Tộc danh sử dụng trong đời sống ngôn ngữ ở Việt Nam
Các tộc danh chính thức trong các bài viết khác nhau có thể thay đổi theo các
quyết định để xác định các thành phần dân tộc được thành lập ở nước ta hiện
nay.
Bài viết này nhắc lại những thay đổi cần lưu ý để tránh nhầm lẫn khi xử lý và
khai thác thông tin cho các nghiên cứu về các nhóm dân tộc khác nhau ở Việt
Nam. Phải đặc biệt thận trọng khi kết hợp tộc danh.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Bạn đang xem tài liệu "Tộc danh sử dụng trong đời sống ngôn ngữ ở Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Tộc danh sử dụng trong đời sống ngôn ngữ ở Việt Nam
No.16_June 2020|Số 16 – Tháng 6 năm 2020|p.5-11 TỘC DANH SỬ DỤNG TRONG ĐỜI SỐNG NGÔN NGỮ Ở VIỆT NAM Vương Toàn a* a Chủ nhiệm Chương trình Thái học Việt Nam * Email: vuongtoanls@gmail.com Thông tin bài viết Tóm tắt Ngày nhận bài: 27/3/2020 Ngày duyệt đăng: 10/6/2020 Các tộc danh chính thức trong các bài viết khác nhau có thể thay đổi theo các quyết định để xác định các thành phần dân tộc được thành lập ở nước ta hiện nay. Bài viết này nhắc lại những thay đổi cần lưu ý để tránh nhầm lẫn khi xử lý và khai thác thông tin cho các nghiên cứu về các nhóm dân tộc khác nhau ở Việt Nam. Phải đặc biệt thận trọng khi kết hợp tộc danh. Từ khóa: Tộc danh, Nhóm dân tộc, Sử dụng ngôn ngữ, Việt Nam 1. Tộc danh với những cách gọi và cách viết khác nhau Thuộc phạm vi nghiên cứu của môn tên gọi hay danh học (tiếng Anh: onomastics hay name study, tiếng Pháp: onomasiologie, onomastique), tộc danh là tên dân tộc hay tộc người, có thể gồm những cách gọi, dẫn đến những cách viết khác nhau, do chúng có nguồn gốc khác nhau, do đó là (những) tên tự gọi hay tên được gọi bởi (các) dân tộc khác, hoặc do (các) nhà khoa học đặt ra, có thể được chính thức công nhận hoặc không. Cần lưu ý rằng khi xác định thành phần dân tộc, các nhà nghiên cứu (trong và ngoài nước) đều có thể đưa ra cách phân định của mình, dựa trên những cứ liệu khoa học và đưa ra một tên gọi, có thể không hoàn toàn trùng với tên tự gọi hoặc thường gọi. Ví dụ: Người Tày gọi người Kinh là Keo, gọi người Hoa là Hác, Như thế, xét về nguồn gốc, có tên tự gọi, tên do (các) dân tộc khác gọi, tên do (các) nhà nghiên cứu đặt (và/hoặc dịch ra tiếng nước ngoài) và quan trọng hơn cả là tên chính thức được ghi trong các văn bản có tính pháp quy. Khảo sát việc sử dụng tộc danh cần phải quy về tên gọi chính thức, luôn tùy thuộc vào Danh mục các dân tộc đã được đưa ra, vào những thời điểm công bố khác nhau (sẽ được nói đến ở mục 2.). Vì lẽ đó, những tên gọi này có thể thống nhất là một, song cũng có thể khác nhau, trong không ít trường hợp. Sự khác biệt có khi không chỉ ở cấp độ ngữ âm - từ vựng mà còn ở cả sắc thái tu từ (trung tính hay miệt thị). Sự khác biệt có thể mang tính lịch sử, nghĩa là tên gọi (kể cả tên chính thức) được thay đổi khi sử dụng ở những thời điểm khác nhau. Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc và đa ngôn ngữ, cùng chung sống hòa thuận. Trong đại gia đình các dân tộc Việt Nam, có những dân tộc vốn sinh ra và phát triển trên mảnh đất này ngay từ thửa ban đầu, có những dân tộc từ nơi khác lần lượt di cư đến nước ta. Lịch sử nước ta là lịch sử các dân tộc anh em chung lưng đấu cật, đoàn kết chung sức chung lòng dựng nước và giữ nước. Do ở nước ta, tộc danh chính thức có thể thay đổi ở mỗi lần xác định thành phần các dân tộc, vốn là một trong những nhiệm vụ khoa học phức tạp, nhưng có ý nghĩa chính trị sâu sắc. Thuật ngữ dân tộc trong dân tộc ở đây được hiểu là tộc người hay có người dùng là sắc tộc (tiếng Anh : ethnic group ; tiếng Pháp : ethnie, khác với nation, cũng có lúc dịch là dân tộc). Công việc đòi hỏi sự nghiên cứu toàn diện về các dân tộc, trong đó TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC TÂN TRÀO ISSN: 2354 - 1431 V.Toan/ No.16_June 2020|p.5-11 cần nhận thức đúng đắn về các quan niệm khoa học (như thế nào là một dân tộc, tiêu chuẩn và phương pháp xác định thành phần dân tộc, các quá trình tộc người...), nắm được những quan điểm cơ bản của đường lối, chính sách cơ bản của Đảng, Nhà nước và đòi hỏi sự kết hợp hợp lý giữa công tác khoa học và công tác chính trị tư tưởng trong quần chúng. Được biết, nhiều năm gần đây, Viện Hàn lâm Khoa học Xã hội Việt Nam cùng Ủy ban Dân tộc của Chính phủ đã nhiều lần được giao nhiệm vụ thực hiện dự án Điều tra, xác định thành phần dân tộc ở Việt Nam. Cũng đã có đề tài khoa học cấp tỉnh về chủ đề này. Không ít cuộc toạ đàm khoa học đã được tổ chức, thu hút sự quan tâm của giới nghiên cứu và các nhà quản lý trong nước, từ trung ương đến địa phương. Giới nghiên cứu đã có những ý kiến đề xuất khác nhau, song một số trường hợp đang còn phân vân, nên các cơ quan có thẩm quyền chưa ra quyết định cuối cùng trong việc xác định lại. Do chưa có quy định thống nhất chính tả, ta luôn có thể gặp cùng một tộc danh với những cách gọi và cách viết khác nhau. Đề cập đến vấn đề chính tả tên các dân tộc, PGS. TS Đoàn Văn Phúc (2009) xác định: “Tên dân tộc (TDT - tộc danh) là một hiện tượng văn hóa - ngôn ngữ biểu hiện một nét văn hóa - xã hội, tâm lý - xã hội của mỗi dân tộc (tộc người - ethnic) trong những môi trường sống nhất định. Tên dân tộc là một vấn đề liên quan chặt chẽ với nguồn gốc, đặc điểm văn hóa của mỗi dân tộc” (tr. 190). “Mỗi dân tộc thường mang nhiều tên gọi khác nhau. Ở mỗi thời kì lịch sử nhất định thì mỗi dân tộc lại có thể được gọi bằng nhiều tên khác nhau Thế nhưng ngay trong cách viết tên dân tộc trong Danh mục thành phần các dân tộc ở Việt Nam do Tổng cục Thống kê công bố ngày 2 tháng 3 năm 1979 lại không thống nhất về cách viết và dường như người ta có cảm giác rằng cách viết tên dân tộc chẳng theo một nguyên tắc nhất quán nào cả” (tr. 190-191). “Mặc dù đã từng có