Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam trong thập niên đầu thế kỉ XXI – Nhìn từ xu hướng tương tác thể loại

Tiểu thuyết lịch sử hấp thu các thể loại như truyện ngắn, thơ, kịch, vào trong nó theo

hình thức tiếp sức, tổng hợp thể loại, là sự tương tác mang tính đồng đại, tạo nên sự dung

hợp thể loại. Sự tương tác giữa loại với thể tạo nên nhiều tín hiệu mới, khiến cho tiểu thuyết

lịch sử giai đoạn mười năm đầu thế kỉ XXI trở nên sinh động, đa chiều trong phản ánh hiện

thực lịch sử và con người.

Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam trong thập niên đầu thế kỉ XXI – Nhìn từ xu hướng tương tác thể loại trang 1

Trang 1

Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam trong thập niên đầu thế kỉ XXI – Nhìn từ xu hướng tương tác thể loại trang 2

Trang 2

Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam trong thập niên đầu thế kỉ XXI – Nhìn từ xu hướng tương tác thể loại trang 3

Trang 3

Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam trong thập niên đầu thế kỉ XXI – Nhìn từ xu hướng tương tác thể loại trang 4

Trang 4

Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam trong thập niên đầu thế kỉ XXI – Nhìn từ xu hướng tương tác thể loại trang 5

Trang 5

Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam trong thập niên đầu thế kỉ XXI – Nhìn từ xu hướng tương tác thể loại trang 6

Trang 6

Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam trong thập niên đầu thế kỉ XXI – Nhìn từ xu hướng tương tác thể loại trang 7

Trang 7

Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam trong thập niên đầu thế kỉ XXI – Nhìn từ xu hướng tương tác thể loại trang 8

Trang 8

Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam trong thập niên đầu thế kỉ XXI – Nhìn từ xu hướng tương tác thể loại trang 9

Trang 9

Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam trong thập niên đầu thế kỉ XXI – Nhìn từ xu hướng tương tác thể loại trang 10

Trang 10

pdf 10 trang minhkhanh 10040
Bạn đang xem tài liệu "Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam trong thập niên đầu thế kỉ XXI – Nhìn từ xu hướng tương tác thể loại", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam trong thập niên đầu thế kỉ XXI – Nhìn từ xu hướng tương tác thể loại

Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam trong thập niên đầu thế kỉ XXI – Nhìn từ xu hướng tương tác thể loại
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, Trường Đại học Khoa học – ĐH Huế Tập 7, Số 2 (2017) 
111 
TIỂU THUYẾT LỊCH SỬ VIỆT NAM TRONG THẬP NIÊN ĐẦU THẾ KỈ XXI 
– NHÌN TỪ XU HƢỚNG TƢƠNG TÁC THỂ LOẠI 
Lê Thị Thu Trang 
Đại học Đồng Tháp 
Email: ltttrangdthu@gmail.com 
TÓM TẮT 
Tiểu thuyết lịch sử hấp thu các thể loại như truyện ngắn, thơ, kịch, vào trong nó theo 
hình thức tiếp sức, tổng hợp thể loại, là sự tương tác mang tính đồng đại, tạo nên sự dung 
hợp thể loại. Sự tương tác giữa loại với thể tạo nên nhiều tín hiệu mới, khiến cho tiểu thuyết 
lịch sử giai đoạn mười năm đầu thế kỉ XXI trở nên sinh động, đa chiều trong phản ánh hiện 
thực lịch sử và con người. 
Từ khóa: tiểu thuyết lịch sử, tương tác thể loại, xâm nhập thể loại. 
1. ĐẶT VẤN ĐỀ 
Theo Bakhtin, lịch sử văn học trước hết là sự hình thành, phát triển, tương tác giữa các 
thể loại: “Một vấn đề rất quan trọng và lý thú nữa là sự tác động qua lại giữa các thể loại trong 
tổng thể thống nhất của văn học từng thời kỳ” [1,25]. Với Bakhtin, mỗi thời kỳ trong lịch sử văn 
học được đánh dấu bằng một thể loại chủ đạo, có vai trò chi phối và quán xuyến toàn bộ sự đổi 
thay và những cung bậc cụ thể của tấn kịch văn học. Khi tiểu thuyết thống ngự ở trung tâm, nó 
lôi kéo tất cả các thể loại khác vào vòng biến động. Tiến trình tương tác thể loại thực sự bắt đầu 
diễn ra ngay trong bản thân mỗi thể loại và trong toàn bộ hệ thống thể loại. Bakhtin cho rằng: 
“Tiểu thuyết cho phép đưa vào, lắp ghép vào trong nó nhiều thể loại khác nhau, cả những thể 
loại nghệ thuật (truyện ngắn, thơ trữ tình, những trường ca, những màn kịch nói) lẫn những 
thể loại phi nghệ thuật (các thể văn đời sống hằng ngày, văn hùng biện, khoa học, tôn giáo), 
về nguyên tắc bất cứ thể loại nào cũng có thể được đưa vào cấu trúc tiểu thuyết và trên thực tế 
rất khó tìm được một thể loại nào chưa bao giờ và chưa được ai đưa vào tiểu thuyết” [1,131]. 
Kundera có quan niệm đồng nhất với khái niệm liên văn bản của Bakhtin khi đưa ra khái niệm 
cách kể đa âm: là “sự sáp nhập những thể loại phi tiểu thuyết (truyện ngắn, phóng sự, thơ, tiểu 
luận,) vào tiểu thuyết” [4,79]. 
Các nhà hình thức luận Nga, Bakhtin, Genette J.Knisteva xem sự pha trộn thể loại chính 
là những biểu hiện của tính liên văn bản. Tương tác thể loại là “hiện tượng hai hay nhiều thể 
loại của một giai đoạn, một thời kì, một nền văn học, thuộc về một hay nhiều hệ thống thể loại, 
tác động, ảnh hưởng lẫn nhau, xâm nhập vào nhau, mô phỏng nhau, để cùng biến đổi hoặc 
Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam trong thập niên đầu thế kỉ XXI – nhìn từ xu hướng tương tác thể loại 
112 
hình thành thể loại mới (với cấu trúc ít nhiều thay đổi về “tố chất thẩm mĩ chủ đạo”, “giọng 
