáo sử luận, tập 3, có nhận xét rằng: “Công đầu của 
Ninh Thị Sinh. Vai trò "tiên phong" của Hòa thượng Khánh Hòa... 63 
phong trào chấn hưng thuộc về Thiền sư Khánh Hòa”18 hay Trần 
Hồng Liên cũng khẳng định rằng “Hòa thượng Khánh Hòa là vị tổ mở 
đầu phong trào chấn hưng Phật giáo trong người Việt ở Nam Bộ”19. 
Vậy, vai trò ấy là gì ? Bài viết này, trên cơ sở khảo cứu các hồ sơ lưu 
trữ ở Pháp và Việt Nam, góp phần làm sáng tỏ “công đầu” cũng như 
vai trò “tiên phong” của Thiền sư Khánh Hòa trong phong trào chấn 
hưng Phật giáo ở Việt Nam trong những năm 1920-1945. 
2. Vai trò của Thiền sư Khánh Hòa trong giai đoạn 1920-1945 
Trước hết, Cần nhắc lại rằng, trong phong trào chấn hưng Phật giáo 
giai đoạn 1920-1945, trên cả ba Kỳ, có nhiều hội Phật giáo đã được 
thành lập. Theo Pascal Bourdeaux, đến năm 1935, ở Nam Kỳ có 6 hội, 
như Nam Kỳ Nghiên cứu Phật học Hội, Lưỡng Xuyên Phật học Hội, 
Thiên thai Thiền giáo tông lương hữu Hội20, ở Trung Kỳ có hai hội 
là Annam Phật học Hội và Đà thành Phật học21, ở Bắc Kỳ có Hội Phật 
giáo Bắc Kỳ. Chính các hội Phật giáo, Phật học này giữ vai trò chủ 
đạo trong các hoạt động chấn hưng. 
Trong số các hội đó, Nam Kỳ Nghiên cứu Phật học Hội ra đời sớm 
nhất. Sự ra đời của Nam Kỳ Nghiên cứu Phật học Hội có một ý nghĩa 
quan trọng, không những đạt được địa vị hợp pháp mà còn có tác dụng 
cổ vũ đối với tăng sĩ, trí thức trong việc vận động thành lập các hội Phật 
học ở Trung Kỳ và Bắc Kỳ. Mặc dù đến tháng 8 năm 1931, Nam Kỳ 
Nghiên cứu Phật học Hội mới chính thức được thành lập, nhưng những ý 
tưởng về việc thành lập một hội Phật giáo đã xuất hiện từ cuối năm 1927 
và tác giả của nó, không ai khác, chính là Thiền sư Khánh Hòa. 
Thiền sư Khánh Hòa sinh năm 1877, tại làng Phú Lễ, tổng Bảo Trị 
(Bến Tre). Vào thời điểm năm 1927, ngài trụ trì chùa Tiên Linh, ở Tân 
Hương (Bến Tre). Trên thực tế, liên quan đến v ...  tiếng Pháp được đặt mua tại Paris. Thư viện bắt đầu 
mở cửa phục vụ công chúng (cả tăng và tục) kể từ ngày 1 tháng 1 năm 
1930. Ông Trần Nguyên Chấn hy vọng sẽ xây dựng Pháp Bảo Phương 
thành hạt nhân cho Phật giáo ở Nam Kỳ. 
Cùng với việc thành lập Thư viện Phật học, những người chủ 
trương chấn hưng cũng quan tâm đến việc xin phép xuất bản tạp chí 
Phật học bằng chữ Quốc ngữ. Cụ thể tháng 9 năm 1929, ông Phạm 
Ngọc Vinh gửi đơn cho Thống đốc Nam Kỳ, xin phép xuất bản tạp chí 
Từ Bi Âm bằng chữ Quốc ngữ. Ông Phạm Ngọc Vinh sinh ngày 15 
tháng 12 năm 1903 tại làng Phú Tài, tổng Đức Thắng (Phan Thiết), 
trong một gia đình quan lại. Cha là ông Phạm Ngọc Quát, Thượng thư 
triều đình Huế, mẹ là bà Trà Thị Thức. Bản thân Phạm Ngọc Vinh làm 
việc tại ngân hàng Đông Pháp từ năm 1923, và là con rể của ông Trần 
Nguyên Chấn. Ngày 30 tháng 4 năm 1931, nghị định số 2683 do Toàn 
quyền Đông Dương René Robin ký, cho phép ông Phạm Ngọc Vinh 
được phép xuất bản tạp chí Từ Bi Âm bằng chữ Quốc ngữ, mỗi tháng 
một kỳ32. 
