Biểu tượng thiên nhiên trong Quốc âm thi tập và Bạch vân quốc ngữ thi tập từ góc nhìn văn hóa

Nguyễn Trãi và Nguyễn Bỉnh Khiêm là hai tác giả lớn không chỉ trong văn học trung

đại mà đối với cả nền văn học Việt Nam. Nếu như Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi - tác

phẩm mở đầu đã là đỉnh cao của thơ Nôm trung đại, thì Bạch Vân quốc ngữ thi tập của

Nguyễn Bỉnh Khiêm là một cột mốc quan trọng trong quá trình vận động và phát triển thơ

Nôm Đường luật ở nước ta. Vấn đề nhìn nhận hai tác giả ở thế đối chiếu với nhau khi xây

dựng hệ thống biểu tượng nghệ thuật thiên nhiên trong hai tập thơ Nôm kiệt tác Quốc âm

thi tập và Bạch Vân quốc ngữ thi tập giúp chúng ta đưa ra những kết luận sâu sắc hơn về

sự cống hiến của hai tác giả đối với tiến trình văn học dân tộc.

Từ trước tới nay, có nhiều quan điểm khác nhau về thuật ngữ “biểu tượng”. Việc cắt

nghĩa, giải nghĩa các biểu tượng không phải là việc dễ dàng, bởi mỗi biểu tượng đều có nội

hàm mở. Pêtit Larousse (1993) quan niệm: “Biểu tượng là một dấu hiệu ám ảnh, con vật

hay đồ vật biểu thị một điều trừu tượng; nó là hình ảnh cụ thể của một sự vật hay một điều

gì đó”. Trong cuốn Từ điển biểu tượng văn hóa thế giới, Jean Chevalier - Alain Gheerbrant

cho rằng: “Biểu tượng được dùng với những biến đổi đáng kể về ý nghĩa và chú ý nhiều ở ý

nghĩa tượng trưng” [2, tr. 268].

Biểu tượng thiên nhiên trong Quốc âm thi tập và Bạch vân quốc ngữ thi tập từ góc nhìn văn hóa trang 1

Trang 1

Biểu tượng thiên nhiên trong Quốc âm thi tập và Bạch vân quốc ngữ thi tập từ góc nhìn văn hóa trang 2

Trang 2

Biểu tượng thiên nhiên trong Quốc âm thi tập và Bạch vân quốc ngữ thi tập từ góc nhìn văn hóa trang 3

Trang 3

Biểu tượng thiên nhiên trong Quốc âm thi tập và Bạch vân quốc ngữ thi tập từ góc nhìn văn hóa trang 4

Trang 4

Biểu tượng thiên nhiên trong Quốc âm thi tập và Bạch vân quốc ngữ thi tập từ góc nhìn văn hóa trang 5

Trang 5

Biểu tượng thiên nhiên trong Quốc âm thi tập và Bạch vân quốc ngữ thi tập từ góc nhìn văn hóa trang 6

Trang 6

Biểu tượng thiên nhiên trong Quốc âm thi tập và Bạch vân quốc ngữ thi tập từ góc nhìn văn hóa trang 7

Trang 7

Biểu tượng thiên nhiên trong Quốc âm thi tập và Bạch vân quốc ngữ thi tập từ góc nhìn văn hóa trang 8

Trang 8

Biểu tượng thiên nhiên trong Quốc âm thi tập và Bạch vân quốc ngữ thi tập từ góc nhìn văn hóa trang 9

Trang 9

Biểu tượng thiên nhiên trong Quốc âm thi tập và Bạch vân quốc ngữ thi tập từ góc nhìn văn hóa trang 10

Trang 10

pdf 10 trang minhkhanh 8540
Bạn đang xem tài liệu "Biểu tượng thiên nhiên trong Quốc âm thi tập và Bạch vân quốc ngữ thi tập từ góc nhìn văn hóa", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Biểu tượng thiên nhiên trong Quốc âm thi tập và Bạch vân quốc ngữ thi tập từ góc nhìn văn hóa

