Từ hô gọi đi kèm tiểu từ tình thái phối kết cuối phát ngôn trong giao tiếp của người Nam Bộ

Từ hô gọi và tiểu từ tình thái, trong tiếng Việt nói chung và phương ngữ

Nam Bộ nói riêng, đều là những phương tiện ngôn ngữ góp phần thể hiện nội dung thái

độ, tình cảm của người nói. Trong nghiên cứu này, chúng tôi xem xét mối quan hệ giữa

từ hô gọi và tiểu từ tình thái cuối phát ngôn trong giao tiếp của người Nam Bộ. Nghiên

cứu sử dụng phương pháp điều tra điền dã: dữ liệu về các cuộc thoại của người dân ở

11 tỉnh thành Nam Bộ được thu thập và phân tích. Kết quả cho thấy, từ hô gọi đi kèm

tiểu từ tình thái là hiện tượng khá phổ biến trong phát ngôn của người Nam Bộ, có ý

nghĩa bổ sung thêm các sắc thái ngữ nghĩa phong phú vào trong giao tiếp. Thêm vào

đó, sự kết hợp trước hay sau giữa từ hô gọi và tiểu từ tình thái cũng dẫn đến sự khác

biệt về trọng tâm phát ngôn, dẫn đến những thông điệp khác nhau trong giao tiếp.

Từ hô gọi đi kèm tiểu từ tình thái phối kết cuối phát ngôn trong giao tiếp của người Nam Bộ trang 1

Trang 1

Từ hô gọi đi kèm tiểu từ tình thái phối kết cuối phát ngôn trong giao tiếp của người Nam Bộ trang 2

Trang 2

Từ hô gọi đi kèm tiểu từ tình thái phối kết cuối phát ngôn trong giao tiếp của người Nam Bộ trang 3

Trang 3

Từ hô gọi đi kèm tiểu từ tình thái phối kết cuối phát ngôn trong giao tiếp của người Nam Bộ trang 4

Trang 4

Từ hô gọi đi kèm tiểu từ tình thái phối kết cuối phát ngôn trong giao tiếp của người Nam Bộ trang 5

Trang 5

Từ hô gọi đi kèm tiểu từ tình thái phối kết cuối phát ngôn trong giao tiếp của người Nam Bộ trang 6

Trang 6

pdf 6 trang minhkhanh 8800
Bạn đang xem tài liệu "Từ hô gọi đi kèm tiểu từ tình thái phối kết cuối phát ngôn trong giao tiếp của người Nam Bộ", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Từ hô gọi đi kèm tiểu từ tình thái phối kết cuối phát ngôn trong giao tiếp của người Nam Bộ

