Trạng thái đa ngữ xã hội và tình hình sử dụng ngôn ngữ tại địa bàn dân tộc thiểu số tỉnh Tuyên Quang
Bài viết này là kết quả điền đã ngôn ngữ xã hội vào tháng 4 năm 2019 tại tỉnh
Tuyên Quang. Tại đây, chúng tôi đã tiến hành trao đổi, tọa đàm, phỏng vấn sâu
với các cơ quan chức năng liên quan đến công tác dân tộc của tỉnh, một số huyện,
xã và thôn bản; quan sát việc sử dụng ngôn ngữ ở các bối cảnh giao tiếp khác
nhau; trao đổi với người có uy tín và người dân tại các thôn bản; đồng thời, khảo
sát bằng phiếu hỏi (anket). Từ thực tế điền dã, bài viết chỉ ra năng lực ngôn ngữ
và tình hình sử dụng ngôn ngữ ở các địa bàn dân tộc thiểu số của tỉnh. Từ thực
trạng cũng như ý kiến đề xuất nguyện vọng của người dân, bài viết muốn nêu ra
một số vấn đề ngôn ngữ nhằm góp phần vào phát triển bền vững của tỉnh nói
chung, tại các địa bàn dân tộc thiểu số nói riêng
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Tóm tắt nội dung tài liệu: Trạng thái đa ngữ xã hội và tình hình sử dụng ngôn ngữ tại địa bàn dân tộc thiểu số tỉnh Tuyên Quang
No.16_June 2020|Số 16 – Tháng 6 năm 2020|p.12-23 TRẠNG THÁI ĐA NGỮ XÃ HỘI VÀ TÌNH HÌNH SỬ DỤNG NGÔN NGỮ TẠI ĐỊA BÀN DÂN TỘC THIỂU SỐ TỈNH TUYÊN QUANG Nguyễn Văn Khanga* a Viện Ngôn ngữ học * Email: nvkhang@gmail.com Thông tin bài viết Tóm tắt Ngày nhận bài: 20/4/2020 Ngày duyệt đăng: 10/6/2020 Bài viết này là kết quả điền đã ngôn ngữ xã hội vào tháng 4 năm 2019 tại tỉnh Tuyên Quang. Tại đây, chúng tôi đã tiến hành trao đổi, tọa đàm, phỏng vấn sâu với các cơ quan chức năng liên quan đến công tác dân tộc của tỉnh, một số huyện, xã và thôn bản; quan sát việc sử dụng ngôn ngữ ở các bối cảnh giao tiếp khác nhau; trao đổi với người có uy tín và người dân tại các thôn bản; đồng thời, khảo sát bằng phiếu hỏi (anket). Từ thực tế điền dã, bài viết chỉ ra năng lực ngôn ngữ và tình hình sử dụng ngôn ngữ ở các địa bàn dân tộc thiểu số của tỉnh. Từ thực trạng cũng như ý kiến đề xuất nguyện vọng của người dân, bài viết muốn nêu ra một số vấn đề ngôn ngữ nhằm góp phần vào phát triển bền vững của tỉnh nói chung, tại các địa bàn dân tộc thiểu số nói riêng. Từ khóa: Đa ngữ xã hội, năng lực ngôn ngữ, sử dụng ngôn ngữ, dân tộc thiểu số, tỉnh Tuyên Quang, phát triển bền vững. 1. Mở đầu 1.1. Trong xu thế di dân và toàn cầu hóa, đa ngữ xã hội đã và đang là hiện tượng phổ biến trên thế giới. Ở Việt Nam, tại các vùng dân tộc thiểu số (DTTS), đa ngữ xã hội với việc cộng cư nhiều dân tộc từ lâu vốn đã đa dạng, nay dưới tác động của hàng loạt các nhân tố xã hội - ngôn ngữ, lại càng đa dạng hơn. Vì là hiện tượng phổ biến mang tính xu thế thời đại nên đa ngữ xã hội trở thành đối tượng quan tâm nghiên cứu không chỉ của ngôn ngữ học mà của các ngành khoa học liên quan như xã hội học, dân tộc học, văn hóa học, v.v. Ở góc độ ngôn ngữ học, một trong những vấn đề quan tâm nhất của đa ngữ xã hội là việc sử dụng ngôn ngữ trong cộng đồng (“cộng đồng” với nghĩa rộng là cả thế giới, khu vực hay quốc gia, v.v.; “cộng đồng” với nghĩa hẹp là xã, thôn bản,v.v., thậm chí là nhóm người với các đặc điểm giai tầng xã hội khác nhau). 