Biểu tượng thiên nhiên trong Quốc âm thi tập và Bạch vân quốc ngữ thi tập từ góc nhìn văn hóa
TẠP CHÍ KHOA HỌC − SỐ 7/2016 67 
BIỂU TƯỢNG THIÊN NHIÊN TRONG 
QUỐC ÂM THI TẬP V0 BẠCH VÂN QUỐC NGỮ THI TẬP 
TỪ GÓC NHÌN VĂN HÓA 
Phạm Thị Huyền Trang1 
Trường Đại học Thủ đô Hà Nội 
Tóm tắt: Trong bài viết này, chúng tôi phân tích một số biểu tượng thiên nhiên trong 
Quốc âm thi tập và Bạch Vân quốc ngữ thi tập, so sánh sự tương đồng và khác biệt trong 
nghệ thuật xây dựng các biểu tượng thiên nhiên, lý giải từ tư tưởng thời đại và phong 
cách cá nhân của các tác giả. 
Từ khóa: Quốc âm thi tập, Bạch Vân quốc ngữ thi tập, biểu tượng thiên nhiên. 
1. MỞ ĐẦU 
Nguyễn Trãi và Nguyễn Bỉnh Khiêm là hai tác giả lớn không chỉ trong văn học trung 
đại mà đối với cả nền văn học Việt Nam. Nếu như Quốc âm thi tập của Nguyễn Trãi - tác 
phẩm mở đầu đã là đỉnh cao của thơ Nôm trung đại, thì Bạch Vân quốc ngữ thi tập của 
Nguyễn Bỉnh Khiêm là một cột mốc quan trọng trong quá trình vận động và phát triển thơ 
Nôm Đường luật ở nước ta. Vấn đề nhìn nhận hai tác giả ở thế đối chiếu với nhau khi xây 
dựng hệ thống biểu tượng nghệ thuật thiên nhiên trong hai tập thơ Nôm kiệt tác Quốc âm 
thi tập và Bạch Vân quốc ngữ thi tập giúp chúng ta đưa ra những kết luận sâu sắc hơn về 
sự cống hiến của hai tác giả đối với tiến trình văn học dân tộc. 
Từ trước tới nay, có nhiều quan điểm khác nhau về thuật ngữ “biểu tượng”. Việc cắt 
nghĩa, giải nghĩa các biểu tượng không phải là việc dễ dàng, bởi mỗi biểu tượng đều có nội 
hàm mở. Pêtit Larousse (1993) quan niệm: “Biểu tượng là một dấu hiệu ám ảnh, con vật 
hay đồ vật biểu thị một điều trừu tượng; nó là hình ảnh cụ thể của một sự vật hay một điều 
gì đó”. Trong cuốn Từ điển biểu tượng văn hóa thế giới, Jean Chevalier - Alain Gheerbrant 
cho rằng: “Biểu tượng được dùng với những biến đổi đáng kể về ý nghĩa và chú ý nhiều ở ý 
nghĩa tượng trưng” [2, tr. 268]. Như vậy chúng ta có thể rút ra một số kết luận về biểu 
1 Nhận bài ngày 26.06.2016; gửi phản biện và duyệt đăng ngày 20.08.2016 
Liên hệ tác giả: Phạm Thị Huyền Trang; Email: pthtrang@daihocthudo.edu.vn 
68 TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ ĐÔ H NỘI 
tượng: Thứ nhất, biểu tượng là nấc thang cao nhất của giai đoạn nhận thức cảm tính. Cùng 
với cảm giác và tri giác, biểu tượng làm nền cho giai đoạn nhận thức lí tính về sau, góp 
phần quan trọng để nhận thức về thế giới khách quan. Thứ hai, biểu tượng bao giờ cũng 
bao gồm hai bình diện là cái biểu đạt và cái được biểu đạt. Trong đó, cái biểu đạt luôn luôn 
lớn hơn cái được biểu đạt. Thứ ba, biểu tượng mang đậm màu sắc tâm linh, mang tính dân 
tộc, tính thời đại. Việc giải mã các biểu tượng sẽ góp phần không nhỏ trong việc chiếm 
lĩnh thế giới nghệ thuật của tác phẩm. 
2. NỘI DUNG 
2.1. Biểu tượng thiên nhiên trong Quốc âm thi tập và Bạch Vân quốc ngữ thi tập 
Thiên nhiên là đề tài quen thuộc, nguồn cảm hứng bất tận, suối nguồn không bao giờ 