Từ hô gọi đi kèm tiểu từ tình thái phối kết cuối phát ngôn trong giao tiếp của người Nam Bộ
Trường Đại học Vinh Tạp chí khoa học, Tập 49 - Số 4B/2020, tr. 67-72 
 67 
TỪ HÔ GỌI ĐI KÈM TIỂU TỪ TÌNH THÁI 
PHỐI KẾT CUỐI PHÁT NGÔN 
TRONG GIAO TIẾP CỦA NGƯỜI NAM BỘ 
Nguyễn Mai Phương 
Trường Đại học Văn Lang 
Ngày nhận bài 03/11/2020, ngày nhận đăng 08/12/2020 
Tóm tắt: Từ hô gọi và tiểu từ tình thái, trong tiếng Việt nói chung và phương ngữ 
Nam Bộ nói riêng, đều là những phương tiện ngôn ngữ góp phần thể hiện nội dung thái 
độ, tình cảm của người nói. Trong nghiên cứu này, chúng tôi xem xét mối quan hệ giữa 
từ hô gọi và tiểu từ tình thái cuối phát ngôn trong giao tiếp của người Nam Bộ. Nghiên 
cứu sử dụng phương pháp điều tra điền dã: dữ liệu về các cuộc thoại của người dân ở 
11 tỉnh thành Nam Bộ được thu thập và phân tích. Kết quả cho thấy, từ hô gọi đi kèm 
tiểu từ tình thái là hiện tượng khá phổ biến trong phát ngôn của người Nam Bộ, có ý 
nghĩa bổ sung thêm các sắc thái ngữ nghĩa phong phú vào trong giao tiếp. Thêm vào 
đó, sự kết hợp trước hay sau giữa từ hô gọi và tiểu từ tình thái cũng dẫn đến sự khác 
biệt về trọng tâm phát ngôn, dẫn đến những thông điệp khác nhau trong giao tiếp. 
Từ khóa: Tiểu từ tình thái; từ hô gọi; phương ngữ; ý nghĩa. 
1. Dẫn nhập 
1.1. Trong lời ăn tiếng nói hằng ngày của người Việt nói chung và người Nam Bộ 
nói riêng thì một phát ngôn thường có hai nội dung được thể hiện, nội dung sự tình và 
thái độ, cách thức đánh giá, tình cảm của người nói. Phần thể hiện thái độ này chủ yếu do 
các yếu tố tình thái trong phát ngôn đảm nhận. Tình thái là phạm trù ngữ nghĩa với chức 
năng đa dạng và phức tạp, trong đó có một lớp từ góp phần thể hiện những chức năng 
quan trọng, đó là tiểu từ tình thái (TTTT). TTTT là phương tiện ngôn ngữ, có nghĩa tình 
thái, thường đi kèm nghĩa miêu tả trong lời nói, có vị trí ở đầu câu hoặc cuối câu (cuối 
phát ngôn). Ở bài viết này, chúng tôi tìm hiểu TTTT cuối phát ngôn trong giao tiếp của 
người Nam Bộ khi đi kèm với từ hô gọi (THG). 
 1.2. Đã có nhiều công trình nghiên cứu về tình thái theo dòng thời gian, có thể kể 
đến như công trình của tác giả Cao Xuân Hạo (1991), Hoàng Phê (1984, 1989), Hoàng 
Tuệ (1984, 1988), Cao Xuân Hạo (1991), Nguyễn Đức Dân (1998), Nguyễn Quang 
(1999), Lê Đông và Nguyễn Văn Hiệp (2003), Nguyễn Thị Thìn (2003), Phạm Hùng 
Việt (2004), Bùi Trọng Ngoãn (2004), Võ Quang Đại (2007), Nguyễn Văn Hiệp (2008), 
Trần Kim Phượng (2008, 2012), Bùi Minh Toán và Nguyễn Thị Lương (2008), Bùi Minh 
Toán (2012), Đinh Văn Đức (2012), Tác giả Lê Xinh Tươm (2013) trong luận văn thạc 
sĩ của mình đã khảo sát những TTTT dùng phổ biến trong phương ngữ Nam Bộ và có 
những nhận xét khái quát về nó Tuy nhiên, chưa có công trình nào nghiên cứu THG 