1.2. Bài viết này, từ thực tế điền dã, khảo sát đặc điểm trạng thái đa ngữ xã hội ở các địa bàn dân tộc thiểu số (DTTS) tỉnh Tuyên Quang, chỉ ra năng lực ngôn ngữ và tình hình sử dụng ngôn ngữ của người DTTS nói riêng, của cộng đồng DTTS nói chung. Từ thực trạng cũng như ý kiến đề xuất mà chúng tôi nhận được, bài viết muốn nêu ra một số vấn đề về ngôn ngữ nhằm góp phần vào phát triển bền vững của tỉnh cũng như tại các địa phương DTTS. Tư liệu bài viết là kết quả điền đã ngôn ngữ học xã hội vào tháng 4 năm 2019 tại tỉnh Tuyên Quang (thuộc Đề tài mã số DTDL-XH-06/18). Tại đây, chúng tôi đã tiến hành trao đổi, tọa đàm, phỏng vấn sâu với các cơ quan chức năng liên quan đến công tác dân tộc từ tỉnh đến một số huyện, xã và thôn bản; quan sát việc sử dụng ngôn ngữ của người DTTS; tiếp xúc, trao đổi với người có uy tín và người dân tại các thôn bản; đồng thời, khảo sát bằng phiếu hỏi (anket). Để giữ đúng lời hứa khi phỏng vấn, trao đổi, trong bài viết này chúng tôi chỉ dẫn ra ý kiến và để trong ngoặc kép mà không nêu tên cụ thể (chỉ lưu giữ trong tư liệu khảo sát). 2. Trạng thái đa ngữ xã hội ở các địa bàn dân tộc thiểu số tỉnh Tuyên Quang 2.1. Đăc điểm dân số, cư trú và chức năng của các ngôn ngữ 2.1.1. Đặc điểm thái dân số và cư trú TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC TÂN TRÀO ISSN: 2354 - 1431 N.V.Khang/ No.16_June 2020|p.12-23 Tuyên Quang là tỉnh miền núi của vùng Đông Bắc. Là tỉnh đa dân tộc, Tuyên Quang không chỉ là vùng đất cư trú của các dân tộc “bản địa” mà còn là nơi đất lành chim đậu của các cư dân thuộc nhiều thành phần dân tộc trên cả nước. Theo thống kê của Tổng cục Điều tra dân số và nhà ở 2009, tỉnh Tuyên Quang có 732.515 người. (Theo một số cống bố khác thì hiện nay dân số Tuyên Quang đã có thay đổi, chẳng hạn, năm 2015 là 760.289 người, năm 2016 là 766.900 người, v.v.). Do hiện nay chưa có con số chính thức của thống kê dân số năm 2019 nên chúng tôi sử dụng số liệu năm 2009 (vì đây là số liệu chính thức). Có thể thấy, tình hình số dân của các dân tộc ở Tuyên Quang (tính theo năm 2009) là như sau: Bảng 1. Dân số của các dân tộc trong tỉnh Tuyên Quang (2009) STT Dân số Dân tộc và số dân 1 Trên 100 nghìn người Kinh: 334.993; Tày: 185.464 2 Trên 10 nghìn dưới 60 nghìn người Dao: 90.618; Sán Chay: 61.343; Mông: 16.974 Nùng: 14.214; Sán Dìu: 12.565 2 Trên 1 nghìn dưới 10 nghìn người Hoa: 5.982 4 Trên 100 dưới 1.000 người Mường: 725; Thái: 348; La Chí : 100 5 Trên 10 dưới 100 người Gia Rai (98), Ê Đê (95), Giáy (74), Cơ Lao(69); Pu Péo (48), Ngái (43), Mnông (35), Khmer (34), Bố Y(18), Cơ Tu (15), Thổ (15), Ba Na (15), Hrê (12), Lô Lô (11) 6 Từ 1 đến 10 người Pà Thẻn (8), Xơ Đăng (7), Khơ Mú (5), Tà Ôi (4) , Raglay (4), Chăm (4), Xinh Mun (3), La Hủ (3), Lào (1), Hà Nhì (1), Xtiêng (1), Cơ Ho (1) Nhận xét: - Từ góc độ thành phần dân tộc: tính vào thời gian năm 2009, Tuyên Quang có 37/54 dân tộc cư trú. Số liệu này có thể thay đổi chủ yếu ở nhóm (6) và có thể một ít ở nhóm (5). Chẳng hạn, một số người thuộc các DTTS miền Trung, miền Nam đến đây vì lí do hôn nhân hoặc mưu sinh nên rất dễ thay đổi (đến rồi đi và ngược lại). Xét về số lượng cư dân, nếu lưỡng phân người dân tộc đa số (người Kinh) với người DTTS thì người Kinh ở đây có số dân thuộc “thiểu số”. Tuy nhiên, ở góc độ từng dân tộc, số dân của dân tộc Kinh là đông nhất, vượt trội so với số dân của các DTTS khác. Dựa vào số lượng cư dân, có thể xếp các DTTS từ nhiều đến ít như sau: (1) DTTS có số dân đông vượt trội là: Tày; (2) Các DTTS có số dân đông: Dao, Sán Chay, Mông, Nùng, Sán Dìu, Hoa; (3) Các DTTS có số dân tương đối ít là: Mường, Thái, La Chí; (5) Các DTTS có số dân ít là: Gia Rai, Ê Đê, Giáy, Cơ Lao, Pu Péo, Ngái, Mnông, Khmer, Bố Y, Cơ Tu, Thổ, Ba Na, Hrê, Lô Lô; (6) Các DTTS có số dân rất ít là: Pà ... óa của dân tộc”, “để truyền lại cho đời sau”, tiếp đó là “để giao tiếp với người cùng dân tộc, trước hết là ông bà, cha mẹ của mình”. Có những ý kiến khẳng định rằng, việc biết tiếng dân tộc mình là đương nhiên, không cần phải bàn. Tổng hợp qua phiếu khảo sát cho kết quả là: 91,8% người dân và 86,3% học sinh cho rằng cần biết tiếng dân tộc mình để “giữ gìn, thêm yêu dân tộc mình”; 99,6% người dân và 91,2% học sinh cho biết cần biết tiếng dân tộc mình để “giữ gìn, bảo tồn được tiếng nói phong tục của dân tộc mình”; 90,4% người dân và 50,7% học sinh coi biết tiếng dân tộc mình là “biết thêm văn hóa - văn nghệ dân tộc”; 80,4% người dân và 72,2% học sinh cho rằng, việc biết tiếng dân tộc sẽ “dễ dàng nói chuyện” với người cùng dân tộc; người dân cho rằng, cần biết tiếng dân tộc để “thuận lợi trong việc cúng bái, trong các nghi lễ ” (66,8 %) và “dễ dàng trong việc lấy vợ, lấy chồng” (47,1%). Tuy nhiên, ngược với ý kiến trên về “cần biết tiếng dân tộc mình” là ý kiến “không cần biết tiếng dân tộc N.V.Khang/ No.16_June 2020|p.12-23 mình”. Tuy số lượng thấp, nhưng “thể hiện băn khoăn” thì nhiều. Đây chính là “tâm tư” của người DTTS, nhất là thế hệ trẻ, làm thế nào để có thể biết được, giữ gìn được tiếng dân tộc mình, trong khi cần phải biết tốt tiếng Việt để mưu sinh, phát triển cuộc sống (đấy là chưa kể cần phải biết tiếng nước ngoài/ngoại ngữ nữa). Chẳng hạn, lí do không cần biết tiếng mẹ đẻ vì: “tiếng dân tộc ít sử dụng” (29,6%); “số người dùng tiếng mẹ đẻ ngày một ít” (19,6%); “đã có tiếng Việt rồi” (16,1%); biết tiếng mẹ đẻ “ảnh hưởng đến việc học, sử dụng tiếng Việt” (5,7%); “không mang lại lợi ích về kinh tế, việc làm” (11,8%). 