vơi cạn của thi ca nhân loại. Đặc biệt, với tâm thức thời trung đại, con người xem mình là 
một tiểu vũ trụ trong đại vũ trụ. Họ quan niệm “thiên nhân hợp nhất” cho nên giữa con 
người và tự nhiên có sự cộng hưởng, hòa đồng. Những tao nhân mặc khách sống an bần lạc 
đạo giữa thiên nhiên để chiêm nghiệm về vũ trụ, cuộc đời. Nhà nghiên cứu Nguyễn Thiên 
Thụ đã nhận định: “Với Nguyễn Trãi cũng như các thi nhân khác, thiên nhiên là nguồn mĩ 
cảm vô cùng phong phú, đã làm cho tâm hồn thi nhân rung động... Thi nhân như là một kẻ 
đi tìm cái đẹp và thiên nhiên với muôn vàn vẻ đẹp đã gợi mỗi thi nhân thưởng thức” 
[7, tr. 668]. Đặc biệt ở thời đại của Nguyễn Bỉnh Khiêm khi hiểu rõ được bản chất của hiện 
thực xã hội thì các thi sĩ thường tìm đến thiên nhiên là nơi để gửi gắm tâm hồn mình, vì chỉ 
có sự đa chiều kích của thiên nhiên mới chứa đựng hết cái vô cùng, vô tận trong tâm hồn 
nhà thơ. 
2.1.1. Biểu tượng thiên nhiên là hình tượng vũ trụ 
Các biểu tượng thiên nhiên là hình ảnh vũ trụ phong phú và đa dạng, trong đó những 
biểu tượng được sử dụng với tần suất cao, thể hiện được tư tưởng của tác giả và giàu giá trị 
nghệ thuật là: biểu tượng trăng, biểu tượng trời, biểu tượng mây. 
Trong Quốc âm thi tập, biểu tượng trăng xuất hiện 66 lần, trong đó có 56 lần dùng từ 
nguyệt và 10 lần dùng từ trăng. Trong Bạch Vân quốc ngữ thi tập, trăng xuất hiện 40 lần, 
trong đó có 30 lần dùng từ “nguyệt” và 10 lần dùng từ “trăng”. Điều đó chứng tỏ trăng 
được Nguyễn Trãi và Nguyễn Bỉnh Khiêm đặc biệt yêu thích và sử dụng như một phương 
tiện hữu hiệu để chuyển tải thế giới cảm xúc của mình, thể hiện tâm hồn thanh cao, luôn 
giao hòa, giao cảm với vầng trăng của muôn đời. Trăng là “cái đẹp trong vũ trụ” giao hòa 
với “cái đẹp thường trực trong tâm hồn”. Vì thế vẻ đẹp của trăng tròn đầy, trữ tình tạo nên 
những cảnh quan thiên nhiên mỹ lệ trong Quốc âm thi tập và Bạch Vân quốc ngữ thi tập. 
TẠP CHÍ KHOA HỌC − SỐ 7/2016 69 
Qua biểu tượng trăng, ta cảm nhận được vẻ đẹp của tâm hồn nghệ sĩ tinh tế, thanh cao, 
nâng niu từng vẻ đẹp của quê hương đất nước. Dù thời gian của phủ lớp bụi mờ thì vầng 
trăng sáng trong, nghĩa tình trong thơ Nguyễn Trãi và Nguyễn Bỉnh Khiêm vẫn là biểu 
tượng nghệ thuật có dư ba ngân vang tới trái tim người đọc muôn đời. Trăng hiện lên trong 
nhiều trạng huống khác nhau: là người bạn tri âm, tri kỉ, là nơi gửi gắm niềm vui, nỗi buồn; 
là bến đỗ cho Ức Trai và Tuyết Giang phu tử khi trống vắng, cô đơn. Trong Quốc âm thi 
tập, những bài thơ mà cả bài viết về trăng chiếm số lượng không nhiều và có tỉ lệ nhỏ so 
với tổng các bài thơ có trăng. Đó là các bài: Trăng thu, Mặt trăng trong nước, Nước trời 
một sắc. Tác giả sử dụng hình ảnh mặt trăng trong nước: 
 “Nguyệt trong đáy nước nguyệt trên không” 
 (Quốc âm thi tập, Mặt trăng trong nước) 
Trăng và nước tạo nên bức tranh tuyệt đẹp, thi vị trong hoang tịch, đẫm màu hư 