Bước tiếp theo là việc xin phép thành lập hội Phật giáo. Ngày 28 
tháng 12 năm 1929, ông Trần Nguyên Chấn thay mặt Ban Trị sự tạm 
thời đệ trình hồ sơ xin phép thành lập Association pour l’Etude et la 
Conservation du Bouddhisme en Cochinchine (tạm dịch: Hội Nghiên 
72 Nghiên cứu Tôn giáo. Số 9&10 - 2016 
cứu và Bảo tồn Phật giáo Nam Kỳ) lên Thống đốc Nam Kỳ. Hồ sơ này 
gồm đơn, bản Dự thảo Điều lệ của Hội và danh sách Ban trị sự tạm 
thời. Ban trị sự tạm thời gồm có 8 vị, trong đó tăng sĩ chỉ có một 
người duy nhất là Thiền sư Khánh Hòa, 7 người còn lại đều là cư sĩ và 
đều giữ các chức vụ trong các cơ quan hành chính, hãng sở của chính 
quyền thuộc địa33. Chính quyền thuộc địa nghiên cứu rất tỉ mỉ hồ sơ 
xin phép lập hội, và để đạt được sự phê chuẩn của chính quyền, bản 
dự thảo điều lệ cũng trải qua nhiều lần bổ sung và chỉnh sửa. Lần cuối 
cùng là ngày 19 tháng 8 năm 1931. Ông Trần Nguyên Chấn, thay mặt 
Ban Trị sự tạm thời Association pour l’Etude et la Conservation du 
Bouddhisme en Cochinchine gửi lên Thống đốc Nam Kỳ bản Dự thảo 
Điều lệ được hoàn thiện theo sự hướng dẫn của bức thư số 7190 ngày 
7 tháng 8 năm 1931. Đồng thời, ông cũng xin được bổ sung thêm hai 
chữ “Nam Kỳ” vào tên Hội bằng chữ Quốc ngữ, vừa để diễn tả nghĩa 
chữ “Cochinchine” sang tiếng Việt, vừa để phân biệt với Viện Phật 
học ở Phnom-Penh và Phật giáo Nam tông ở Campuchia và Lào. Sau 
gần hai năm kể từ ngày đệ trình hồ sơ xin phép thành lập, ngày 26 
tháng 8 năm 1931, Thống Đốc Nam Kỳ, J. Krautheimer, đã phê chuẩn 
bản Điều lệ của Hội và cho phép Nam Kỳ Nghiên cứu Phật học Hội 
được thành lập, quyết định số 206234. 
Theo bản Điều lệ được phê chuẩn, hội quán của Nam Kỳ Nghiên 
cứu Phật học Hội đặt tại chùa Linh Sơn, đường Douaumont, Sài Gòn, 
do Hòa thượng Khánh Hòa làm Chánh Hội trưởng. Bản Điều lệ cũng 
cho biết, mục đích của Hội nhằm sùng thượng Phật giáo tại chùa Linh 
Sơn, đường Douaumont, Sài Gòn và tu bổ chùa ấy; lo sự tu bổ và hành 
động ngôi Pháp Bảo Phương và ngôi Duyệt Kinh Thất lập tại chùa ấy, 
và mua kinh sách chữ Pháp và chữ Hán nói về Phật giáo trữ thêm 
trong ngôi Pháp Bảo Phương; dịch ra chữ Quốc ngữ những kinh sách 
bằng chữ Hán; lập tại chùa Linh Sơn một Thích học đường để dạy 
tăng đồ học đạo. 