3.2. Thái độ ngôn ngữ đối với tiếng DTTS khác Cộng cư giữa các dân tộc là điều kiện tốt để người các DTTS có thể biết tiếng của nhau. 77% ý kiến cho rằng, biết thêm được tiếng dân tộc khác thì tốt, chủ yếu là để hiểu nhau hơn. Tuy nhiên, họ đều có chung một chia sẻ là, việc biết tiếng DTTS khác còn tùy theo hoàn cảnh, khả năng của mỗi người. Ví dụ, khi lấy chồng hay lấy vợ về một dân tộc khác mà ở đó “chủ yếu nói tiếng dân tộc của họ (không phải tiếng của dân tộc mình) thì phải nhất định phải biết”, hoặc do yêu cầu của công việc, v.v. Có những người không có nhu cầu nhưng họ lại biết vì khả năng ngôn ngữ của họ, v.v.. Nói chung, các ý kiến cho rằng “biết thêm được thì càng tốt, nhưng không dễ chút nào” [lời của người dân]. 3.3. Thái độ ngôn ngữ của người Kinh đối với tiếng DTTS Câu hỏi đặt ra là, người Kinh ở các địa bàn DTTS có cần biết tiếng DTTS không? Để có một cái nhìn khách quan về vấn đề này, chúng tôi đã khảo sát trực tiếp và nhận được các ý kiến phản hồi cả “thuận chiều” “và cả “trái chiều”, cụ thể: 81,7% ý kiến người dân và 66,3% học sinh cho rằng, người Kinh cần biết tiếng dân tộc; 5,7% ý kiến người dân và 2% học sinh cho rằng người Kinh không cần biết tiếng dân tộc, còn lại 9,3% người dân và 11,2 % học sinh “không có ý kiến gì” hoặc “ bỏ trống “ không trả lời” (3,9% người dân và 20,5% học sinh). Lí do về việc người Kinh cần biết tiếng DTTS là vì: để thuận lợi trong giao tiếp, tạo sự gần gũi, thuận lợi trong công việc, hiểu thêm được cuộc sống, nhất là đời sống văn hóa, phong tục tập quán của dân tộc anh em ở nơi mình đang sống và làm việc, v.v.. Lí do về việc người Kinh không cần biết tiếng dân tộc là vì, như lời của một số người dân: “đã có tiếng Việt rồi”; “người dân tộc đã biết tiếng Việt rồi” ;“cán bộ là người Kinh không cần biết tiếng dân tộc khi đi làm việc bởi lẽ người dân tộc hiện nay đa số đều thông thạo tiếng Kinh”; biết thêm tiếng dân tộc cũng “không giúp được gì nhiều cho đời sống và công việc”, tiếng dân tộc “khó học”, “chưa có chính sách phù hợp” cho những người Kinh biết tiếng dân tộc, v.v.. 3.4. Thái độ ngôn ngữ của người DTTS đối với ngoại ngữ Khi được hỏi người DTTS có cần biết ngoại ngữ không thì đại đa số các ý kiến (86,1% ở người dân và 93,7% ở học sinh) cho rằng, trong thời đại hiện nay, dù là ai ở đâu cũng cần biết ngoại ngữ. Dù có thể chỉ dừng lại ở mong muốn nhưng có thể coi đây là một cách nhìn hiện đại, cởi mở của người DTTS ở Tuyên Quang. Trao đổi lí do cần biết ngoại ngữ, chúng tôi đã nhận được những cách chia sẻ khác nhau nhưng tập trung là biết ngoại ngữ để mở rộng tầm nhìn, giao lưu với thế giới, tiếp nhận những cái hay cái đẹp của thế giới và quan trọng là hướng đến tương lại. Dưới đây là tổng hợp một số lí do được đa số người hỏi ý kiến thống nhất, gồm: “Thuận lợi trong công việc”; “Làm việc với người nước ngoài”; “Giao lưu với người nước ngoài”; “Để xem, nghe ca nhạc nước ngoài trên TV, đài phát thanh”; “Để hi vọng ra nước ngoài”. Bảng 4. Lí do, mục đích của việc biết ngoại ngữ (*Ghi chú: một người có thể nêu vài lí do) Lí do Ý kiến của người dân Ý kiến của học sinh Thuận lợi trong công việc 218/280 77,9% 169/205 82,4% Làm việc với người nước ngoài 