không. Với một hình ảnh mang tính công thức, nhà thơ đã tìm được nhiều lớp từ biểu hiện. 
Điều đó cho thấy sự phong phú của bút pháp miêu tả, cách sử dụng ngôn ngữ linh hoạt tinh 
tế trong từng chi tiết. Trăng là người bạn đặc biệt nhất. Mỗi lần trăng xuấ ...  đán với sắc trắng thanh khiết, tinh khôi: 
“Mai bạc lạnh quen nhiều tháng tuyết” 
 (Bạch Vân quốc ngữ thi tập – Bài 16) 
“Hoa nẩy cây nên thuở đốc sương 
Chẳng tàn chẳng cỗi hãy phong quang” 
 (Quốc âm thi tập, Lão mai) 
Thiên nhiên quấn quýt, hòa quyện với con người: “Trúc mai làm bạn hứng thơ nồng” 
(Bạch Vân quốc ngữ thi tập - bài 33). Kỳ lạ ở chỗ người hiểu Nguyễn Trãi và Nguyễn Bỉnh 
Khiêm nhất chính là trúc mai. Giữa thi nhân và thiên nhiên đã có mối giao cảm, giao hòa 
về tâm hồn. Nước tuyết, chè mai là những hình ảnh ước lệ để nói lên cái cao khiết, không 
vướng bụi trần, lấy thiên nhiên làm bầu bạn. “Song có hoa mai, tề có nguyệt/ Án còn phiến 
sách, triện còn hương” (Quốc âm thi tập, Tự thán - bài 12) 
2.1.2.2. Biểu tượng hoa cúc 
Biểu tượng hoa cúc trong Quốc âm thi tập được Nguyễn Trãi nói tới trong 18 bài thơ, 
chiếm tỉ lệ 7,0% (18/254), trong Bạch Vân quốc ngữ thi tập được Nguyễn Bỉnh Khiêm nói 
tới trong 3 bài, chiếm tỉ lệ 1,7% (3/177). 
Trong thơ Nôm, hình ảnh hoa cúc được Nguyễn Trãi sử dụng nhằm để ví với phẩm 
chất thanh cao, khí tiết trong sáng của người quân tử. Cúc là loài hoa “diệp bất ly thân” (lá 
không rời khỏi cành dù tàn khô héo rũ). Giữa tiết trời mùa thu sương giăng mây phủ thì 
“Cúc ngạo hàn sương”, cúc vẫn hiên ngang ngạo nghễ đâm hoa kết nhánh mặc cho thời tiết 
khắc nghiệt, cúc vẫn mang nét điềm đạm ung dung, cúc vẫn vươn mình đứng thẳng giữa 
phong ba bão táp. Điều này được thể hiện rõ qua bài Cúc đỏ: 
“Cõi đông cho thức xạ cho hương 
Tạo hóa sinh thành khác đấng thường” 
 (Quốc âm thi tập, Cúc đỏ) 
Hoa cúc đi vào trong thơ Bạch Vân cư sĩ với vẻ đẹp thanh tân và rực rỡ : 
“Cúc vàng thơm đổi mấy phen hoa” 
 (Bạch Vân quốc ngữ thi tập – Bài 16) 
72 TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ ĐÔ H NỘI 
 Hình ảnh thơ sinh động tự nhiên, không đẽo gọt tỉ mỉ, mà lại thanh thoát, nhẹ nhàng 
cho ta thấy thi nhân đã hòa mình vào thiên nhiên để thưởng thức vẻ đẹp cao khiết, sáng 
trong của hoa cúc. 
2.1.2.3. Biểu tượng hoa nói chung 
“Hoa” trở thành một biểu tượng chủ đạo, xuyên suốt với biểu nghĩa thống nhất. Từ ý 
nghĩa bản thể: hoa là dấu hiệu của thực vật đến thời kì sinh trưởng, là kết tinh vẻ đẹp tinh 
túy của tự nhiên: mang màu sắc, hương thơm nhưng “hoa” cũng là thực thể thụ động có 
tính chất không bền vững: mong manh, dễ tàn phai, “hoa” trở thành biểu tượng văn hóa với 
các biểu nghĩa: hiện thân của sức sống và sự sống, tình yêu và sự phong tình, cái đẹp và sự 
mong manh, ngắn ngủi của cái đẹp. Biểu tượng sử dụng từ hoa nói chung được Nguyễn 
Trãi nói đến trong 51 bài ở Quốc âm thi tập chiếm tỉ lệ 20,07% (51/254) và được Nguyễn 