nhiều văn bản quy định của nhiều cấp nhiều ngành khác nhau về chính tả tiếng Việt đối với tên riêng dân tộc thiểu số, trong đó bao hàm cả tên các dân tộc thiểu số, song vấn đề viết tên dân tộc hiện nay chưa thống nhất, hết sức đa dạng, phức tạp và có thể nói là hết sức lộn xộn” (tr. 191). Thực tế cho thấy về cách viết, theo Danh mục các dân tộc Việt Nam mà Tổng cục Thống kê ban hành theo Quyết định số 121 - TCTK/PPCĐ ngày 2/3/1979 thì chỉ viết hoa âm tiết đầu và dùng gạch nối (-) giữa các âm tiết của một tộc danh đa âm tiết. Ví dụ: Bố-y, Pu-péo, Do chưa có Luật ngôn ngữ, nên ta còn gặp các cách viết khác như chỉ viết hoa âm tiết đầu và không gạch nối. Do về sau, có quy ước viết hoa tất cả các âm tiết đối với tên riêng, n ... 3.1. Hiện tượng đa nghĩa hoặc đồng âm 3.1.1. Do quy ước viết tắt trong tiếng Việt và phép mở rộng nghĩa, chúng ta có thể phân biệt 3 nghĩa của 1 Danh mục các cơ quan, các đơn vị hành chính, các thành phần dân tộc. H., Nxb Thống kê, 1982, 43 tr. tộc danh Thái, được đánh số thứ tự kèm theo 1, 2 và 3, như sau: a) Thái 1 là tộc danh do các nhà chuyên môn đề xuất, được Nhà nước ta chính thức sử dụng để chỉ một DTTS ở Việt Nam, trong khi tên tự gọi - tùy theo nhóm tộc người - được phiên âm là Tay/Tăy/Thay. Ví dụ: Cuốn sách của Cầm Trọng có tên là Người Thái ở Tây Bắc Việt Nam (1978). Được biết rằng khi là danh từ chung, từ tay/tăy chỉ có nghĩa là “người”, như được dùng trong: tay hưỡn khỏi (người nhà tôi), khec pay tay ma (kẻ đi người lại), hay “tộc người” , như trong: tay Pháp (người Pháp), tay Lào (người Lào), tay Keo (người Kinh) hoặc “nhóm người”, như trong: tay Mương Lay (người Mường Lay), gọi tắt là tay Lay... Chỉ khi là danh từ riêng - được viết hoa - từ này mới được dùng để chỉ “tộc danh”: Kốn Tãy (người Thái). Theo đó, người Thái Đen tự gọi mình là kôn Tay/ Tãy Đăm. Trong khi đó, người Thái Trắng và các nhóm khác tự gọi mình là Phụ/Phu Tay/Thay, mà Phụ /Phu cũng là "người": Vì thế, người ta tự gọi mình là: Tay Đón/Khao = Thái Trắng, Tay Thanh = Thái Thanh, Tay Mởi. Tay Mươi = Thái Quỳ Châu, Tay Mương = Thái Hàng Tổng. Tay Đeng, có người dịch là “Thái Đỏ”. Sự nhầm lẫn dễ xảy ra khi gặp những tên ghép, như Tay Mương, do có thể được viết là Tày Mường nên có nhân viên thư viện nọ2, khi phân loại tài liệu, đã tưởng đó là sách viết về hai dân tộc Tày và Mường. b) Ở dạng tắt, Thái 2 được dùng thay cho tên nước Thái Lan, như khi nói đến hàng Thái, tiếng Thái Ví dụ luận án của Siriwong Hongsawan đươc in thành sách có tên là Các phương tiện thể hiện hành động bác bỏ trong tiếng Thái và tiếng Việt (2011). Dân cư Thái Lan chủ yếu là người Thái, họ vẫn tự gọi dân tộc mình là Tay hoặc Thay và thường có thêm một yếu tố hạn định là Klang (có nghĩa là giữa). c) Mở rộng nghĩa, Thái 3 được dùng trong Thái học, để chi ngành khảo cứu về 08 dân tộc thuộc nhóm Tày - Thái hay Thái -Tày ở Việt Nam. Hiện