Thực trạng kĩ năng sống của học sinh tiểu học dân tộc thiểu số khu vực miền núi phía bắc

Học sinh tiểu học dân tộc thiểu số là một đối tượng giáo dục đặc biệt, mang những đặc điểm riêng

về học tập, tâm lý và giao tiếp. Để việc thực hiện giáo dục nói chung và giáo dục kĩ năng sống nói

riêng cho các em mang lại hiệu quả đòi hỏi những nhà nghiên cứu và giáo dục phải xuất phát từ

những cơ sở thực tiễn cơ bản. Bài viết này xin trình bày những nét cơ bản nhất về kĩ năng sống của

học sinh tiểu học dân tộc thiểu số, với hy vọng nó sẽ phần nào chỉ ra được những nét cơ bản về

thực trạng làm cơ sở cho quá trình đề xuất và triển khai giáo dục kĩ năng sống cho đối tượng học

sinh này.

Thực trạng kĩ năng sống của học sinh tiểu học dân tộc thiểu số khu vực miền núi phía bắc trang 1

Trang 1

Thực trạng kĩ năng sống của học sinh tiểu học dân tộc thiểu số khu vực miền núi phía bắc trang 2

Trang 2

Thực trạng kĩ năng sống của học sinh tiểu học dân tộc thiểu số khu vực miền núi phía bắc trang 3

Trang 3

Thực trạng kĩ năng sống của học sinh tiểu học dân tộc thiểu số khu vực miền núi phía bắc trang 4

Trang 4

Thực trạng kĩ năng sống của học sinh tiểu học dân tộc thiểu số khu vực miền núi phía bắc trang 5

Trang 5

pdf 5 trang minhkhanh 7380
Bạn đang xem tài liệu "Thực trạng kĩ năng sống của học sinh tiểu học dân tộc thiểu số khu vực miền núi phía bắc", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Thực trạng kĩ năng sống của học sinh tiểu học dân tộc thiểu số khu vực miền núi phía bắc