kèm TTTT cuối phát ngôn trong giao tiếp của người Nam Bộ. Cho nên, chúng tôi tìm 
hiểu, miêu tả, phân tích mối quan hệ của TTTT và THG trong phát ngôn của người Nam 
Bộ. Từ đó chỉ ra mối liên kết và vai trò của chúng trong việc thể hiện sắc thái ngữ nghĩa 
của phát ngôn, đặc biệt là sự hấp dẫn của tính tình thái trong lời nói. 
Email: nguyenmaiphuong3399@gmail.com 
N. M. Phương / Từ hô gọi đi kèm tiểu từ tình thái phối kết cuối phát ngôn trong giao tiếp của người Nam Bộ 
 68 
1.3. Như chúng ta biết, hô gọi là chỉ hành động của người nói và chức năng chủ 
yếu là phát ra từ ngữ nào đó hướng vào người nghe nhằm làm cho người nghe biết rằng 
người hô gọi muốn giao tiếp với mình. Do đó, hô gọi chỉ diễn ra một lần trong cuộc nói 
chuyện, .trừ trường . .hợp. người ..nghe ..không. chú. ý .vào .câu. chuyện. thì .lời. hô. .gọi .mới.. được 
lặp lại để “lôi kéo” người nghe trở lại với câu chuyện đang còn tiếp diễn. Vì thế, khi 
người nói sử dụng từ xưng hô nào đó thì sẽ tự bộc lộ vị thế của mình trong quan hệ với 
người nghe. Cũng từ đó người nghe sẽ nhận biết thái độ, tình cảm của người nói. Một cá 
nhân tham gia vào hoạt động giao tiếp, có thể nói, cá nhân đó mang theo các vai xã hội 
trong quá trình giao tiếp. 
1.4. Từ hô gọi được dùng để người nói gọi người giao tiếp với mình, THG thuộc 
từ xưng hô nên trong giao tiếp sẽ xuất hiện, và đặc biệt ở đây, chúng tôi khảo sát chúng 
đi kèm với TTTT cuối phát ngôn. Khi quan sát cách trò chuyện của người vùng đất 
phương Nam, chúng tôi thấy có hai cách dùng THG khá phổ biến. Đó là: THG xuất hiện 
sau TTTT và THG xuất hiện trước TTTT cuối phát ngôn. 
2. Từ hô gọi và hiện tượng từ hô gọi đi kèm tiểu từ tình thái 
Theo Từ điển tiếng Việt, “Xưng hô là hành động tự xưng mình và gọi người khác 
là gì đó không nói với nhau để biểu thị tính chất của mối quan hệ với nhau” (Hoàng Phê, 
2015). Nguyễn Văn Chiến (1993) cho rằng: “Xưng hô là một hành động ngôn ngữ. 
Hành động xưng hô thường diễn ra trong hội thoại”. Tuy nhiên, chúng tôi thấy rằng: 
xưng là một bộ phận của lời nói, tự xưng (gọi) mình với người đối thoại; hô là gọi người 
đang trò chuyện với mình. Chính vì vậy, hô gọi là chỉ hành động của người nói và chức 
năng chủ yếu là phát ra từ ngữ nào đó hướng vào người nghe nhằm làm cho người nghe 
biết rằng người hô gọi muốn giao tiếp với mình. 
Người Nam Bộ thường sử dụng các nhóm từ hô gọi như: 
- Danh từ riêng: dạng như Thời, Viên, Vi, Trâm,.. 
- Danh từ thuộc nhóm danh từ chỉ họ hàng thân thuộc: nội, ngoại, chú, thiếm 
(thím), dì, dượng 
 Danh từ chỉ chức danh nghề nghiệp: thầy cô, hiệu trưởng, trưởng phòng, phó 
phòng, sếp, tổng giám đốc 
- Các đại từ dùng với chức năng hô gọi: bây, mày, tụi bây, tụi mày 