điệu”, “dung lượng và cấu trúc chung của tác phẩm.”” [5,5] Tương tác thể loại diễn ra trên các 
loại quan hệ khác nhau: giữa loại với loại, giữa thể với loại, giữa thể với thể, giữa yếu tố với yếu 
tố. Tương tác thể loại có thể diễn ra theo các hình thức chính: tổng hợp thể loại, đổi ngôi – tiếp 
sức giữa các thể loại, loại bỏ, thay thế thể loại. Với tiểu thuyết lịch sử thập niên đầu thế kỉ XXI, 
chúng ta nhận thấy không chỉ lịch sử trở thành cảm hứng chủ đạo mà nó còn pha trộn cả thơ, 
truyện ngắn, những đối thoại đầy tính chất kịch, cổ tích, truyền thuyết, huyền thoại để mở 
rộng biên độ thể loại. 
2. NỘI DUNG 
2.1. Sự xâm nhập của truyện ngắn trong tiểu thuyết lịch sử 
Trước khi bàn luận đến sự tương tác giữa truyện ngắn và tiểu thuyết lịch sử, cần đề cập 
đến những vấn đề nòng cốt, đặc trưng của hai thể loại. Truyện ngắn và tiểu thuyết lịch sử đều là 
những hình thức hư cấu tự sự bằng văn xuôi. Hai thể loại này đều nằm trong khu vực tiếp xúc 
với cái hiện thực đang vận động và phát triển, đều huy động kinh nghiệm sống và từng trải của 
chính tác giả, đều sử dụng một thứ ngôn ngữ văn xuôi giàu chất tạo hình và đa thanh. Trong quá 
trình phát triển, tiểu thuyết lịch sử cũng như truyện ngắn sẽ thâu nạp thêm những đặc điểm mới 
do sự tác động qua lại giữa các thể loại, do sự chi phối của các trào lưu và phương pháp sáng 
tác, của các phương tiện đọc và cách đọc, nghe, nhìn qua các thế kỉ. Tuy nhiên, tiểu thuyết lịch 
sử là một hình thức tự sự cỡ lớn, hình thức kể chuyện cỡ lớn, khác với truyện ngắn là một hình 
thức tự sự nhỏ, hình thức kể chuyện cỡ nhỏ. Lịch sử xuất hiện trong truyện ngắn không phải là 
những sự kiện có tầm quy mô, hoành tráng với trường độ thời gian mà chỉ là những “khoảnh 
khắc”, “lát cắt” của lịch sử. Nếu nhân vật trong tiểu thuyết là một thế giới thì nhân vật trong 
truyện ngắn là một mảnh nhỏ của thế giới. Truyện ngắn không nhằm tới việc khắc họa những 
tính cách điển hình có cá tính đầy đặn, nhiều mặt trong tương quan với hoàn cảnh. Nhân vật 
truyện ngắn thường là hiện thân cho một trạng thái quan hệ xã hội, ý thức xã hội hoặc trạng thái 
tồn tại của con người. Trong truyện ngắn, tính cách điển hình chỉ được nêu lên ở một phút sáng 
chói nào đó, nhưng trong tiểu thuyết thì đó là toàn bộ lịch sử của con người được miêu tả trong 
sự vận động và phát triển của nó. Cốt truyện của truyện ngắn thường tự giới hạn về thời gian và 
không gian, nhưng chức năng của nó là để nhận ra một ấn tượng sâu đậm về cuộc đời và tình 
người trong cuộc sống. Truyện ngắn thường chọn một sự kiện quan trọng nào đó, còn trong tiểu 
thuyết có nhiều sự kiện, nhiều tuyến cốt truyện đan chéo, chồng chất lên nhau. Trong truyện 
ngắn, hành động cơ bản được bắt đầu ngay một cách mau lẹ chứ không phải được dắt dẫn từ từ 
như trong tiểu thuyết. Kết cấu của truyện ngắn thường gồm nhiều tầng truyện và thường được 
dựng theo kiểu tương phản, liên tưởng. Bút pháp trần thuật thường là chấm phá. Yếu tố có ý 