Thực trạng kĩ năng sống của học sinh tiểu học dân tộc thiểu số khu vực miền núi phía bắc
Nguyễn Thị Thu Hằng Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 98(10): 135 - 139 
 135
THỰC TRẠNG KĨ NĂNG SỐNG CỦA HỌC SINH TIỂU HỌC 
DÂN TỘC THIỂU SỐ KHU VỰC MIỀN NÚI PHÍA BẮC 
Nguyễn Thị Thu Hằng* 
Trường Đại học Sư phạm – ĐH Thái Nguyên 
TÓM TẮT 
Học sinh tiểu học dân tộc thiểu số là một đối tượng giáo dục đặc biệt, mang những đặc điểm riêng 
về học tập, tâm lý và giao tiếp. Để việc thực hiện giáo dục nói chung và giáo dục kĩ năng sống nói 
riêng cho các em mang lại hiệu quả đòi hỏi những nhà nghiên cứu và giáo dục phải xuất phát từ 
những cơ sở thực tiễn cơ bản. Bài viết này xin trình bày những nét cơ bản nhất về kĩ năng sống của 
học sinh tiểu học dân tộc thiểu số, với hy vọng nó sẽ phần nào chỉ ra được những nét cơ bản về 
thực trạng làm cơ sở cho quá trình đề xuất và triển khai giáo dục kĩ năng sống cho đối tượng học 
sinh này. 
Từ khóa: kĩ năng, kĩ năng sống, tiểu học, dân tộc thiểu số 
ĐẶT VẤN ĐỀ* 
Các dân tộc thiểu số (DTTS) ở khu vực miền 
núi phía Bắc Việt Nam chủ yếu sinh sống ở 
những vùng núi cao, nơi có khí hậu khắc 
nghiệt, địa hình hiểm trở, giao thông đi lại 
khó khăn nên chất lượng cuộc sống và trình 
độ dân trí còn rất thấp. Học sinh (HS) tiểu học 
ở vùng núi, ngoài việc đến trường thì các em 
còn phải phụ giúp gia đình để kiếm sống. 
Chính những yếu tố như: môi trường sinh 
sống, điều kiện kinh tế, phong tục tập 
quánđã và đang tạo ra những nguy cơ, 
thách thức đối với sự phát triển của các em 
nói chung và quá trình giáo dục kĩ năng sống 
(GDKNS) nói riêng. Vì vậy, việc trang bị và 
giáo dục cho các em những nhóm kĩ năng 
sống (KNS) đặc thù, phù hợp để các em có 
thể sống khoẻ mạnh là điều đặc biệt quan 
trọng và cần thiết. 
NỘI DUNG 
Để đánh giá thực trạng KNS của học sinh tiểu 
học DTTS chúng tôi đã thực hiện theo hai con 
đường: tham khảo, lấy ý kiến đánh giá của 
589 giáo viên và cán bộ quản lý ở tiểu học đã 
và đang công tác tại 6 tỉnh: Yên Bái, Bắc 
Kạn, Hà Giang, Tuyên Quang, Cao Bằng, 
Hoà Bình, nơi có nhiều học sinh tiểu học 
DTTS thông qua phiếu điều tra; quan sát và 
*
 Tel: 0912 869849, Email: hangsptn@yahoo.com 
phỏng vấn sâu trực tiếp học sinh tiểu học dân 
tộc thiểu số (HSTHDTTS). 
Chúng tôi phân chia KNS của HSTHDTTS 
gồm 3 nhóm KNS cơ bản với 24 kĩ năng 
thành phần và xây dựng tiêu chí đánh giá. 
Mỗi kĩ năng được đánh giá riêng theo 4 mức 
độ: Tốt, khá, trung bình, yếu. Các khách thể 
được yêu cầu đánh giá theo 4 mức điểm: Tốt- 
4 điểm; Khá- 3 điểm; Trung bình- 2 điểm; 
Yếu- 1 điểm. Tiến hành tính điểm trung bình 
của từng kĩ năng thành phần và của mỗi nhóm 
kĩ năng. Sau đó phân chia mức độ KNS của 
HSTHDTTS thành 4 mức độ. Điểm chênh 
lệch của thang đo được tính như sau: Điểm 
chênh lệch của thang đo = (Điểm tối đa - 
điểm tối thiểu) : Số mức độ; Kết quả là: (4 - 1) 
: 4 = 0,75; Vậy điểm của 4 mức độ thang là: 
mức độ yếu (Từ 1 đến dưới 1,75); mức độ 
trung bình (từ 1,75 đến dưới 2,5); mức độ khá 
(Từ 2,5 đến dưới 3,25); mức độ tốt (Từ 3,25 
đến 4). Kết quả khảo sát từng nhóm KNS 
được thể hiện như sau: 
Nhóm kĩ năng giao tiếp 
Để đánh giá kĩ năng giao tiếp của học sinh 