nay, Thái học còn được giới nghiên cứu trong nước và thế giới quan niệm với phạm vi rộng hơn nữa, là những khảo cứu có liên quan đến cả 12 dân tộc thuộc ngữ hệ Thái - Kađai, có nghĩa là hướng sự quan tâm thêm vào 4 tộc người thuộc nhóm ngôn ngữ Kađai nữa, ví dụ như một công trình 2 Vì lý do tế nhị , xin phép không nêu tên một số trường hợp cụ, thể. V.Toan/ No.16_June 2020|p.5-11 tập thể có tên là Thái học Việt Nam: 30 năm - Một chặng đường (2019). Trong các văn bản tiếng Anh và tiếng Pháp, ta cũng gặp các cách viết là Thai hay Tay hoặc Tai Studies. 3.1.2 Dễ nhầm hơn là trường hợp có hiện tượng đồng âm, khi tộc danh được dùng ở các thời kỳ khác nhau, với phạm vi sử dụng khác nhau. Đó là trường hợp cùng được viết là Thổ, nhưng lại chỉ hai dân tộc thiểu số hoàn toàn khác nhau. Đó là: Thổ 1 là tên gọi chính thức mới xuất hiện trong Danh mục thành phần các dân tộc ở Việt Nam (1974) dùng để chỉ một dân tộc thiểu số thuộc nhóm Việt- Mường, hình thành từ sự gộp nhập tộc người trước đó có tên là Đan Lai-Ly Hà với các nhóm: Cuối + Họ + Kẹo ++ Mọn + Tày Poọng. Ví dụ: Cuốn sách của Quán Vi Miên có tên là Văn hóa dân gian dân tộc Thổ (2013). Trong khi đó, Thổ 2 (vốn là tên gọi do dân tộc khác đặt ra để chỉ người Tày, trong điều kiện nhiều dân tộc khác đến cùng chung sống; tộc danh này được dùng để chỉ đây là dân bản địa hay thổ dân, nếu phiên chuyển âm chính xác thì phải là “Thó/Thỏ, với nghĩa là “bản địa”, “địa phương”, như: cần Thỏ (người Thổ), phải Thỏ (vải địa phương tự dệt). da thỏ (thuốc do thày lang địa phương chế). Ví dụ: Bài viết của Nguyễn Văn San có tên là Văn tự Thổ và cách ghi âm, đăng trên Văn sử địa (1955). Trong thư gửi Đại hội các dân tộc thiểu số miền Nam, Bác Hồ viết: "Đồng bào Kinh hay Thổ, Mường hay Mán và các dân tộc khác đều là con cháu Việt Nam, đều là anh em ruột thịt."3 Hiện nay, người dân ở một số địa phương vẫn còn sử dụng tên gọi này trong giao tiếp hàng ngày. Và trong sách văn học, ta có thể gặp, chẳng hạn: Lào Cai là một tỉnh có diện tích 69 km vuông, 70.000 dân, gồm 6-7 dân tộc: Thổ, Mèo, Lôlô (Nguyễn Thị Mỹ Dung.- Chuyện tình viên phó sứ. H., Nxb Phụ nữ, 2005, tr. 84). Để phân biệt khỏi nhầm với với Thổ 1, có tác giả còn chỉ rõ đây là Tày Thổ. 3.2. Những tên ghép Không chỉ sinh viên mà không ít các nhà khoa học xã hội - không chuyên về các vấn đề dân tộc - cảm thấy 3 HỒ CHÍ MINH, Tuyển tập, tập 4, H., Sự thật, 1984, tr. 128 4 Được biết, ngày 11/8/2019. Trung tâm Giáo dục Thường xuyên huyện Đà Bắc đã có Thông báo mở lớp tiếng dân tộc Thái (theo sách giáo khoa Xư Tay của huyện Mai Châu), không gọi là chữ Tày cổ như trước đây lúng túng khi cần hiểu cho đúng các nhóm từ này. Cần phân biệt trong đời sống ngôn ngữ, có hai loại tên ghép thường được sử dụng: để chỉ: 1) một dân tộc và 2) một cộng đồng đa dân tộc được giới nghiên cứu xác định là thuộc cùng một nhóm (nhánh, chi) ngôn ngữ hay một ngữ hệ (họ). 