nghĩa quan trọng bậc nhất của truyện ngắn là chi tiết có dung lượng lớn và hành văn ẩn ý, tạo 
cho tác phẩm những chiều sâu chưa nói hết. 
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, Trường Đại học Khoa học – ĐH Huế Tập 7, Số 2 (2017) 
113 
Với tư duy tiểu thuyết, truyện ngắn có độ nén, tính vấn đề, tính mở, tính đa âm ... Ngơ ngẩn đường tu 
Ru nào 
Cá bơn 
Phơi thân cỏ rạp. 
Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam trong thập niên đầu thế kỉ XXI – nhìn từ xu hướng tương tác thể loại 
116 
Xét về mặt kết cấu, có thể xem mỗi bài thơ như một chương văn bản khi xem xét dấu 
hiệu văn bản của mỗi bài thơ được sắp xếp như một chương mặc dù không có tên chương. 
Ngoài ra, trong Giàn thiêu rất nhiều lời trong kinh Phật xen kẽ trong văn bản, có những đoạn lời 
kinh Phật rất dài có chức năng như một chương mở đầu tác phẩm (chương I – Chương VIII) 
giống các bài thơ Ru cá bơn, Bài ca đầu lâu dã nhân, Bài ca chu sa đỗ tễ. 
Ngoài ra, phần lớn thơ trong tiểu thuyết lịch sử là phương thức chuyển tải tâm trạng của 
nhân vật trữ tình, nhân vật bộc lộ suy nghĩ, tư tưởng, tình cảm, đồng thời là kênh chuyển tải triết 
lý nhân sinh sâu sắc của tác giả. Những bài thơ như Tiểu sơn thiên của Từ Huệ, Việt giang ngâm 
của Tô Dịch Giản, Nam quốc sơn hà của Lý Thường Kiệt được lồng vào trong cấu trúc Giàn 
thiêu giúp cho nhân vật thể hiện cảm xúc, phơi bày tâm trạng, tạo nên chất thi vị, trữ tình, làm 
giảm độ căng cho tác phẩm. Những bài thơ chữ Hán được tập hợp thành tập Bắc Hành tạp 
lục ghi lại những địa danh, hình ảnh, nhân vật, cảnh vật, và hoàn cảnh mà Nguyễn Du trong tác 
phẩm cùng tên đã quan sát, cùng những hoài niệm riêng tư cảm nhận trong hành trình sứ bộ 
sang Trung Hoa. Đặc biệt, Đoạn trường tân thanh là tiếng kêu thân phận cho những kiếp người 
chịu nhiều bất công, ngang trái, là “nỗi khát khao tự do của người nghệ sĩ trước thực tại nghiệt 
ngã, bủa vây” [65, 106]. Có thể thấy rằng, sự xâm nhập của tôn giáo trong tiểu thuyết lịch sử đã 
tạo nên bức tranh đa sắc cho thể loại. Trong các sáng tác của Hoàng Quốc Hải, Nguyễn Xuân 
Khánh, Võ Thị Hảo, Bùi Anh Tấn, thơ thiền trở thành yếu tố liên văn bản tham gia tạo dựng cấu 
trúc tác phẩm. Với cảm hứng viết về hai triều đại Lý – Trần (thời đại cực thịnh của Phật giáo), 
Hoàng Quốc Hải đan cài rất nhiều bài thơ thiền của các vị thiền sư như Vạn Hạnh, Đỗ Pháp 
Thuận, Viên Chiếu, Huệ Năng, Thần Tú, Tịnh Giới, Mãn Giác như là cách thể hiện những 
triết lý về lẽ biến thiên xoay vần của lịch sử, vũ trụ và con người. Trong Đàm đạo về Điều Ngự 
Giác Hoàng (Bùi Anh Tấn) có 15/20 bài thơ thiền được tác giả đan cài vào mạch phát triển của 
những câu chuyện. Những bài thơ thể hiện đạo trị nước của Đỗ Pháp Thuận (Vạn nước như mây 
cuốn/Trời Nam mở thái bình/Vô vi trên các điện/ Xứ xứ hết đao binh); niềm tin lạc quan, tự tại 
thấm nhuần lẽ vô thường trong triết học Phật giáo của Thiền sư Bảo Sát, Tuệ Trung thượng sỹ, 