tiểu học dân tộc thiểu số, chúng tôi đã phân 
tích KN giao tiếp thành các KN thành phần và 
kết quả thực trạng KN giao tiếp của 
HSTHDTTS khu vực miền núi phía Bắc được 
thống kê và thể hiện trong bảng sau: 
Nguyễn Thị Thu Hằng Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 98(10): 135 - 139 
 136
Bảng 1. Tổng hợp đánh giá nhóm KN giao tiếp 
STT Biểu hiện Điểm 
TB 
Thứ bậc 
1 Chủ động xin trình bày, nêu vấn đề trong các hoạt động học tập. 1.6907 13 
2 Trình bày vấn đề rõ ràng, không rụt rè. 1.9889 10 
3 Nét mặt tự nhiên, mắt hướng về phía người nghe. 2.0796 8 
4 Sử dụng các cử chỉ, điệu bộ phù hợp để hỗ trợ cho việc trình bày được 
thuyết phục. 
1.4630 15 
5 Sẵn sàng hợp tác và làm việc nhóm khi GV yêu cầu. 2.0389 9 
6 Nghiêm túc làm việc cùng nhóm. 2.1296 6 
7 Chủ động đưa ra ý kiến đóng góp, thực hiện nhiệm vụ chung của nhóm. 1.7259 12 
8 Lắng nghe, tôn trọng ý kiến, hành động của các bạn khác trong nhóm. 2.7167 3 
9 Tự điều chỉnh, chấp nhận thay đổi khi cần thiết 2.4796 4 
10 Cởi mở, hòa nhập với bạn bè, thầy cô ở trường. 3.1556 1 
11 Không trốn tránh, ngại ngùng khi gặp người lạ. 1.8667 11 
12 Chủ động chào hỏi, giao tiếp khi tiếp xúc, gặp gỡ người quen. 3.0926 2 
13 Chủ động chào hỏi, giao tiếp khi tiếp xúc, gặp gỡ người lạ. 1.5741 14 
14 Biết kiềm chế cảm xúc, có thái độ và cách cư xử tích cực với người 
khác khi gặp mâu thuẫn. 
2.0926 7 
15 Biết cách thể hiện và đưa ra lời từ chối khi bị rủ rê, gạ gẫm làm những 
việc không thích. 
2.4074 5 
 ĐTB 2,1668 TB 
Các số liệu trên cho thấy, các KN giao tiếp 
của HSTH DTTS chỉ ở mức độ trung bình 
(ĐTB = 2, 1668), mức độ thực hiện các KN 
thành phần được thể hiện không đồng đều. 
HS thực hiện khá tốt những KN giao tiếp với 
đối tượng giao tiếp quen thuộc, đặc biệt là 
thầy cô, bạn bè ở trường. Nhưng cũng có 
những kĩ năng được đánh giá ở mức độ yếu 
là: khả năng chủ động đưa ra ý kiến đóng 
góp, thực hiện nhiệm vụ chung của nhóm; 
khả năng chủ động xin trình bày, nêu vấn đề 
trong các hoạt động học tập; khả năng chủ 
động chào hỏi, giao tiếp khi tiếp xúc, gặp gỡ 
người lạ và khả năng sử dụng các cử chỉ, điệu 
bộ phù hợp để hỗ trợ cho việc trình bày được 
thuyết phục. 
Bên cạnh việc điều tra thực trạng thông qua 
bảng câu hỏi đối với giáo viên, chúng tôi 
quan sát và thực hiện giao tiếp trực tiếp với 
học sinh. Phần lớn những HSTHDTTS mà 
chúng tôi tiếp xúc lần đầu thường rất rụt rè và 
có thái độ ngại ngùng, muốn né tránh, nhưng 
sau 2, 3 lần tiếp xúc, làm quen và thể hiện 
những hành động hữu nghị (tặng quà, kể 
chuyện, cùng làm việc chung) thì thái độ của 
các em đã có những chuyển biến rõ rệt, các 
em có thái độ cởi mở, chủ động hơn khi giao 
tiếp, và khi trình bày vấn đề cũng thể hiện sự 
rõ ràng, thuyết phục hơn. Bên cạnh việc trò 
chuyện trực tiếp, chúng tôi còn tiến hành 
quan sát các hoạt động của học sinh trong giờ 
học, trong giờ ra chơi và trong các hoạt động 
sinh hoạt tại trường. Kết quả quan sát cho 
thấy: trong giờ học, học sinh thường rất trầm, 
không chú ý, tập trung vào bài giảng của cô 
giáo; sự chủ động, giơ tay xin phát biểu ý 
kiến rất ít và chỉ tập trung vào một số cá nhân 
nhất định, ngay cả khi làm việc nhóm, không 