Bốn tháng sau khi thành lập, Nam Kỳ Nghiên cứu Phật học Hội 
xuất bản tạp chí Từ Bi Âm làm cơ quan ngôn luận cũng như truyền bá 
Phật giáo. Số đầu tiên ra mắt bạn đọc ngày 1 tháng 1 năm 1932. Tòa 
soạn tạp chí đặt tại chùa Linh Sơn, do Hòa thượng Khánh Hòa làm 
chủ nhiệm. 
Ninh Thị Sinh. Vai trò "tiên phong" của Hòa thượng Khánh Hòa... 73 
So với mục đích và hoạt động của dự thảo điều lệ Hội Phật giáo 
năm 1927, Nam Kỳ Nghiên cứu Phật học Hội đã giữ lại những “ý 
tưởng công trình” quan trọng như xuất bản tạp chí Từ Bi Âm, phiên 
dịch và xuất bản kinh sách bằng chữ Quốc ngữ. Tác giả của những 
công trình đó, không ai khác là Hòa thượng Khánh Hòa. 
Tuy nhiên, Hòa thượng Khánh Hòa cũng chỉ giữ những chức vụ 
này trong khoảng gần 2 năm. Sao đó, do “Hội đã bị một số cá nhân 
dùng địa vị xã hội của họ để khuynh loát và hướng dẫn về một nẻo 
khác”35 nên Hòa thượng Khánh Hòa từ chức trong Ban Trị sự cũng 
như Chủ nhiệm tạp chí Từ Bi Âm. Cuối năm 1933, Ngài về chùa 
Long Hoa, tổ chức Phật học đường lưu động lấy tên là Liên đoàn 
Phật học xã, rồi lại chuyển sang thành lập Lưỡng Xuyên Phật học 
Hội vào năm 1934. 
3. Kết luận 
Như vậy, qua sự trình bày ở trên, có thể khẳng định rằng Hòa 
thượng Khánh Hòa chính là vị tiên phong và là tác giả của chủ 
trương thành lập Nam Kỳ Nghiên cứu Phật học Hội và tạp chí Từ Bi 
Âm. Bản thân Hòa thượng đã tích cực vận động thành lập Hội Phật 
giáo trong hai năm 1927-1928, tuy nhiên, cả hai lần xin phép đều 
không được chính quyền thuộc địa chấp nhận. Kinh nghiệm sau hai 
lần thất bại đã đưa đến sự hợp tác giữa Hòa thượng Khánh Hòa - là 
người có trình độ Phật học uyên bác, lại có sẵn chủ trương hành 
động về việc chấn hưng và ông Trần Nguyên Chấn - người có địa vị 
xã hội, có khả năng tài chính, nhiệt thành sùng Phật cùng với các 
viên chức trong các cơ quan hành chính của chính quyền thuộc địa. 
Sự hợp tác này đã đưa đến sự ra đời của Nam Kỳ Nghiên cứu Phật 
học Hội vào năm 1931. Đây là hội Phật giáo đầu tiên trong phong 
trào chấn hưng Phật giáo ở Việt Nam. Với sự xuất hiện của Nam Kỳ 
Nghiên cứu Phật học Hội, phong trào chấn hưng Phật giáo không 
những đạt được địa vị hợp pháp mà còn khuyến khích các nhà trí 
thức cùng các vị tăng sĩ ở Trung Kỳ và Bắc Kỳ tích cực vận động 
đưa đến sự ra đời của các hội Phật học ở Trung Kỳ và Bắc Kỳ trong 
các năm sau đó./. 
74 Nghiên cứu Tôn giáo. Số 9&10 - 2016 
CHÚ THÍCH: 
1 Nguyễn Thế Anh (2008), “Les principaux courants de pensée religieuse du 
Vietnam au XXe siècle”, in Nguyễn Thế Anh, Parcours d’un historien du 
Vietnam, Paris, Les Indes savantes: 623-633. 