Điều Ngự Giác Hoàng (Số đời một hơi thở/Tình đời hai biển trăng/Cung ma đâu sá kể/Cõi Phật 
một trời xuân). Ngoài ra, Bùi Anh Tấn còn đưa vào trong tác phẩm Đàm đạo về Điều Ngự Giác 
Hoàng, Oan khuất rất nhiều bài thơ, lời thơ một cách tự nhiên, có thể là cả bài thơ hoặc vài câu 
thơ. Những lời thơ thường mang tính bình luận và dự báo về nội dung. Phần “bàn” (phần mở 
đầu trong Đàm đạo về Điều Ngự Giác Hoàng), nhà văn đưa vào một bài thơ của Nguyễn Trãi 
viết về vua Trần Nhân Tông có vai trò khái quát về nội dung cho phần “bàn” về vua nhân vật. 
Trong Oan khuất, có nhiều bài thơ đan xen như bài Cảm hoài của Đặng Dung, những lời thơ 
của quan Phụ đạo đọc sang sảng khi ông luyện võ, hoặc Nguyễn Trãi thể hiện tâm sự về cuộc 
sống, sinh hoạt riêng tư khi sống ẩn dật ở Côn Sơn qua bài thơ Đời làm quan. Tóm lại, tiểu 
thuyết lịch sử đương đại thu nhận nhiều thơ, giàu chất thơ, mang lại cho thể loại một vẻ tươi 
mới, đưa tiểu thuyết nói chung và tiểu thuyết lịch sử nói riêng chiếm lĩnh vị thế trung tâm của 
đời sống văn học, đồng thời khẳng định khả năng uyển chuyển, linh hoạt giữa các thể loại 
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, Trường Đại học Khoa học – ĐH Huế Tập 7, Số 2 (2017) 
117 
“không thể nào thực hiện một sự phân loại hợp lý và vững chắc các thể loại” Tomachievski 
nhận xét [7, 271]. 
2.3. Sự xâm nhập của kịch trong tiểu thuyết lịch sử 
Theo Bakhtin, tiểu thuyết chính là những tiếng nói xã hội khác nhau, đôi khi là những 
ngôn ngữ xã hội khác nhau và những tiếng nói cá nhân khác nhau được tổ chức lại một cách 
nghệ thuật. Tiểu thuyết là “sự va chạm, tương tác và chồng lấn lên nhau” giữa các thể loại. Hiện 
thực cuộc sống sôi động với bao bộn bề, ngổn ngang thúc đẩy nhà văn đương đại phải đối thoại 
và tìm cách giải quyết thông qua những sáng tạo nghệ thuật. Hegel nhấn mạnh rằng “tình thế 
giàu xung đột là đối tượng ưu tiên của nghệ thuật kịch”. Với kịch chân lý lịch sử là chân lý lịch 
sử bên trong của sự xung đột, còn xung đột trong tiểu thuyết lịch sử chỉ là bộ phận của toàn thể 
cái thế giới mà nó thể hiện. Tiểu thuyết đưa đến một hiện thực xã hội đã được xác định trong 
một thời đại bằng toàn cục sắc thái và không khí riêng của thời đại đó. Do tiểu thuyết mô tả cái 
toàn cục của các đối tượng, nên nó phải đi vào các chi tiết nhỏ của đời sống thường nhật và thời 
gian của hành động. Trong một thế giới nhiều mảnh vỡ, tồn tại bao nhiêu tình thế giàu xung đột 
nảy sinh: xung đột giữa cái cũ và cái mới, giữa bảo thủ và đổi mới trong Hồ Quý Ly, Mẫu 
Thượng Ngàn (Nguyễn Xuân Khánh), Thế kỉ bị mất (Phạm Ngọc Cảnh Nam); giữa tư tưởng 
nhân nghĩa và cướp đoạt trong Hội thề (Nguyễn Quang Thân); giữa tình yêu và dục vọng trong 
Giàn thiêu (Võ Thị Hảo), Đàn đáy (Trần Thu Hằng), Bí mật hậu cung (Bùi Anh Tấn); giữa tự 
do và quyền lực trong Nguyễn Du (Nguyễn Thế Quang), Minh sư (Thái Bá Lợi), Huyền Trân 