khí giờ học cũng không sôi nổi, không có sự 
tranh luận, bàn bạc nhiều giữa các cá nhân 
học sinh. Trong giờ ra chơi và trong các hoạt 
động sinh hoạt chung ngoài giờ học, không 
khí giao tiếp khác hẳn với trong lớp, học sinh 
cởi mở, chủ động, sôi nổi và rất đoàn kết, sự 
tranh chấp, bất đồng, mâu thuẫn rất ít xảy ra 
và hầu như không có. Điều này thể hiện một 
kết quả khá tương đồng với ý kiến đánh giá 
của giáo viên về mức độ thực hiện các kĩ 
năng thành phần trong nhóm kĩ năng giao tiếp 
của của HSTHDTTS trong bảng câu hỏi. 
Như vậy, kết quả khảo sát ban đầu cho thấy: 
HSTHDTTS sống cởi mở, chủ động giao tiếp 
với người quen nhưng chưa chủ động, còn rụt 
rè trong giao tiếp với người lạ; bước đầu có ý 
thức làm việc nhóm khi GV yêu cầu nhưng 
còn bị động, chưa chủ động nêu ý kiến trong 
các hoạt động nhóm, tập thể nhưng biết lắng 
nghe và tôn trọng ý kiến người khác; khả 
năng thể hiện ngôn ngữ cơ thể không nhiều; 
khả năng giải quyết mâu thuẫn và nói lời từ 
chối còn ở mức độ thấp. 
Nguyễn Thị Thu Hằng Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 98(10): 135 - 139 
 137
Nhóm kĩ năng tự nhận thức 
Kết quả đánh giá nhóm kĩ năng tự nhận thức của HSTHDTTS thông qua bảng câu hỏi được thể 
hiện trong bảng 2. 
Bảng 2. Tổng hợp đánh giá nhóm KN tự nhận thức 
STT Biểu hiện ĐiểmTB Thứ bậc 
1 Tự nhận thức về vai trò quan trọng của bản thân đối với gia đình và xã 
hội. 
2.0556 3 
2 Hiểu rõ cơ thể mình, nhận biết được sự thay đổi của cơ thể về mặt thể 
chất và tinh thần, xác định được điểm mạnh, điểm yếu của bản thân 
2.2778 2 
3 Xác định và đánh giá những việc bản thân đã làm được. 2.3889 1 
4 Xác định hướng phấn đấu, những hành động bản thân cần làm và sẽ 
làm trong tương lai. 
1.7222 4 
 ĐTB 2,1111 TB 
Bảng 3. Tổng hợp đánh giá nhóm KN ra quyết định và GQVĐ 
STT Biểu hiện Điểm TB 
Thứ 
bậc 
1 KN đối mặt với vấn đề một cách tích cực (kìm chế cảm xúc tiêu cực, tự tin, quyết tâm giải quyết vấn đề) 
2.1111 2 
2 KN tư duy, phân tích vấn đề để đưa ra các cách giải quyết 2.0741 4 
3 KN chia sẻ, bày tỏ quan điểm để tìm kiếm sự giúp đỡ. 1.8889 5 
4 KN tự tin, quyết tâm thực hiện theo cách giải quyết vấn đề đã chọn. 2.0926 3 
5 KN đánh giá hiệu quả GQVĐ, chia sẻ, lắng nghe ý kiến của người khác. 2.1481 1 
 ĐTB 2,0630 TB 
Nhìn vào bảng 2, chúng ta có thể thấy rằng: 
nhóm kĩ năng tự nhận thức của HSTHDTTS 
được thể hiện ở mức độ trung bình với ĐTB 
là 2,1111. Trong đó, kĩ năng đặt mục tiêu để 
xác định được hướng phấn đấu cho bản thân 
được đánh giá ở mức độ thấp nhất. Kết quả 
phỏng vấn sâu trực tiếp trên 25 học sinh với 
các câu hỏi: ”Điểm mạnh của em là gì?” 
(6/25 HS chiếm 24% trả lời được nhưng chưa 
rõ ràng, 19/25 HS chỉ cười và không nói gì 
hoặc trả lời ”không biết”, chiếm 76%), ”Điểm 
yếu của em là gì?” (6/25 HS trả lời được 
nhưng câu trả lời còn đơn giản, chưa cụ thể, 
chiếm 24%, còn lại 76% không trả lời được); 
”Em đến trường học để làm gì?” (7/25 HS trả 
lời là để lấy kiến thức, chiếm 28%, còn lại 
72% HS trả lời đơn giản hoặc không trả lời 
được); ”Nếu được ước một điều gì đó, em sẽ 
ước điều gì?” (4/25 học sinh nói ra rõ ràng 
ước muốn của mình và giải thích lý do, chiếm 
16%; 9/25 học sinh nói ra được mong ước của 