Bỉnh Khiêm được tác giả nói tới trong 27 bài ở Bạch Vân quốc ngữ thi tập, chiếm tỉ lệ 15, 
25% (27/177). 
“Hé cửa đêm dòm hương quế lọt 
Quét hiên ngày lệ bóng hoa tan” 
 (Quốc âm thi tập – Bài 160) 
Nguyễn Trãi mở rộng cánh cửa tâm hồn để đón chờ thiên nhiên như đón một người 
khách tâm giao, một người bạn tri kỉ, người chẳng dám quét đi những cánh hoa vương vãi 
vì sợ làm tan biến mất. Câu thơ biểu lộ tình cảm yêu mến, hòa nhập gắn bó của nhà thơ với 
thiên nhiên. Với Nguyễn Bỉnh Khiêm, hoa cũng là người khách quý mà thi nhân đầy nâng 
niu, trân trọng: 
“Ngày chầy họp mặt hoa là khách” 
 (Bạch Vân quốc ngữ thi tập – Bài 13) 
2.1.2.4. Biểu tượng trúc 
Biểu tượng trúc trong Quốc âm thi tập được Nguyễn Trãi nói tới trong 33 bài thơ, 
chiếm tỉ lệ 13% (33/254) và được Nguyễn Bỉnh Khiêm nói tới trong 16 bài trong Bạch Vân 
quốc ngữ thi tập, chiếm tỉ lệ 9% (16/177). Từ giã chốn quan trường, Ức Trai và Bạch Vân 
cư sĩ quay trở về sống chan hòa, làm bạn với mây núi, trăng sao. Cuộc sống dân dã nơi 
thôn quê đã giúp Nguyễn Bỉnh Khiêm phát hiện ra biết bao cảnh đẹp, coi thiên nhiên như 
người bạn tâm giao. 
“Cửa trúc vỗ tay cười khúc khích” 
 (Bạch Vân quốc ngữ thi tập – Bài 33) 
Trong Quốc âm thi tập, Nguyễn Trãi dùng hình ảnh trúc để ví với khí tiết và phẩm 
cách của người quân tử. Chẳng hạn: 
TẠP CHÍ KHOA HỌC − SỐ 7/2016 73 
“Trúc Tưởng Hủ nên thêm tiết cứng, 
Mai Lâm Bô đâm được câu thần” 
 (Quốc âm thi tập, Tự thán – Bài 11) 
Với việc sử dụng hai điển cố văn học: “trúc Tưởng Hủ” và “mai Lâm Bô” Nguyễn 
Trãi nhằm so sánh với khí phách, phẩm tiết trong sạch, cao thượng của người quân tử, mà 
cụ thể ở đây là thể hiện niềm tâm sự của nhà thơ. Nhà thơ ví khí phách của mình cứng như 
“trúc Tưởng Hủ”, phẩm chất của mình trong sáng như “mai Lâm Bô”. Lâm Bô là nhà thơ 
đời Bắc Tống được gọi là “Tây Hồ ẩn sĩ”. Bức tranh thiên nhiên bốn mùa trong Quốc âm 
thi tập của Nguyễn Trãi và Bạch Vân quốc ngữ thi tập của Nguyễn Bỉnh Khiêm rất đa 
dạng và phong phú với những hình ảnh sinh động, gần gũi với con người. Đúng như Xuân 
Diệu từng nói: “Lòng yêu thiên nhiên, tạo vật là kích thước để đo tâm hồn”. 
Thông qua biểu tượng các loài cây, Nguyễn Trãi và Nguyễn Bỉnh Khiêm muốn gửi 
gắm tâm sự khát vọng của mình vào đó. Các nhà thơ lấy những hình ảnh các loài cây mang 
tính chất ước lệ của văn học trung đại như tùng, cúc, trúc, mai..., làm phương tiện biểu đạt 
tiêu biểu cho người quân tử trong thơ Nôm của mình. Quan niệm này dựa trên một thực tế: 
trong ngày đông tháng giá, các loại cây khác đều rụng lá, trơ cành thì tùng, trúc vẫn xanh, 
còn mai vẫn bung nở những cánh hoa. 
2.2. Nghệ thuật xây dựng các biểu tượng thiên nhiên trong Quốc âm thi tập và 
Bạch Vân quốc ngữ thi tập 
2.2.1. Sử dụng nguyên vẹn khái niệm, hình ảnh chỉ biểu tượng vào sáng tác thơ Nôm 
Trong thơ Nôm Nguyễn Trãi và Nguyễn Bỉnh Khiêm, những khái niệm chỉ biểu tượng 
được hai tác giả đưa vào sử dụng trong sáng tác rất phong phú. Đặc biệt là các biểu tượng 