Để khảo sát thống kê THG đi kèm TTTT từ số liệu điền dã, chúng tôi tập hợp 
ngẫu nhiên 1.800/ 8.531 phiếu điều tra các cuộc hội thoại ở các tỉnh thành Nam Bộ, gồm: 
TP. Hồ Chí Minh, Long An, Tiền Giang, Bến Tre, Cần Thơ, Sóc Trăng, Trà Vinh, Vĩnh 
Long, Đồng Tháp, Cà Mau (Năm Căn, huyện Trần Văn Thời), Chợ Mới - An Giang. 
Chúng tôi ghi nhận được số lượng tham thoại có xuất hiện TTTT cuối phát ngôn thuộc 
tám hành động ngôn trung (HĐNT) với tần số thể hiện được nêu ở Bảng 1. 
Nhìn vào Bảng 1, chúng ta thấy rằng hiện tượng THG đi kèm TTTT cuối phát 
ngôn nhiều nhất ở HĐNT dặn dò: 146/942 (15,49%), HĐNT mời, cảm ơn, cầu khiến tỉ lệ 
gần bằng nhau. Trong đó, cụ thể: mời: 137/942 (14,54%), cảm ơn: 136/942 (14,43%), 
cầu khiến: 125/942 (13,26%), chúc mừng: 99/942 (10,50%), rủ rê: 98/942 (10,40%), 
khuyên: 73/942 (7,74%). 
Trường Đại học Vinh Tạp chí khoa học, Tập 49 - Số 4B/2020, tr. 67-72 
 69 
Như vậy, qua việc khảo sát 1.800/8.531 phiếu điều tra các cuộc hội thoại ở các 
tỉnh thành Nam Bộ, chúng ta nhận thấy THG đi kèm TTTT được dùng khá phổ biến 
trong các HĐNT khác nhau của người Nam Bộ. 
Bảng 1: Hiện tượng THG đi kèm TTTT cuối phát ngôn trong một số HĐNT 
TT HĐNT có THG đi kèm TTTT Số lần xuất hiện Tỷ lệ (%) 
1 cầu khiến 125 13,26 
2 mời 137 14,54 
3 rủ rê 98 10,40 
4 khuyên 73 7,74 
5 dặn dò 146 15,49 
6 cảm ơn 136 14,43 
7 xin lỗi 128 13,58 
8 chúc mừng 99 10,50 
Tổng 942 100 
2.1. Vai trò của từ hô gọi xuất hiện trước và sau tiểu từ tình thái cuối phát 
ngôn trong giao tiếp của người Nam Bộ 
THG được dùng để người nói gọi người giao tiếp với mình; THG thuộc từ xưng 
hô nên sẽ xuất hiện trong giao tiếp. Khi quan sát cách trò chuyện của người vùng đất 
phương Nam, chúng tôi thấy có hai cách dùng THG khá phổ biến. Đó là: THG xuất hiện 
sau TTTT và THG xuất hiện trước TTTT cuối phát ngôn. 
2.2. Bảng từ hô gọi xuất hiện trước và sau tiểu từ tình thái cuối phát ngôn 
trong giao tiếp của người Nam Bộ 
Bảng 2: Từ hô gọi xuất hiện trước và sau tiểu từ tình thái cuối phát ngôn 
TT 
Cách thức 
của HĐNT 
Từ hô gọi xuất hiện trước Từ hô gọi xuất hiện sau 
Số lượng Tỉ lệ % Số lượng Tỉ lệ % 
1 cầu khiến 77 12,90 48 13,92 
2 mời 81 13,57 56 16,23 
3 rủ rê 70 11,72 28 8,12 
4 khuyên 41 6,87 32 9,28 
5 dặn dò 97 16,25 49 14,20 
6 cảm ơn 85 14,24 51 14,78 
7 xin lỗi 89 14,90 39 11,30 
8 chúc mừng 57 9,55 42 12,17 
Tổng 597 100 354 100 
Nhìn vào Bảng 2, chúng ta có thể nhận xét rằng: HĐNT có THG kèm TTTT xuất 
hiện trước TTTT có số lượng cao nhất là ở hành động (HĐ) xin lỗi: 89/597 (14,90%); 
HĐNT có THG kèm TTTT xuất hiện sau TTTT có số lượng cao nhất là ở HĐ mời: 
56/354 (16,23%). Cũng qua bảng này, ta thấy hoạt động của THG xuất hiện khá đồng 
N. M. Phương / Từ hô gọi đi kèm tiểu từ tình thái phối kết cuối phát ngôn trong giao tiếp của người Nam Bộ 