(Nguyễn Hữu Nam); giữa trí thức với quyền lực, giữa dục vọng, bản năng với lý trí trong Hội 
thề (Nguyễn Quang Thân), Oan khuất (Bùi Anh Tấn); giữa Đạo và Đời trong Đàm đạo về Điều 
Ngự Giác Hoàng (Bùi Anh Tấn), Tám triều vua Lý (Hoàng Quốc Hải) Hàng nghìn mối xung 
đột nảy sinh trong đời sống hiện thực lịch sử, trong suốt chặng đường dựng nước và giữ nước 
(xung đột giữa ta và địch): Bà triệu, Lê Lợi – Hàn Thế Dũng; Tám triều vua Lý – Hoàng Quốc 
Hải, Hội thề - Nguyễn Quang Thân, Đất trời – Nam Dao  được các nhà tiểu thuyết lịch sử 
đương đại mang ra luận giải, đối thoại như là một cách mô tả hướng vận động của hiện thực lịch 
sử. 
Một trong những đặc trưng cơ bản của kịch là tính tập trung. Trong đó, cốt truyện phải 
tập trung, phải dồn nén, chứa đựng những tình tiết thật sự tiêu biểu và cần thiết, có ý nghĩa 
tượng trưng và khái quát cao. Đó là cốt truyện “thuần túy”. Do đó, cốt truyện và hành động kịch 
phải thống nhất tập trung, đòi hỏi chi tiết, tình tiết, sự kiện không những phải cô đúc, gãy gọn 
mà còn phải liên đới với nhau một cách chặt chẽ, logic, tất yếu, tự nhiên. Chẳng hạn, trong Con 
đường định mệnh, Hoàng Quốc Hải sử dụng kĩ thuật tỉnh lược thời gian, tập trung dồn nén rất 
nhiều sự kiện diễn ra trong giai đoạn lịch sử rất dài 153 năm. Trong 550 trang đầu, người kể 
chuyện thuật lại câu chuyện về những năm đầu tiên trị vì của Lý Nhân tông diễn ra trong vòng 5 
năm (trung bình 110 trang/năm). Từ đời Lý Thần Tông trở về sau, nhà văn chỉ quy về một 
không gian thật hẹp, tập trung vào các sự kiện chứ không đi vào miêu tả tỉ mỉ các sự kiện ấy. 
Cuộc đời ngắn ngủi của Lý Huệ tông được kể trong vòng 46 trang sách với tốc độ trần thuật 
trung bình là 3.54 trang/năm. Ngắn ngủi và giản lược nhất là giai giai đoạn cuối cùng của triều 
Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam trong thập niên đầu thế kỉ XXI – nhìn từ xu hướng tương tác thể loại 
118 
Lý, với cách kể ngắn gọn: “Lý Huệ tông lập công chúa Phật Kim làm hoàng thái tử Chiêu 
Thánh. Lại kèm thêm một chiếu nữa: Chiếu nhường ngôi Trần Cảnh vào chầu, nữ chúa vời 
vào hậu cung chơi bời cho có bạn thế là hai trẻ thành thân. Được mấy tháng sau ngày cưới, 
Trần Thủ Độ lại bày ra chuyện nhường ngôi.Thế là nhà Lý mất ngôi nước, nhà Trần tự nhiên 
được ngôi nước mà không hao tổn máu xương” [tr.979 – 980]. 
Tiểu thuyết đương đại ngày càng có xu hướng rút ngắn về dung lượng, đó là kết quả của 
sự thâm nhập các đặc tính tập trung của kịch. Lựa chọn cách viết ngắn gọn buộc nhà văn phải 
xây dựng tác phẩm cô đúc về dung lượng, có sức nén, phải chọn thời điểm đặc biệt, mang tính 
vấn đề cao. Khi sáng tạo tiểu thuyết Hội thề, Nguyễn Quang Thân đã chọn thời điểm đặc biệt 
(dăm bảy ngày trước sau trận Xương Giang), chọn một không gian hẹp là thành Đông Quan và 
vùng Kinh Bắc, những nhân vật kiệt xuất (Lê Lợi, Nguyễn Trãi), những tình huống giàu ý nghĩa 
xã hội. Tác phẩm là một nhát cắt của lịch sử với bao suy tư, bao gợi mở thổi về từ quá khứ 600 