thiên nhiên cây hoa như: tùng, cúc, trúc, mai,... Những biểu tượng đó được ông miêu tả từ 
nhiều góc độ khác nhau nhưng chúng đều chung là chỉ người quân tử. Nếu so sánh những 
biểu tượng đó với văn học dân gian, chúng ta thấy hình tượng đào, mận, trúc, mai có một 
nội dung biểu đạt khác hẳn: đó là nói về quan hệ nam nữ, về tình yêu lứa đôi:“Cúc mai 
trồng lộn một bồn/ Hai đứa mình chồng vợ, ai đồn mặc ai” 
Điều đó chứng tỏ mỗi phong cách - văn học bác học và văn học dân gian - có cách xây 
dựng hệ thống biểu tượng nghệ thuật riêng. Văn học dân gian xây dựng biểu tượng trên cơ 
sở những liên tưởng cụ thể, gần gũi - sự vật hiện tượng quen thuộc, thân mật với nhau 
trong cuộc sống. Ngược lại văn chương bác học xây dựng biểu tượng nghệ thuật trên cơ sở 
những liên tưởng chú ý đến tính cao cả, phẩm chất đặc biệt của sự vật, hiện tượng. Những 
biểu tượng tùng, cúc, trúc, mai là những ước lệ nghệ thuật có sẵn trong tư tưởng thời đại. 
Ức Trai và Tuyết Giang phu tử vận dụng một cách sáng tạo và tài tình những biểu tượng 
74 TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ ĐÔ H NỘI 
nghệ thuật đó vào trong sáng tác của mình, tạo thành giá trị thẩm mỹ trong thơ Nôm của 
họ. Ngoài ra, chúng ta còn thấy trong thơ Nôm Nguyễn Trãi thường kết hợp một số biểu 
tượng thành từng cặp để tạo ra sự đối lập về ý và hiện tượng đối ngẫu trong hình thức câu 
thơ: hoa đối lập với cỏ; một mình đối lập với ba đông; xanh đối lập với trắng, hoặc với 
đỏ”. Chẳng hạn như các cặp đối lập: 
“Phượng những tiếc cao diều hay liệng, 
Hoa thường hay héo, cỏ thường tươi” 
 (Quốc âm thi tập, Tự thuật – Bài 9) 
Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng ưa sử dụng các cặp biểu tượng thiên nhiên đối lập để làm 
nổi bật chủ đề. Đó là các cặp phạm trù : “cửa mận - am hoa”, “đường thông nhà trúc - cửa 
mận tường đào”... 
“Nhà thông đường trúc lòng hằng mến 
Cửa mận tường đào biếng ngại chen” 
 (Bạch Vân quốc ngữ thi tập – Bài 51) 
Đó là sự đề cao lối sống thanh nhàn, trong sạch, phê phán tư tưởng chạy theo danh lợi 
phú quý, vinh hoa của người đời. Nguyễn Bỉnh Khiêm với cái nhìn của bậc triết gia, đã 
chiêm nghiệm và rút ra những vấn đề về thế thái nhân tình. 
2.2.2. Sử dụng từ ngữ đi kèm 
Đứng trước biểu tượng trăng trong thơ Nôm Nguyễn Trãi phần lớn là các động từ như: 
thưởng (nguyệt), hớp (nguyệt), đạp (nguyệt), hỏi (nguyệt), soi (nguyệt), đeo (nguyệt), chở 
(nguyệt), lồng (nguyệt), thức (trăng), quẩy (trăng),..”. Ta cũng bắt gặp hiện tượng này 
trong thơ Nôm Nguyễn Bỉnh Khiêm, khi tác giả kết hợp “nguyệt” với một động từ phía 
trước: cuốc (nguyệt), chở (nguyệt), đợi (nguyệt), thấy (nguyệt), in (nguyệt), dưỡng 
(nguyệt). Hình ảnh đó còn có sự kết hợp với các danh từ đứng trước nó, bao gồm: đêm 
(nguyệt), nhật (nguyệt), hoa (nguyệt), lầu (nguyệt), nguyệt (nguyệt), phong (nguyệt), cối 
(nguyệt), cửa (trăng), bóng (trăng),... Trong Bạch Vân quốc ngữ thi tập cũng là danh từ đi 