 70 
đều ở các nhóm HĐNT, điều đó cho thấy không những THG luôn xuất hiện trong giao 
tiếp của người Nam Bộ như một yếu tố tự nhiên tất yếu mà còn là yếu tố thể hiện tính 
lịch sự và tình cảm. THG đi kèm với TTTT là một trong các biểu hiện của đặc điểm giao 
tiếp trọng tình của người Nam Bộ. 
a. THG xuất hiện trước TTTT cuối phát ngôn 
Ví dụ: 
(1) Mình tập chạy xe cho Út nghen! (HĐ cầu khiến). 
(2) Mua giùm chị mớ rau này, Bảy nghe! (HĐ mời mọc của người bán hàng). 
(3) Mai đi coi hát với Tám hen! (HĐ rủ rê). 
(4) Thôi, cố gắng lên mày ơi! (HĐ khuyên). 
(5) Tới nơi nhớ gọi điện báo, con nhen! (HĐ dặn dò). 
(6) Cảm ơn mợ ba nghen! (HĐ cảm ơn). 
(7) Xin lỗi mày nè! (HĐ xin lỗi). 
(8) Chúc mừng Tuyền hen! (HĐ chúc mừng). 
Nếu THG đứng trước TTTT trong phát ngôn (trong cả 8 nhóm) thì điều người nói 
muốn người nghe chú ý ở THG, đồng thời muốn tăng sắc thái của câu, chờ đợi sự đồng 
tình của người đối thoại. Như ở ví dụ (1): Mình tập chạy xe cho Út nghen! Ở HĐ cầu 
khiến thể hiện rõ sự chờ đợi sự đồng tình của Út; cũng có thể xem đó là năn nỉ, thiết tha 
“cầu” nhiều hơn “khiến”. Tương tự, ở ví dụ (2): Mua giùm mớ rau này Bảy nghe!, lời 
mời (của người bán) làm người mua khó từ chối, bởi lời thoại không những không mang 
tính áp đặt mà còn thể hiện sự tôn trọng người nghe. Còn ở (8): Chúc mừng Tuyền hen!, 
THG đứng trước TTTT làm câu chúc trọn vẹn, đầy đặn hơn. 
Qua các ví dụ (1), (2), (5), (6), (7), (8), chúng ta thấy có thể có sự hoán đổi vị trí 
giữa THG và TTTT ở quá trình thực hiện hội thoại trong giao tiếp thường ngày trong đời 
sống. Lúc ấy, sắc thái biểu cảm có ý nghĩa tình thái hiểu theo cách khác. Riêng (4), THG 
không thể đứng sau TTTT. Thôi, cố gắng lên mày ơi! “mày ơi” không thể đảo thành “ơi 
mày”. Điều đó càng cho thấy vị trí xuất hiện trước sau của các yếu tố hô gọi đối với 
TTTT, cố định hay có thể đảo vị trí là liên quan đến nội dung, theo từng loại HĐ phát 
ngôn và tính tình thái của từng TTTT được dùng. 
Như vậy, việc kết hợp giữa THG và TTTT trong phát ngôn đã trở thành thói quen 
giao tiếp của người Nam Bộ; điều đó cho thấy người Nam Bộ mặc dù rất xởi lởi, cởi mở 
trong giao tiếp, chú trọng dùng các TTTT để thể hiện tình cảm nhưng lại luôn giữ được 
nghi thức xưng hô theo vai, theo các mối quan hệ thân - sơ. Điều đó làm cho lời nói của 
người Nam Bộ vừa thấm đẫm tình cảm, thân tình, thân thiết vừa mang tính lịch sự, trân 
trọng người giao tiếp. 
Quả thật, THG xuất hiện trước TTTT cuối phát ngôn, ở vị trí này các tiểu từ có 
thể thực hiện cùng nhiều vai trò khác nhau, chính vì thế nó có giá trị truyền tải đầy đủ 
mọi thông điệp, thái độ của người nói. 
b. THG xuất hiện sau TTTT cuối phát ngôn 
Xét các phát ngôn sau: 
(9) Qua Chợ Lách rồi dìa Nghĩa Phụng, đợi ở cây xăng nghen chú Chín! (HĐ 