179/280 63,9% ===== ====== Giao lưu với người nước ngoài 200/280 71,4% 154/205 75,1% Để xem, nghe ca nhạc nước ngoài trên TV, đài phát thanh 178/280 63,6% 120/205 58,5% Để hi vọng ra nước ngoài 137/208 48,9% 104/205 50,7% N.V.Khang/ No.16_June 2020|p.12-23 Tiếp theo, khi tìm hiểu “nên cần biết ngoại ngữ nào” thì đa số các ý kiến cho rằng, cần biết tiếng Anh (87,9% ý kiến của người dân và 93,2% của học sinh): “Nên ưu tiên tiếng Anh vì tiếng Anh có ảnh hưởng đến nhiều lĩnh vực khác”; “nên học tiếng Anh, vì tiếng Anh là ngôn ngữ quốc tế” [lời của một số người]. Đối với các ngoại ngữ khác thì ý kiến của cả người dân và học sinh đều ở tỉ lệ thấp. Bảng 5. Những ngoại ngữ cần biết (*Ghi chú: một người có thể nêu vài lí do ) Ngoại ngữ cần biết Người dân Học sinh Tiếng Anh 246/280 87,9% 191/205 93,2% Tiếng Trung Quốc phổ thông 66/280 23,6% 65/205 31,7% Tiếng Trung Quốc địa phương 30/280 10,7% 23/205 11,2% Tiếng Pháp 19/280 10,4% 30/205 14,6% Tiếng Hàn 73/280 26,1% 77/205 37,6% Tiếng Nhật 23/280 22,5% 69/205 33,6% 4. Thay cho kết luận: những kiến nghị đề xuất 1. Một số ý kiến đề xuất của người dân tộc thiểu số ở Tuyên Quang Trong quá trình khảo sát điền dã, tiếp xúc với các cấp chính quyền cũng như bà con ở vùng DTTS tại tỉnh Tuyên Quang, chúng tôi đã thu nhận được các ý kiến xung quanh vấn đề ngôn ngữ. Chúng tôi tổng hợp lại thành một số nội dung như sau: Thứ nhất, về tình hình sử dụng ngôn ngữ nói chung: Ở vùng DTTS có nhiều ngôn ngữ, nhưng cần ưu tiên hai ngôn ngữ là tiếng Việt và tiếng mẹ đẻ của mỗi dân tộc. Theo đó, cần có biện pháp để nâng cao khả năng sử dụng hai ngôn ngữ này của mọi người DTTS. Nếu cần biết thêm một ngoại ngữ thì nên là tiếng Anh để giao lưu hội nhập. Thứ hai, về tiếng dân tộc: Nhiều ý kiến cho rằng “ cứ theo đà này, 30-40 năm nữa tiếng dân tộc sẽ nguy cơ mai một”; “hiện nay lứa tuổi từ 50 trở xuống biết ngôn ngữ dân tộc ngày càng ít”, vì thế, cần có chính sách và biện pháp bảo tồn và phát huy tiếng dân tộc, trước hết là “nên có sự ưu ái đào tạo con em dân tộc để con em vùng dân tộc trở về phục vụ đồng bào mình”. Thứ ba, về chữ viết dân tộc - Đối với chữ Cao Lan: “mong muốn có chữ Cao Lan Latinh để thuận lợi trong việc học tiếng, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc”, tức là “muốn học chữ Cao Lan bằng chữ Latinh, vì học theo chữ Nho rất khó học”. - Đối với chữ Tày, chữ Dao: “Mong muốn có chữ viết Tày Latinh để dễ dàng thuận lợi trong việc học chữ”; “cần có chữ Dao Latinh thì mới học được”. - Đối với chữ Mông: Hiện ở Tuyên Quang đang tồn tại hai loại chữ viết Mông là chữ Mông của Việt Nam và chữ Mông quốc tế (còn goi là Mông Latinh). “Người dân thích học chữ Mông Latinh và thường dùng trong đời sống người Mông hàng ngày; chữ Mông này giúp cho người Mông đọc, học Kinh thánh (đạo Tin Lành)”. Vì thế, cần cân nhắc “thống nhất chữ Mông để dễ phổ biến đến bà con hơn”. Thứ tư, về sử dụng ngôn ngữ của người công tác tại vùng DTTS - Đối với cán bộ người Kinh: “Cán bộ người Kinh phải học tiếng dân tộc để thuận lợi trong công việc ở vùng dân tộc, để dễ tiếp cận dân”. - Đối với các địa bàn có dân tộc Mông: “Cán bộ cần biết tiếng Mông để dễ dàng hơn trong công việc, nhất là trong tuyên truyền đường lối”, giúp người Mông dần tránh được những tin đồn xấu, tránh tà đạo (đạo bất hợp pháp). Thứ năm, về dịch một số văn bản sang tiếng DTTS: Một số văn bản tuyên truyền, hướng dẫn nên dịch ra tiếng dân tộc (chủ yếu là tiếng Mông). Thứ sáu, về vấn đề dân tộc - Nên có chính sách cho các dân tộc sống xen kẽ, để các dân tộc có cơ hội giao lưu trao đổi với nhau, tránh sống biệt lập, dễ bị kẻ xấu lợi dụng, cán bộ tiếp cận dân cũng gặp nhiều khó khăn. N.V.Khang/ No.16_June 2020|p.12-23 - Mong muốn được tách Cao Lan thành dân tộc riêng, vì “tiếng nói giữa Cao Lan và Sán Chí không giống nhau”. “Đây là hai dân tộc có tiếng nói khác nhau, phong tục tập quan khác nhau. Trước đây, Cao Lan, Sán Chí cũng là 2 dân tộc”. Thứ bảy, về vấn đề dạy tiếng dân tộc Dạy tiếng Mông là cần thiết, nhưng không nên chỉ dạy và cấp chứng chỉ tiếng Mông mà cần dạy và cấp chứng chỉ cho một số tiếng DTTS khác; Cần chú trọng tới giáo viên dạy tiếng DTTS (cấp chứng chỉ “hành nghề” và chú ý chế độ đãi ngộ cho họ, v.v..). 2 Một số nhận xét rút ra Qua một số điểm khảo sát tại các địa bàn DTTS ở tỉnh Tuyên Quang cho thấy một thực tế là, tiếng mẹ đẻ của người DTTS và tiếng Việt là hai ngôn ngữ được cùng linh hoạt sử dụng trong giao tiếp ở các lĩnh vực, bối cảnh giao tiếp cụ thể. Tuy nhiên, trong bối cảnh hiện nay, có thể thấy một số vấn đề về ngôn ngữ tại các địa bàn DTTS đang nổi lên là: - Số người biết ít hoặc không biết tiếng Việt đang lùi dần theo lứa tuổi (tập trung ở người cao tuổi), trong khi đó, ngược lại, số người biết ít hoặc không biết tiếng mẹ đẻ lại tăng lên ở lứa tuổi trẻ. Đô thị hóa và toàn cầu hóa gắn với mưu sinh đang làm cho giới trẻ thích nghi với cuộc sống hiện đại, và đây là lí do chủ yếu đang làm cho họ xa dần tiếng mẹ đẻ, nhất là giới trẻ DTTS ở tỉnh thành, thị trấn, thị tứ, trung tâm của xã, ở những khu công nhiệp, nơi giao thương, v.v.. - Với tư cách pháp lí và thực tế là “ngôn ngữ quốc gia”, chức năng của tiếng Việt đang ngày một được mở rộng, theo đó, làm thu hẹp bớt chức năng giao tiếp của các ngôn ngữ DTTS. Nếu như trước đây, ngôn ngữ trong giao tiếp gia đình phải là tiếng mẹ đẻ (ngôn ngữ DTTS) thì giờ đây đã thay đổi. Cũng vì biến động về chức năng mà vốn từ, cách nói của các ngôn ngữ DTTS dường như “chững lại”, trong đó, có không ít từ ngữ, cách nói của tiếng DTTS đang dần được thay thế bởi các từ ngữ, cách nói của tiếng Việt (từ “song dụng” đến “thay thế”). Cũng vì không có chữ viết hoặc chữ viết ít được sử dụng nên việc ghi lại “cho chính xác” ngôn ngữ của các DTTS đang gặp khó khăn, nên tiếng DTTS “pha” với nhiều biến thể tiếng Việt phương ngữ đang xuất hiện ở các địa bàn khác nhau. Từ những đặc điểm