3.2.1. Đó là trường hợp tên ghép hình thành từ sự gộp nhập hai nhóm trước đó được xác định là dân tộc, chẳng hạn như: từ các tộc danh đã có: Giẻ và Triêng hợp nhất thành dân tộc Giẻ-Triêng, từ hai dân tộc trước đó có tên là Bru và Vân Kiều hợp nhất thành dân tộc Bru-Vân Kiều. Trường đặc biệt là từ hai dân tộc Cao Lan và Sán Chỉ, có thời gộp thành dân tộc Cao Lan-Sán Chỉ, về sau lại đổi thành Sán Chay. Đó cũng là trường hợp tên ghép được dùng để chỉ một nhóm tộc người không liên quan gì đến dân tộc Tày (= Thổ 2) mà đều là các nhóm người Thái. Đó là: Tày Khao, Tày Đăm, Tày Chiềng hay Tày Mương (Hàng Tổng), Tày Thanh (Man Thanh), Tày Mươi, Tày Đeng, Tày Khăng, Tày Đà Bắc4, hay Tày Hạt, được dùng để chỉ người Ơ Đu. 3.2.2. Khác hẳn với các trường hợp trên, tên ghép được dùng để chỉ một cộng đồng các dân tộc thuộc cùng một nhóm/ nhánh/ chi) ngôn ngữ (như Mông-Dao, Tày-Thái, Việt-Mường) hay một ngữ hệ/ họ (như: Hán-Tang, Thái-Kađai,) 2.2.3. Lại có trường hợp khá đặc biệt, đó là Tày - Nùng. Mới đây chúng tôi gặp trong bản thảo một công trình đưa in, có lúc viết tác giả là các dân tộc Tày - Nùng, rồi ở trên dùng tiếng Tày, xuống thêm 2 dòng dùng tiếng Tày - Nùng (tr. 112), song ngữ Tày Nùng - Việt (tr. 130), người Tày Nùng (tr. 336). học sinh người Nùng “dùng song ngữ Tày - Việt” (tr. 354), đến chỗ khác lại viết: tiếng Tày, NùngVề sau lại viết: Các ngôn ngữ: Tày, Nùng (tr. 356). Xin nhớ rằng tuy có một số lần chính thức thay đổi cách phân định tộc người ở nước ta (như đã nói ở trên), song từ trước đến nay Nùng và Tày luôn được xác định là 2 DTTS khác nhau. Do vậy, có thể viết: các dân tộc Tày Nùng, nhưng tốt hơn hết là viết: các dân tộc Tày, Nùng và rõ hơn là: các dân tộc Tày và Nùng. (theo người dân thích gọi mình là Tày vì tự gọi là Phu Tay) cho cán bộ công chức trong huyện, vẫn do thầy Lường Đức Chôm (đã dạy từ 2012) thực hiện. V.Toan/ No.16_June 2020|p.5-11 Song do văn hóa truyền thống của hai dân tộc này - thường sống kề cạnh - có nhiều nét tương đồng (bên cạnh một số điểm khác biệt) có thể ghép chung thành văn hóa Tày - Nùng, cộng đồng Tày - Nùng, như trên mạng xã hội hiện nay có Hội Tày-Nùng Việt Nam, hoạt động ở 8 khu vực, Do ngôn ngữ của các nhóm người Tày và người Nùng (khi sống kề cạnh) thường có những nét tương đồng, nên sau khi thành lập Khu tự trị Việt Bắc (năm 1957), một Phương án chữ Tày - Nùng được xây dựng và thông qua (năm 1961). Từ đó, các nhà nghiên cứu nói đến tiếng Tày - Nùng chung, trong khi mỗi thứ tiếng lại có nhiều phương ngữ, không chỉ khác biệt về ngữ âm mà cả từ vựng. Sự gộp nhập trên đã khiến cho có học giả nước ngoài hiểu lầm là ở Việt Nam có một dân tộc thiểu số mang tên là “Tày-Nùng”, và như thế, nước ta chỉ có 53 (chứ không phải 54) dân tộc (?!) * * * Ngoài hai trường hợp nói trên, do chưa có quy định thống nhất chính tả cho mọi trường hợp, ta luôn có thể gặp cùng một