cầu khiến). 
(10) Mớ mùng tơi non èo hà, mua dùm nghe dượng Út !(HĐ mời mọc). 
Trường Đại học Vinh Tạp chí khoa học, Tập 49 - Số 4B/2020, tr. 67-72 
 71 
(11) Một hồi tao với mày xách đờn qua Cồn Thới Sơn chơi đờn ca tài tử hen 
mậy! (HĐ rủ rê). 
(12) Đậu bắp lên tược đừng ngắt ngọn nghen con! (HĐ dặn dò). 
(13) Cảm ơn nhiều nghen chị đẹp! (HĐ cảm ơn). 
(14) Xin lỗi nghen Tùng! (HĐ xin lỗi). 
(15) Chúc mừng nhen chị! (HĐ chúc) 
(16) Làm dùm nghen chú! 
Như ta đều biết, hễ giao tiếp là có xưng hô, nên việc dùng THG trong giao tiếp là 
bình thường. Nhưng việc liên kết THG với TTTT trong giao tiếp không chỉ còn là nghi 
thức mà sẽ tạo nghĩa tình thái phong phú hơn. Đối với ví dụ (10), chúng ta thấy, ngoài 
việc miêu tả sự tri nhận và kinh nghiệm mớ mùng tơi non èo hà (vế đầu) thì vế sau (mua 
dùm nghe dượng Út) là lời mời rất lịch sự thiết tha và tình cảm. Ở đây, cách dùng THG 
và TTTT như vậy là để nhấn mạnh mối quan hệ: vai THG nhỏ hơn nhưng cũng có thể là 
để lịch sự, người hàng trên dùng THG một cách tế nhị, gọi người dưới hàng theo mối 
quan hệ sơ (không thân). Ở ví dụ (16) (Làm dùm nghen chú!), nếu là người nói trên hàng 
thì TTTT cuối phát ngôn nghen thường đứng sau từ hô gọi, ví dụ: Làm dùm chú nghen. 
Trong trường hợp này người nói nhấn mạnh “chú” để ngầm ý xác định vai trong giao 
tiếp cũng có thể nói muốn thể hiện cái uy trong hành động điều khiển mà người nghe 
phải thực hiện yêu cầu, không thể từ chối, dù là từ chối hết sức lịch sự. Còn ngược lại, 
TTTT cuối phát ngôn nghen đứng trước từ hô gọi, thì chắc chắn người nói thuộc vai nhỏ 
hơn, nên TTTT đứng trước thể hiện lịch sự, nhẹ nhàng, tha thiết, tôn trọng người giao 
tiếp, khi “yêu cầu” - cầu mong người lớn hàng hơn mình chấp nhận thỉnh cầu. 
3. Kết luận 
Khảo sát các TTTT cuối phát ngôn đi kèm THG trong giao tiếp của người Nam 
Bộ, bước đầu phân tích, chúng tôi thấy việc liên kết các yếu tố này với nhau có hiệu quả 
trong việc thể hiện nghĩa tình thái. THG kết hợp TTTT trong các ngữ cảnh tạo sự chú ý, 
gây ấn tượng mạnh, tạo sắc thái mới mẻ, đồng thời người nói muốn tìm sự chia sẻ với 
người nghe, mong muốn người nghe tiếp nhận hay đồng tình. 
Khi THG xuât hiện trước TTTT thì trọng tâm sẽ rơi vào đối tượng được gọi, điều 
đó cho thấy người nói vô cùng quan tâm đến người nghe, lúc ấy có thể điểm nhấn biểu 
cảm của TTTT sẽ giảm nhẹ hơn một chút. 
Khi THG xuất hiện sau TTTT thì trọng tâm sẽ rơi vào TTTT, nội dung lời nói 
được chú ý hơn, nhấn mạnh hơn, người nghe cần lưu ý đến thông điệp mà người nói đã 
phát. Ngữ điệu tuy mạnh nhưng không kém phần lịch sự và sự nhẹ nhàng. Người nghe 
cảm nhận được sự quan tâm, tình cảm trân trọng dành cho mình. 
Việc kết hợp THG kèm TTTT cuối phát ngôn trong phương ngữ Nam Bộ một 