cùng với “nguyệt”: hiên (nguyệt), phong (nguyệt), lòng (nguyệt), vừng (nguyệt), nhật 
(nguyệt), búa (nguyệt), thu (nguyệt), khách (nguyệt),... Hình ảnh trăng có khi lại có sự kết 
hợp với tính từ: minh (nguyệt), với số từ: một (nguyệt),...” và nguyệt một vừng trong Bạch 
Vân quốc ngữ thi tập. Tất cả những sự kết hợp đó làm cho biểu tượng trăng trong thơ Nôm 
của Ức Trai và Tuyết Giang phu tử có dáng vẻ riêng, được cá thể hóa chứ không còn tính 
chất chung như biểu tượng trăng trong ca dao. 
Có sự tương đồng về nghệ thuật xây dựng biểu tượng là bởi Nguyễn Trãi và Nguyễn 
Bỉnh Khiêm cùng hít thở bầu khí quyển của văn hóa thời trung đại. Ở đó, con người được 
TẠP CHÍ KHOA HỌC − SỐ 7/2016 75 
coi là khách thể, con người phi ngã, con người trong thế đối sánh với thiên nhiên. Trước 
thiên nhiên tạo vật, họ trải lòng mình ra, họ day dứt về cuộc đời, họ khao khát hòa nhập 
vào vũ trụ vĩnh hằng. Nguyễn Trãi chủ yếu ảnh hưởng tư tưởng của Lão Tử, ít đề cập đến 
tư tưởng của Trang Tử - những vấn đề thần bí. Con đường đến với tư tưởng Đạo giáo của 
Nguyễn Trãi rất tự nhiên mà sâu sắc, thể hiện rất rõ trong tập thơ Nôm của ông. Nguyễn 
Trãi vận dụng triết lý sống “vô vi”, thuận theo tự nhiên của Lão Tử. Nguyễn Bỉnh Khiêm 
có vốn hiểu biết phong phú nhờ am tường nhiều sách vở. Suốt thời trẻ, ông đứng ngoài 
vòng công danh để suy xét, chiêm nghiệm về cuộc đời. Đó là quãng thời gian để ông miệt 
mài đọc đủ các sách thánh hiền, thâu thái nhiều học thuyết, tư tưởng Nho – Phật – Đạo. 
Học vấn uyên thâm giúp ông hiểu thấu mọi lẽ đời, nắm được sự biến dịch của vạn vật, 
những quy luật tất yếu của tự nhiên. 
Ở nước ta thế kỉ XVI, Nho giáo được chia thành hai hướng nghiên cứu: học nghĩa lý 
và học từ chương. Học từ chương là học sách vở thánh hiền để đáp ứng con đường khoa 
cử. Thứ hai là học nghĩa lý tức là đi sâu vào lý học, đạo học nhằm mục đích tìm ra bản thể 
luận, nhận thức luận để vận dụng vào thời cuộc giúp nước, giúp đời. Nguyễn Bỉnh Khiêm 
đã đi theo con đường thứ hai, thâm nhập vào đời sống để đúc kết những chân lí, vấn đề của 
thời đại. 
Những biểu tượng thiên nhiên trong thơ Nôm Nguyễn Trãi có tần số xuất hiện cao hơn 
trong thơ Nôm của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Thời đại của Nguyễn Trãi khi sức mạnh ghê 
gớm, hủy diệt của đồng tiền chưa len lỏi vào từng ngõ hẹp nhất của cuộc sống thì con 
người sống giản dị, hồn hậu, gần gũi, chan hòa với thiên nhiên hơn là thời đại của Nguyễn 
Bỉnh Khiêm: “Người của lấy cân ta thử nhắc / Mới hay rằng của nặng hơn người”. 
Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng viết về cây tùng nhưng chỉ đơn thuần là biểu tượng thiên nhiên, 
còn Nguyễn Trãi miêu tả cây tùng gắn với chính cuộc đời con người Nguyễn Trãi : 
“Hổ phách phục linh nhìn mới biết 
Dành còn để trợ dân này” 
 (Quốc âm thi tập – Tùng) 
Nguyễn Trãi không đơn thuần vịnh cây tùng dù đứng trước sương gió và khắc nghiệt 