tộc danh nhưng đã có những cách gọi và cách viết khác nhau được công nhận ở những thời điểm khác nhau. . Chẳng hạn như Mèo cv. Mẹo là tên gọi trước đây của một dân tộc thiểu số. Ví dụ: Bài viết của Vương Quỳnh Anh có tên là Vài ý kiến về vấn đề từ mượn trong tiếng Mèo. In trong "Tập san dân tộc" của Uỷ ban Dân tộc Trung ương (1960). Tên gọi này đã chính thức được thay đổi thành Hmông, theo Danh mục thành phần các dân tộc ở Việt Nam (1979), song do không nhận được sự đồng thuận, nên đã có quyết định gọi chính thức là dân tộc Mông trong Thông báo số 02 ngày 3-9-1992 của Văn phòng Hội đồng Bộ trưởng về ý kiến kết luận của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng (nay là Thủ tướng Chính phủ) tại Hội nghị vùng cao về dân tộc này. Khi chỉ có quy định cho một trường hợp thì không phải ai ai cũng biết mà theo. Do đó, hai cuốn sách xuất bản cùng năm có thể viết tên dân tộc này theo hai cách. Ví du: Cuốn sách do Hùng Đình Quý d., gth. có tên là Những bài khèn của người Mông ở Hà Giang (2005). Trong khi đó cuốn sách của Vương Duy Quang có tên 5 Báo cáo tóm tắt chuyên khảo CSNN của Nhà nước CHXHCNVN trong thời kỳ CNH, HDDH đất nước và hội nhập quốc tế: Thực trạng, các kiến nghị và giải pháp. Hà Nội, 2010, tr. 23 là Văn hoá tâm linh của người Hmông ở Việt Nam/ Truyền thống và hiện đại (2005). 4. Kết luận Thực tế cho thấy với một số tộc danh tưởng không có gì xa lạ thế mà vẫn có nhà nghiên cứu, nhất là học giả nước ngoài thấy khó phân biệt khi cần đối chiếu với cách được viết thường gặp trên sách báo bằng tiếng nước ngoài. Việc xác định tộc danh khi nghiên cứu tộc người nói chung, các DTTS nói riêng nên được xác định và hiểu cho đúng đối tượng, nên so sánh với những tên gọi đã quen biết, để tránh "ông nói gà, bà nói vịt". Chúng tôi đã có dịp góp ý kiến về việc biên soạn Tiêu đề đề mục "Việt Nam - các ngôn ngữ" nhằm phân loại tài liệu sao cho phù hợp với cách phân chia ngôn ngữ theo dân tộc. Trong tình hình số lượng dân tộc được quan niệm không tương ứng với số ngôn ngữ hay nói đúng hơn, theo giới chuyên môn thì "Việt Nam có 54 dân tộc, nhưng có đến gần 100 ngôn ngữ/phương ngữ DTTS hành chức" (5), mỗi dân tộc và nhóm dân tộc lại có thể có nhiều tên gọi (cũ và mới) thì việc xác định cho đúng đối tượng được đề cập trong một văn bản cần có kiến thức chuyên ngành sâu sắc. Việc nhận biết những chi tiết ở trên còn nhằm hiểu và sử dụng đúng các cách ghép tên dân tộc. Vấn đề nêu ra trên đây chỉ muốn được xem như gợi ý nên thận trọng với công tác phân loại tài liệu khoa học, cần đọc kỹ để xác định từ khóa hay định chủ đề cho đúng và đầy đủ. Đặc biệt là khi xử lý các tài liệu bằng tiếng nước ngoài cần thận trọng, và quan trọng nhất là phải xác định được nhà nghiên cứu nọ đề cập đến (nhóm) dân tộc - ngôn ngữ nào. V.Toan/ No.16_June 2020|p.5-11 TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Vi Văn An (2001), Góp phần tìm hiểu về tên gọi Thái Đen và Thái Trắng ở miền tây Nghệ An, Tc. Dân tộc học, số 4, tr. 32-36. 