mình nhưng còn đơn giản và không có lý do 
rõ ràng, chiếm 36%; còn lại 12/25 học sinh 
chỉ cười và lắc đầu, chiếm 48%). Điều này 
cho thấy giữa ý kiến đánh giá của GV và kết 
quả quan sát, phỏng vấn sâu học sinh có sự 
tương đồng, nhìn chung nhóm kĩ năng tự 
nhận thức của HSTHDTTS được thể hiện ở 
mức độ trung bình. Ở mức độ này, HS đã 
nhận thức được mối quan hệ của bản thân 
trong gia đình và xã hội; bước đầu biết xác 
định vai trò và trách nhiệm của bản thân đối 
với gia đình nhưng chưa xác định được vai trò 
của bản thân đối với xã hội; việc nhận biết và 
đánh giá được những thay đổi về mặt thể chất 
và tinh thần của bản thân còn chưa rõ ràng; 
chưa đánh giá được điểm mạnh, điểm yếu của 
bản thân; chưa biết đặt ra mục tiêu phấn đấu 
cho bản thân. 
Nhóm kĩ năng ra quyết định và giải quyết 
vấn đề 
Kết quả khảo sát nhóm KN ra quyết định và 
giải quyết vấn đề thông qua bảng câu hỏi 
được thể hiện trên bảng 3. 
Kết quả thể hiện trong bảng 3 cho thấy, nhóm 
KN ra quyết định và GQVĐ của HSTHDTTS 
cũng chỉ ở mức độ trung bình. Kết quả quan 
sát và phỏng vấn sâu trên 25 học sinh thông 
qua tình huống cụ thể cũng cho thấy: có 5/25 
học sinh (chiếm 20%) không phân tích và xác 
định được vấn đề cần giải quyết; 10/25 học 
sinh (chiếm 40 %) biết đưa ra 1 phương án 
Nguyễn Thị Thu Hằng Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 98(10): 135 - 139 
 138
giải quyết vấn đề nhưng không biết phân tích 
vấn đề; 7/25 học sinh (chiếm 28%) biết đưa ra 
1 phương án giải quyết vấn đề và biết phân 
tích nhưng chưa hoàn toàn chính xác; 3/25 
học sinh (chiếm 12%) biết phân tích vấn đề 
tương đối rõ ràng và có thể đưa ra được ít 
nhất 2 cách giải quyết khác nhau cho vấn đề 
đó. Bên cạnh đó, phần lớn HS còn rụt rè, chưa 
tự tin khi nhận nhiệm vụ GQVĐ cũng như khi 
ra quyết định đưa ra phương án giải quyết vấn 
đề của mình trong các tình huống chúng tôi 
phỏng vấn (chỉ có 4/25 học sinh có thái độ tự 
tin, sẵn sàng nhận nhiệm vụ phỏng vấn, chiếm 
16%; 3/25 học sinh thể hiện sự tự tin, dứt 
khoát khi đưa ra câu trả lời về quyết định 
GQVĐ mà bản thân đã lựa chọn, chiếm 
(12%). Nhìn chung, đối với kĩ năng ra quyết 
định và GQVĐ, HSTHDTTS bước đầu đã 
chấp nhận giải quyết vấn đề nhưng còn miễn 
cưỡng, bắt buộc; chưa tự tin vào bản thân khi 
đưa ra cách GQVĐ; HS có thể đưa ra được 1 
phương án GQVĐ nhưng không biết phân 
tích lý do đưa ra phương án đó nếu không có 
sự trợ giúp của GV hoặc người khác. 
Khi xem xét mối tương quan giữa các nhóm 
KNS của HSTHDTTS, chúng tôi thu được kết 
quả như ở sơ đồ 1. 
Sơ đồ 1 cho thấy, các nhóm KNS của 
HSTHDTTS đều có mối tương quan thuận, 
khá chặt chẽ với nhau, với hệ số tương quan 
(r) dao động từ 0,5 đến 0,6, xác suất xảy ra 
ngẫu nhiên nằm trong khoảng chênh lệch có ý 
nghĩa (p < 0,01). Điều đó chứng tỏ, việc hình 
thành, phát triển, thực hiện thành thạo nhóm 
KN này sẽ tạo điều kiện thuận lợi thúc đẩy sự 
hình thành, phát triển, thực hiện thành thạo 
nhóm KN khác. Ngược lại, việc phát triển, 
thực hiện kém thành thạo nhóm KN này sẽ 
cản trở sự phát triển, thực hiện của nhóm KN 
khác. Như vậy, KNS của HSTHDTTS là tổ 
hợp các nhóm KN thành phần. Chúng có mối 
quan hệ tác động qua lại lẫn nhau một cách 