trên, câu hỏi đặt ra là, làm sao người DTTS một mặt vẫn “bảo tồn và phát huy” tiếng nói chữ viết của mình lại sử dụng tốt tiếng Việt để phục vụ cho cuộc sống của họ là cả một vấn đề. Thiết nghĩ, trên cơ sở của chính sách chung, cần có những giải pháp cụ thể cho từng địa bàn cụ thể, cho ngôn ngữ DTTS cụ thể. Chẳng hạn, việc xây dựng chữ viết dân tộc nên căn cứ vào nguyện vọng của người dân, muốn vậy cần có những khảo sát vừa tổng thể vừa cụ thể; việc dạy - học tiếng DTTS cần thiết thực hơn, làm sao có hiệu quả sử dụng; phát huy nhiều hơn vai trò của truyền thông (phát thanh truyền hình) bằng tiếng dân tộc tại các địa bàn, v.v.. _________________ *Bài viết thuộc sản phẩm của Đề tài mã số ĐTĐL- XH-06/18 TÀI LỆU THAM KHẢO 1.Wolff, Ekkehard (2000), Language and Society; In: Bernd Heine and Derek Nurse (Eds.) African Languages - An Introduction, 317. Cambridge University Press . 2. Nguyễn Văn Khang (2015), Chính sách ngôn ngữ và lập pháp ngôn ngữ ở Việt Nam. NXB Khoa học xã hội. 3. Nguyễn Văn Khang (2019), Ngày quốc tế Tiếng mẹ đẻ và một số vấn đề về tiếng mẹ đẻ từ thực tế ở vùng dân tộc thiếu số hiện nay”. Tạp chí Ngôn ngữ & Đời sống, số 2/2019. 4. Nguyễn Văn Khang (2019), Cơ sở lý thuyết và thực tiễn liên quan đến nghiên cứu tình hình sử dụng ngôn ngữ vùng dân tộc thiểu số: Một số vấn đề về đa ngữ xã hội. Tạp chí Dân tộc, số 3.2019 5. Trần Trí Dõi (2015), Ngôn ngữ các dân tộc thiểu số ở Việt Nam. Nxb Đại học quốc gia Hà Nội. 6. Các tư liệu thu thập được trong đợt điền dã tại Tuyên Quang tháng 4/2019. N.V.Khang/ No.16_June 2020|p.12-23 The situation of societal multilingualism and using language in area of ethnic minorities in Tuyen Quang province Nguyen Van Khang Article info Abstract Recieved: 20/4/2020 Accepted: 10/6/2020 This article reveals the findings from a study on sociolinguistics in April 2019 in Tuyen Quang province where conversations and in-depth interviews with responsible agencies related to the ethnic affairs of the province, some districts, communes and villages were conducted. Moreover, the situation of language use in different contexts of communication were observed. In addition, conversations and interviews with prestigious people and the locals in the localities were implemented; besides, a survey questionnaire (anket) was employed as another instrument for the study. From the ethnography, the article uncaps linguistic competence and language use in ethnic minority areas in the province. The situation of the people’s language use and wishes found from the study poses some linguistic issues, thereby, suggesting some solutions to the sustainable development of the province in general, and ethnic minority localities in particular. Keywords: Societal multilingualism, language competence, language use, ethnic minorities, Tuyen Quang province, sustainable development
File đính kèm:
- trang_thai_da_ngu_xa_hoi_va_tinh_hinh_su_dung_ngon_ngu_tai_d.pdf