2 Mật Thể (2004), Việt Nam Phật giáo sử lược, Nxb. Tôn giáo, Hà Nội: 232-234. 
3 Mai Thọ Truyền (2007), Phật giáo Việt Nam, Nxb. Tôn giáo, Hà Nội: 98-102. 
4 Vân Thanh (1974), Lược khảo Phật giáo sử Việt Nam qua các thời đại và phát 
nguồn của các giáo phái Phật giáo, Sài Gòn: 185-227. 
5 Nguyễn Lang (1985), Việt NamPhật giáo sử luận, Paris, Lá Bối; tái bản lần thứ 
2, San Jose-USA, 1993, tr. 13-179. 
6 Nguyễn Tài Thư (chủ biên, 1988), Lịch sử Phật giáo Việt Nam, Nxb. Khoa học 
xã hội, Hà Nội: 428-472. 
7 Nguyễn Duy Hinh (2009), Lịch sử đạo Phật Việt Nam, Hà Nội, Nxb. Tôn giáo, 
Nxb. Từ điển bách khoa, Hà Nội: 524-593. 
8 Trần Văn Giàu (1971), “Phong trào chấn hưng Phật giáo và các vấn đề tư tưởng 
triết học mà phong trào ấy đã nêu lên ở nước ta trong thời kỳ lịch sử giữa hai 
cuộc chiến tranh thế giới”, Nghiên cứu Lịch sử, số 139: 8-21, số 140: 7-19. 
9 Thích Thiện Hoa (1970), 50 năm (1920-1970) Chấn hưng Phật giáo Việt Nam 
hay là "ghi ơn tiền bối", Sài Gòn. 
10 Thích Đồng Bổn (chủ biên, 1996), Tiểu sử danh tăng Việt Nam thế kỷ XX, Thành 
hội Phật giáo Thành phố Hồ Chí Minh ấn hành: 79-220. 
11 Thích Thanh Đạt (1994), Báo chí Phật giáo với phong trào chấn hưng Phật giáo 
1930-1945, Khóa luận tốt nghiệp, Khoa Lịch sử, Đại học Tổng hợp Hà Nội. 
12 Nguyễn Thị Thảo (2014), Văn học và Phật học trên báo chí Phật giáo Việt Nam 
trước năm 1945, Luận án Tiến sĩ Văn học, Đại học Khoa học Xã hội và Nhân 
văn, Đại học Quốc gia Tp. Hồ Chí Minh. 
13 Nguyễn Quốc Tuấn (2013), Đặc điểm và vai trò của Phật giáo Việt Nam thế kỷ 
XX, Nxb. Từ điển Bách khoa, Hà Nội. 
14 Nguyễn Thế Anh (2008), Parcours d’un historien du Vietnam, Paris, Les Indes 
savantes, les chapitres "L’engagement politique du bouddhisme au sud du 
Vietnam dans les années soixante" et "Les principaux courants de pensée 
religieuse du Vietnam au XXe siècle", pp. 614-633. 
15 Trịnh Văn Thảo (2007), Vietnam du Confucianisme au Communisme, Paris, 
L’Harmattan: 305-309. 
16 Nguyễn Thị Minh (2007), Buddhist monastic education and regional revival 
movements in early twentieth century Vietnam, Luận án Tiến sĩ Triết học, 
Université de Wisconsin, Madison. 
17 Ngô Đức Hoàng (2015), Building a New House for the Buddha: Buddhist Social 
Engagement and Revival in Vietnam, 1927-1951, Luận án Tiến sĩ Triết học, 
Université de Washington, Washington. 
18 Nguyễn Lang (1985), Việt Nam Phật giáo sử luận, tập 3, Lá Bối xuất bản lần thứ nhất: 51. 
19 Trần Hồng Liên (1995), Phật giáo trong cộng đồng người Việt ở Nam Bộ từ thế 
kỷ XVII đến năm 1975, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội: 49. 
20 Pascal Bourdeaux (2003), Émergence et constitution de la communauté du 
Bouddhisme Hòa Hảo: Contribution à l’histoire sociale du delta du Mékong, 
1935-1955, Luận án Tiến sĩ Lịch sử, Paris, École Pratique des Hautes Études: 85. 