cách tự nhiên, hài hòa, phần nào cho thấy bức tranh giao tiếp trọng tình cảm, nét tinh tế 
trong lời ăn tiếng nói của người phương Nam. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
Nguyễn Văn Chiến (1993). Từ xưng hô trong tiếng Việt. Việt Nam những vấn đề ngôn 
ngữ và văn hóa. Hội Ngôn ngữ học Việt Nam, Trường Đại học Ngoại ngữ Hà Nội. 
N. M. Phương / Từ hô gọi đi kèm tiểu từ tình thái phối kết cuối phát ngôn trong giao tiếp của người Nam Bộ 
 72 
Lê Đông, Nguyễn Văn Hiệp (2003). Khái niệm tình thái trong ngôn ngữ học. Ngôn ngữ, 
số 6, tr. 17-26, số 7 tr. 48-64. 
Nguyễn Văn Hiệp (2001). Hướng đến một cách miêu tả và phân loại các tiểu từ tình thái 
cuối câu tiếng Việt. Ngôn ngữ, số 5, tr. 48-64. 
Nguyễn Văn Hiệp (2012). Cơ sở ngữ nghĩa phân tích cú pháp. NXB Giáo dục Việt Nam. 
Trịnh Cẩm Lan (2010). Biến thể ngữ pháp của một số tiểu từ tình thái cuối câu trong 
phương ngữ Nam Bộ. Ngôn ngữ và đời sống, số 3, tr. 10-12. 
Đỗ Thị Kim Liên (2005). Giáo trình ngữ dụng học. NXB Đại học Quốc gia Hà Nội. 
Hoàng Phê (chủ biên) (2015). Từ điển tiếng Việt. NXB Đà Nẵng. 
Hồ Thị Kiều Oanh (2009). Một số tiểu từ tình thái biểu đạt tính lịch sự trong hành động 
ngỏ lời bằng tiếng Việt. Ngôn ngữ và đời sống, số 6. 
Nguyễn Văn Thuận (2009). Vai trò của một số phương tiện tình thái cuối câu trong 
phương ngữ Nam Bộ. Ngôn ngữ, số 1, tr. 69-75. 
Lê Xinh Tươm (2013). Tiểu từ tình thái cuối phát ngôn trong phương ngữ Nam Bộ. Luận 
văn thạc sĩ Ngữ văn, Trường Đại học Vinh. 
Phạm Hùng Việt (2003). Trợ từ trong tiếng Việt hiện đại. Hà Nội: NXB Khoa học xã hội. 
SUMMARY 
 VOCATIVES ACCOMPANIED BY MODAL PARTICLES 
AT THE END OF STATEMENTS IN THE 
SOUTHERNERS’ COMMUNICATION 
Nguyen Mai Phuong 
Van Lang University 
Received on 03/11/2020, accepted for publication on 08/12/2020 
Vocatives and modal particles, in Vietnamese in general and the Southern dialect in 
particular, are the linguistic patterns that contribute to expressing attitude and emotional 
meanings. This study examines the relationship between the vocatives and the modal particles at 
the end of the Southerners’ statements. Fieldwork method is applied in this study: data on 
people's conversations at 11 Southern provinces and cities are collected and analyzed. The results 
show that it is common that vocatives are accompanied by modal particles in the Southerners’ 
communication, which adds rich semantic nuances to the communication. In addition, either the 
vocatives come before or after modal particles also leads to the shift of speech focus, resulting in 
different messages in communication. 
Keywords: Modal particles; vocatives; dialect; meaning. 

File đính kèm:

  • pdftu_ho_goi_di_kem_tieu_tu_tinh_thai_phoi_ket_cuoi_phat_ngon_t.pdf