năm, tác phẩm có sức lay động trái tim và tư duy con người hiện đại. Nguyễn Quang Thân, qua 
Nguyễn Trãi, đặt vấn đề vị trí, tài năng và số phận của người trí thức dưới chế độ phong kiến. 
Đối thoại và xung đột kịch có thuận lợi để tái hiện tính cách nhân vật một cách chân thực. Nhiều 
tác phẩm được các tác giả tái hiện trên dòng vận động lịch sử và theo sự chọn lọc giai đoạn triều 
chính suy tàn và lập quốc của các của triều đại: nhà Lý và nhà Trần trong Tám triều vua Lý, 
Đàm đạo về Điều Ngự Giác Hoàng; nhà Trần và nhà Hồ trong Hồ Quý Ly; nhà Lê và nhà 
Nguyễn trong Tây Sơn bi hùng truyện, Minh sư Các nhân vật Trần Thủ Độ, Thiên Cực, Chiêu 
Thánh, Trần Thái Tông, Hồ Quý Ly, Nguyễn Trãi, Lê Lợi, Nguyễn Huệ, Nguyễn Hoàng, mỗi 
người có cá tính và bản lĩnh riêng đều muốn làm theo ý mình nhưng rồi cũng bị guồng máy 
chính trị chi phối phải làm những việc khác với chính mình. Cốt truyện kịch được dẫn dắt theo 
quy luật nhân quả, các mối liên hệ phải thật chặt chẽ, có những chỗ ngoặt, những đoạn đột biến, 
những bước nhảy vọt được cấu tạo bằng những sự việc bất ngờ gây hứng thú, buộc người xem 
phải theo dõi liên tục. Ngược lại, người đọc tiểu thuyết lịch sử có thể lướt qua những đoạn mà 
mình không thích. 
Nhân vật trong kịch là nhân vật hành động. Nhân vật kịch có suy nghĩ cũng phải thể 
hiện ra bằng hành động. Nhân vật thường xuyên hoạt động, thực hiện hành động này tới hành 
động khác dẫn đến sự chồng chất dồn nén tạo thành xung đột kịch: Từ Lộ, Ỷ Lan (Giàn thiêu), 
Trần Thủ Độ (Tám triều vua Lý, Đàm đạo về Điều Ngự Giác Hoàng), Hồ Quý Ly (Hồ Quý 
Ly), Nhân vật Từ Lộ trong Giàn thiêu của Võ Thị Hảo, ngay từ đầu xuất hiện là một người 
yêu say đắm Nhuệ Anh và là chàng thư sinh, nho nhã. Cái chết oan khuất của cha đã làm thay 
đổi suy nghĩ và hành động của Từ. Từ quyết tâm lên đường tìm cách trả thù. Hành động từ bỏ 
tình yêu Nhuệ Anh, vượt qua bao khó khăn đến Thiên Trúc học phép thuật, quay về giết Đại 
Điên, đặc biệt khát vọng tình yêu không thực hiện được trong hiện thực luôn cháy bỏng trong 
lòng Từ, để đến khi trở thành thiền sư Từ Đạo Hạnh, tu hành đắc đạo nhưng Từ vẫn luôn ấp ủ 
thực hiện những khát vọng nhằm hưởng thụ hết những gì đã bỏ lỡ. Càng ngày Từ càng dấn sâu 
vào khát vọng bản năng, những tham vọng quyền lực. Càng dấn thân càng thất vọng, càng khát 
khao càng không được thỏa mãn. Hóa hổ là hậu quả tất yếu của lòng tham quá lớn trong Từ. 
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ, Trường Đại học Khoa học – ĐH Huế Tập 7, Số 2 (2017) 
119 
Tóm lại, sự xâm nhập của kịch trong tiểu thuyết lịch sử là sự tương tác giữa loại và thể theo 
hình thức tiếp sức, tổng hợp thể loại, là sự tương tác mang tính đồng đại, tạo nên sự dung hợp 
thể loại hoặc có thể là chuyển thể thể loại một cách dễ dàng. Từ đó, tiểu thuyết lịch sử và kịch 
có thể chuyển hóa qua lại, tạo nên những tác phẩm kịch lịch sử hoặc kịch bản sân khấu, kịch 