Ninh Thị Sinh. Vai trò "tiên phong" của Hòa thượng Khánh Hòa... 75 
21 Ngô Đức Hoàng (2015), Building a New House for the Buddha: Buddhist Social 
Engagement and Revival in Vietnam, 1927-1951, Luận án Tiến sĩ Triết học, 
Université de Washington, Washington: ii. 
22 Trung tâm Lưu trữ Quốc gia II, Tp. Hồ Chí Minh, phông Phủ Thống đốc Nam 
Kỳ, hồ sơ D9. 56/58. 
23 Nguyễn Lang, Việt Nam Phật giáo sử luận, tập 3, Lá Bối xuất bản lần thứ nhất, 
Paris 1985; Lá Bối in lần thứ hai, San-Jose, USA, 1993: 51. 
24 Nguyễn Thị Minh (2007), Buddhist monastic education and regional revival 
movements in early twentieth century Vietnam, Luận án Tiến sĩ triết học, 
Université de Wisconsin, Madison: 134-137. 
25 Chương trình 10 điểm gồm: lập Phật giáo tổng hội, lập Phật gia công học hội, lập 
Phật học tu thư xã, lập giảng đàn, lập trường học cho các con cái thiện tín học, 
lập thư viện trong các chùa, lập ra cuộc y tế trong các chùa, lập nhà bảo cô, tức là 
nhà để nuôi trẻ mồ côi, lập nhà nuôi kẻ khó, dạy nữ công cho con cái thiện tín. 
26 Thành hội Phật giáo Thành phố Hồ Chí Minh (2001), Biên niên sử Phật giáo Sài 
Gòn - Gia Định - Thành phố Hồ Chí Minh, 1600-1992, Nxb. Tp. Hồ Chí Minh: 81. 
27 G. Robert (1926), “Vì sao đạo Phật đáng cho hết thảy dân cõi cực đông sùng bái, 
Đông Pháp, ngày 13, 16 và 18 tháng 11. 
28 Trung tâm Lưu trữ Quốc gia II, Tp. Hồ Chí Minh, phông Phủ Thống đốc Nam 
Kỳ, hồ sơ D9. 56/58. 
29 Trung tâm Lưu tữ Quốc gia II, Tp. Hồ Chí Minh, phông Phủ Thống đốc Nam 
Kỳ, hồ sơ D.62/432. 
30 Ông là người đã cổ động phong trào duy tân của Phan Châu Trinh cũng như hoạt 
động của Phan Bội Châu. Đồng thời ông còn thành lập Đảng Lập Hiến Đông 
Dương vận động đòi tự trị cho Việt Nam. Đảng này dùng ba tờ báo: La tribune 
indochinoise, L’Écho Annamite và Đuốc Nhà Nam làm diễn đàn. 
31 Kho Lưu trữ Hải ngoại Pháp, Aix-en-Provence, phông Phủ thống sứ Cao Miên, 
hồ sơ 227. 
32 Kho Lưu trữ Hải ngoại Pháp, Aix-en-Provence, phông Phủ thống sứ Cao Miên, 
hồ sơ 227. 
33 Ban Trị sự tạm thời gồm các vị sau: 
Chánh Hội trưởng: Lê Khánh Hòa, Hòa thượng chùa Linh Sơn 
Phó Hội trưởng: Trần Nguyên Chấn, Chánh Thừa Biện hạng nhất tại dinh Đốc lý 
thành phố Sài Gòn 
Thủ quỹ: Trần Văn Khuê, Tri huyện tại phòng thứ sáu dinh Soái Phủ Nam Kỳ 
Phó Thủ quỹ: Lê Văn Phổ, thư ký tại dinh Đốc lý thành phố Sài Gòn 
Thư ký: Nguyễn Văn Nhơn, thư ký tại dinh Đốc lý thành phố Sài Gòn 
Phó thư ký: Phạm Ngọc Vinh, thư ký tại ngân hàng Đông Pháp, Sài Gòn 
Cố vấn: Huỳnh Văn Quyền, Thông phán thượng hạng tại dinh Đốc lý thành phố; 
Nguyễn Văn Cần, Thừa biện tại dinh Đốc lý thành phố Sài Gòn. 