của thời tiết cũng không gục ngã như phẩm chất thanh cao, trong sạch của Nguyễn Trãi 
giữa chốn triều quan hiểm hóc vẫn vững vàng, không lay chuyển. 
3. KẾT LUẬN 
Việc sử dụng thành công, sáng tạo những biểu tượng nghệ thuật thiên nhiên khiến cho 
các bài thơ trong Quốc âm thi tập và Bạch Vân quốc ngữ thi tập rất giàu hình ảnh và giá trị 
76 TRƯỜNG ĐẠI HỌC THỦ ĐÔ H NỘI 
biểu đạt, vừa dân gian lại vừa bác học. Hai tác giả đã sử dụng hệ thống điển cố, điển tích, 
ước lệ tượng trưng làm cho những biểu tượng thiên nhiên trở nên cân đối, hài hòa, tao nhã. 
Phải là những tâm hồn rung động mãnh liệt trước cái đẹp của tạo hóa, đập chung những 
nhịp đập của cuộc sống thì các thi sĩ mới có thể sáng tạo nên những biểu tượng thiên nhiên 
giàu giá trị biểu đạt và sinh động đến thế. Thiên nhiên là đối tượng đồng thời cũng là chủ 
thể để chiếm lĩnh thế giới khách quan và chủ quan. Qua thiên nhiên, hai tác giả bộc lộ cốt 
cách thanh cao, sống lánh đục về trong để di dưỡng tinh thần, làm giàu có thêm tâm hồn 
mình. Nghiên cứu thế giới biểu tượng trong hai tập thơ từ góc nhìn văn hóa là một hướng 
đi mới giúp chúng ta có thể khám phá tầng sâu nhất của thơ Nôm Nguyễn Trãi và Nguyễn 
Bỉnh Khiêm. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Trần Trọng Dương (2014), Nguyễn Trãi quốc âm từ điển, Nxb Từ điển Bách khoa. 
2. Jean Chevalier - Alain Gheerbrant (2002), Từ điển biểu tượng văn hóa thế giới, Nxb Đà Nẵng. 
3. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (đồng chủ biên) (2007), Từ điển thuật ngữ văn 
học, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 
4. Lê Thị Hương (2008), Bạch Vân Quốc Ngữ Thi tập: Đặc điểm nội dung và nghệ thuật, 
Luận án Tiến sĩ Văn học, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội. 
5. Bùi Văn Nguyên(1989), Thơ văn Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 
6. Nguyễn Trãi toàn tập (1976), Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội. 
7. Nguyễn Hữu Sơn (tuyển chọn) (2003), Nguyễn Trãi về tác gia và tác phẩm, Nxb Giáo dục 
Việt Nam, Hà Nội. 
8. Trần Ngọc Thêm (1997), Tìm về bản sắc văn hoá, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh. 
9. Lã Nhâm Thìn (2001), Thơ Nôm Đường luật, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 
10. Trần Nho Thìn (2007), Văn học trung đại Việt Nam dưới góc nhìn văn hóa, Nxb Giáo dục, 
Hà Nội. 
NATURAL SYMBOL IN “QUOC AM THI TAP” AND “BACH VAN 
QUOC NGU THI TAP” FROM CULTURE ASPECT 
Abstract: In this article, we focus on some natural symbols in “Quoc Am Thi Tap” and 
“Bach Van Quoc Ngu Thi Tap” by the following aspects: comparing the similarities and 
differences in the making of natural symbols through the author’s personality and era’s 
ideology in each anthology. 
Keywords: Quoc Am Thi Tap, Bach Van Quoc Ngu Thi Tap, natural symbol. 

File đính kèm:

  • pdfbieu_tuong_thien_nhien_trong_quoc_am_thi_tap_va_bach_van_quo.pdf