chặt chẽ, toàn diện. Trình độ phát triển của 
nhóm KN này là cơ sở hình thành, là yếu tố 
ảnh hưởng đến các nhóm KN khác và ngược 
lại. Chính vì vậy việc thực hiện GDKNS cho 
HSTHDTTS cần được quan tâm và chú trọng 
đến tất cả các nhóm KN, không nên chỉ coi 
trọng việc rèn luyện những nhóm KN này mà 
bỏ qua hoặc coi nhẹ các nhóm KN khác. 
KẾT LUẬN 
KNS có vai trò quan trọng đối với sự hình 
thành và phát triển toàn diện nhân cách của 
mỗi cá nhân. Chính vì vậy, GDKNS hiện nay 
là vấn đề rất quan trọng và cần thiết không chỉ 
đối với HSTHDTTS nói riêng mà còn đối với 
tất cả sự phát triển của mọi cá nhân trong xã 
hội hiện đại. KNS của HSTHDTTS là tổng 
hòa, gắn bó tương quan chặt chẽ của các 
nhóm kĩ năng thành phần, sự hình thành, phát 
triển của nhóm kĩ năng này sẽ tạo điều kiện 
thúc đẩy sự hình thành và phát triển của nhóm 
kĩ năng khác. Tuy nhiên, hiện nay, KNS của 
HSTHDTTS ở miền núi phía Bắc chỉ đạt 
được ở mức độ trung bình. Một số kĩ năng 
của học sinh được giáo viên đánh giá ở mức 
độ khá chủ yếu được thực hiện trong môi 
trường giao tiếp xã hội quen thuộc, xoay 
quanh mối quan hệ với bạn bè, thầy cô, những 
người cùng thôn bản. Điểm trung bình của 3 
nhóm kĩ năng được đánh giá có độ xấp xỉ 
tương đương nhau, trong đó KN ra quyết định 
và GQVĐ được đánh giá thấp hơn so với 
nhóm KN tự nhận thức và KN giao tiếp. 
Sơ đồ 1. Mối tương quan về mức độ thực hiện các KNS của HSTHDTTS 
KN giao tiếp 
KN ra quyết định và 
GQVĐ 
KN tự nhận thức 
r = 0.606** 
p < 0,01 
r = 0.506** 
p < 0,01 
r = 0.614** 
p < 0,01 
Nguyễn Thị Thu Hằng Tạp chí KHOA HỌC & CÔNG NGHỆ 98(10): 135 - 139 
 139
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
[1]. Nguyễn Thanh Bình, 2010, Giáo trình chuyên 
đề Giáo dục kĩ năng sống, Nxb Đại học sư Phạm 
Hà Nội 
[2]. Phạm Hồng Quang, 2009, Tổ chức dạy học 
cho học sinh dân tộc miền núi, Nxb Đại học Thái 
Nguyên, Thái Nguyên. 
[3]. Nguyễn Ngọc Thanh, Những đặc điểm tâm lý 
xã hội của một số dân tộc ít người phía Bắc và 
công tác vận động quần chúng, Tạp chí Tâm lý 
học, 1/1996, Tr. 18- 24. 
[4]. UNESCO Hà Nội và Viện Chiến lược và 
Chương trình giáo dục, 2006, Tài liệu giáo dục kỹ 
năng sống cho trẻ em có hoàn cảnh khó khăn. 
SUMMARY 
SITUATION OF ETHNIC MINORITY PRIMARY SCHOOL STUDENTS’ LIFE 
SKILLS IN NORTHERN MOUNTAINOUS AREA 
Nguyen Thi Thu Hang* 
 College of Education – TNU 
Elementary school students of ethnic minorities are an special educational object with specific 
characteristics of learning, psychology and communication. To gain certain achievements in life 
skill education for these students, researchers and educators should consider some factual bases. 
This article presents the definition for the most basic life skills of elementary school students of 
ethnic minorities in aim to indicate some actual features as a basis for proposing and implementing 
life skills education for those students. 
Key words: skill, life skills, primary, map, mind maps 
Ngày nhận bài: 18/9/2012, ngày phản biện:01/10/2012, ngày duyệt đăng:12/11/2012
*
 Tel: 0912 869849, Email: hangsptn@yahoo.com 

File đính kèm:

  • pdfthuc_trang_ki_nang_song_cua_hoc_sinh_tieu_hoc_dan_toc_thieu.pdf