2. Lê Sĩ Giáo (1988), Về bản chất và ý nghĩa tên gọi các nhóm Thái Trắng và Thái Đen ở Việt Nam. Tc. Dân tộc học, số 3, tr.77-81. 3. Vương Hùng (2002), Thái - Thổ - Tày - Nùng. Trong: “Văn hoá và lịch sử các dân tộc trong nhóm ngôn ngữ Thái Việt Nam”. H., Nxb Văn hoá Thông tin, 4. Hoàng Văn Ma (2019), Về tên gọ họ Thái - Kađai. Trong : “Thái học Việt Nam: 30 năm - Một chặng đường”. H., Nxb Thông tin và Truyền thông, tr. 154-166. 5. Đoàn Văn Phúc (2009), Vấn đề chính tả tên các dân tộc thuộc ngữ hệ Hán - Tạng, Trong: Tìm hiểu ngôn ngữ các dân tộc ở Việt Nam. H., KHXH, tr. 190-221. 6. Mông Ký Slay (2002), Tày Nùng, Tày - Nùng hay Trong: “Văn hoá và lịch sử các dân tộc trong nhóm ngôn ngữ Thái Việt Nam”. H., Nxb Văn hoá Thông tin, tr. 69-76. 7. Vương Toàn (2000), Về tên gọi các dân tộc thuộc ngữ hệ Thái ở Việt Nam // What should the ethnic groups in the Thai linguistic family in Vietnam be called? Tóm tắt báo cáo Hội nghị quốc tế lần thứ năm về các ngôn ngữ châu Á. ĐHQG tp HCM, 2000, tr. 256- 258. 8. Vương Toàn (2002), Nùng hay Nồng? Trong: “Văn hoá và lịch sử các dân tộc trong nhóm ngôn ngữ Thái Việt Nam”. H., Nxb Văn hoá Thông tin, tr. 77- 84. 9. Vương Toàn (2008), Góp ý về biên soạn Tiêu đề đề mục "Việt Nam - các ngôn ngữ". "Bản tin Thư viện - Công nghệ thông tin". Trường ĐH Khoa học Tự nhiên TP Hồ Chí Minh, tháng 5/2008, tr. 33-44. 10. Vương Toàn (2011), Hiểu cho đúng các nhóm từ: Tày - Nùng, Tày - Thái, Tày - Thổ. Báo cáo tại Hội thảo Ngữ học toàn quốc do Hội Ngôn ngữ học phối hợp với Trường Đại học Ngoại ngữ, Đại học Đà Nẵng tổ chức ngày 22/4/2011. 11. Vương Toàn (2019), Xung quanh tộc danh và ngôn ngữ của hai dân tộc Tày và Nùng hiện nay. Bài trình bày tại Hội thảo khoa học quốc gia Một số vấn đề lí luận và thực tiễn xác định thành phần ngôn ngữ trong quan hệ với xác định thành phần tộc người ở Việt Nam, do Viện Ngôn ngữ học tổ chức, ngày 21/1/2019. 12. Cầm Trọng (1992), Từ những tên gọi của từng dân tộc trong cộng đồng ngôn ngữ Tày - Thái, chúng ta có thể nghiên cứu gì về nguồn gốc của họ. Tạp chí Dân tộc học, Viện Dân tộc học, số 4, tr.14 - 20. Ethnonymes used in linguistic life in Vietnam Vuong Toan Article info Abstract Recieved: 27/3/2020 Accepted: 10/6/2020 Official ethnonymes with different writings may change according to the decisions to determinate ethnic compositions made in our country each time This article reiterates the changes that need to be noted to avoid confusion when processing and exploiting information for researches on different ethnic groups in Vietnam. Particular caution must be exercised when combining ethnic names Keywords: Ethnonyme, Ethnic group, Language use, Vietnam V.Toan/ No.16_June 2020|p.5-11
File đính kèm:
- toc_danh_su_dung_trong_doi_song_ngon_ngu_o_viet_nam.pdf