bản phim, điển hình là trường hợp Hội thề của Nguyễn Quang Thân, Oan khuất, Bức huyết thư 
của Bùi Anh Tấn 
3. KẾT LUẬN 
Nhìn vào thành tựu mà tiểu thuyết lịch sử giai đoạn này đạt được, có thể thấy rằng, 
logic tương tác đa chiều đã đưa thể loại vận động và phát triển mạnh mẽ. Nếu sự tương tác giữa 
truyện ngắn, thơ và kịch với tiểu thuyết lịch sử là tương tác giữa thể và loại thì tương tác giữa 
tiểu thuyết lịch sử với lịch sử, huyền thoại, văn hóa, tôn giáo, tín ngưỡng là tương tác giữa thể 
loại với các hình thái ý thức xã hội khác, là sự tương tác ngoài hệ thống thể loại. Sự xâm nhập 
của các yếu tố ngoài văn bản giúp cho tiểu thuyết lịch sử được mở ra theo nhiều hướng mới: 
tiểu thuyết lịch sử - huyền thoại, tiểu thuyết lịch sử - văn hóa Mỗi chiều tương tác tạo cho tiểu 
thuyết lịch sử một tiểu loại mới theo hình thức tổng hợp, đổi ngôi và tiếp sức thật sự đã làm cho 
gương mặt tiểu thuyết lịch sử đương đại trở nên phong phú và đa sắc. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
[1]. M. Bakhtin (2004). Lý luận và thi pháp tiểu thuyết, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội. 
[2]. Nguyễn Văn Hùng (2014). Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam sau 1986 từ góc nhìn tự sự học, Luận án 
Tiến sĩ Ngữ văn, Học viện Khoa học xã hội. 
[3]. G.K.Kosikov (2013). “Văn bản – Liên văn bản – Lý thuyết liên văn bản”, (Lã Nguyên dịch), 
[4]. M. Kundera (2001). Nghệ thuật tiểu thuyết (Nguyên Ngọc dịch), Nxb Văn hóa Thông tin, Trung tâm 
ngôn ngữ Đông Tây. 
[5]. Nguyễn Thành Thi (2007). ““Lược đồ” văn học quốc ngữ Việt Nam nhìn từ quá trình hình thành và 
tương tác thể loại”, Báo cáo tham luận tại Hội thảo EuroViet, Hamburg, tháng 6/2007, 
[6]. Trần Viết Thiện (2012). Sự tương tác thể loại trong văn xuôi Việt Nam từ năm 1986 đến nay, Luận 
án Tiến sĩ Ngữ văn, Trường ĐHSP Thành phố Hồ Chí Minh. 
[7]. Đỗ Lai Thúy (2001). Nghệ thuật như là thủ pháp, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội. 
Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam trong thập niên đầu thế kỉ XXI – nhìn từ xu hướng tương tác thể loại 
120 
HISTORICAL FICTION IN THE FIRST DECADE OF XXI CENTURY – 
FROM THE TRENDS OF INTERACT GENRE 
Le Thi Thu Trang 
Dong Thap University 
Email: ltttrangdthu@gmail.com 
ABSTRACT 
The Historical novel has absorbed features of various genres like short stories, poetry and 
drama ... into it by the form of succession, genre synthesis as well as the synchronic 
interaction that create the genre fusion. The interaction between the type and genre has 
created many new signals, which make the historical novel in the first decade of XXI 
century come alive, multidimensional in the reflection of historical reality and human life. 
Keywords: Historical novels, interactive genre, intrusion genre. 

File đính kèm:

  • pdftieu_thuyet_lich_su_viet_nam_trong_thap_nien_dau_the_ki_xxi.pdf