34 Trung tâm Lưu trữ Quốc gia II, Tp. Hồ Chí Minh, phông Phủ Thống đốc Nam 
Kỳ, hồ sơ D9. 56/58. 
35 Nguyễn Lang, Việt Nam Phật giáo sử luận, tập 3, Lá Bối xuất bản lần thứ nhất, 
Paris 1985; Lá Bối in lần thứ hai, San-Jose, USA, 1993, tr. 54. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
A. Tài liệu lưu trữ 
76 Nghiên cứu Tôn giáo. Số 9&10 - 2016 
1. Kho Lưu trữ Hải ngoại (Aix-en-Provence, Pháp), phông Phủ Toàn quyền Đông 
Dương, hồ sơ 65539. 
2. Kho Lưu trữ Hải ngoại (Aix-en-Provence, Pháp), phông Phủ Thống sứ Cao 
Miên, hồ sơ 227. 
3. Trung tâm Lưu trữ Quốc gia II, Tp. Hồ Chí Minh, phông Phủ Thống đốc Nam 
Kỳ, hồ sơ D.62/432. 
4. Trung tâm Lưu trữ Quốc gia II, Tp. Hồ Chí Minh, phông Phủ Thống đốc Nam 
Kỳ, hồ sơ D9.56/58. 
B. Báo chí giai đoạn thuộc địa 
1. G. Robert (1926), “Vì sao đạo Phật đáng cho hết thảy dân cõi cực Đông sùng 
bái”, Đông Pháp, ngày 13, 16 và 18 tháng 11. 
C. Sách tham khảo 
1. Nguyễn Thế Anh (2008), Parcours d’un historien du Vietnam, Paris,Les Indes 
savantes. 
2. Ngô Đức Hoàng (2015), Building a New House for the Buddha: Buddhist Social 
Engagement and Revival in Vietnam, 1927-1951, Luận án Tiến sĩ Triết học, 
Université de Washington, Washington. 
3. Nguyễn Lang (1985, 1993), Việt Nam Phật giáo sử luận, tập 3, Lá Bối xuất bản 
lần thứ nhất, Paris; Lá Bối in lần thứ hai, San-Jose, USA. 
4. Trần Hồng Liên (1995), Phật giáo trong cộng đồng người Việt ở Nam bộ từ thế 
kỷ XVII đến năm 1975, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội. 
5. Nguyễn Thị Minh (2007), Buddhist monastic education and regional revival 
movements in early twentieth century Vietnam, Luận án Tiến sĩ triết học, 
Université de Wisconsin, Madison. 
6. Pascal Bourdeaux (2003), Émergence et constitution de la communauté du 
Bouddhisme Hòa Hảo: Contribution à l’histoire sociale du delta du Mékong, 
1935-1955, Luận án Tiến sĩ Lịch sử, Paris, École Pratique des Hautes Études. 
7. Thành hội Phật giáo Thành phố Hồ Chí Minh (2001), Biên niên sử Phật giáo Sài 
Gòn- Gia Định-Thành phố Hồ Chí Minh, 1600-1992, Nxb. Tp. Hồ Chí Minh. 
Abstract 
“PIONEER” ROLE OF MASTER KHÁNH HÒA 
IN THE BUDDHIST REVIVAL MOVEMENT IN VIETNAM 
FROM 1920 TO 1945 THROUGH THE ARCHIVES’ DOCUMENTS 
On the basis of analysing the archives’ data (in France and in 
Vietnam), the works in Vietnam and theses, the article clarifies the 
“pioneer” role of Master Khánh Hòa in the Buddhist revival movement 
in Vietnam during the years 1920-1945 in general and the birth of the 
Association of Buddhist Studies in the South (Nam Kỳ) in particular. 
Keywords: Master Khánh Hòa, movement, revival, Buddhism, 
archives, Vietnam. 

File đính kèm:

  • pdfvai_tro_tien_phong_cua_thien_su_khanh_hoa_trong_phong_trao_c.pdf