Tích hợp các đặc trưng đa dạng trong xây dựng mô hình định lượng về phân vùng cảnh quan: Trường hợp nghiên cứu tại huyện Văn Chấn, tỉnh Yên Bái
Phân vùng cảnh quan đóng vai trò quan trọng trong phân định đặc trưng bất đồng nhất của
lãnh thổ, cung cấp nền tảng không gian cơ bản cho hoạt động quy hoạch sử dụng tài nguyên thiên
nhiên và bảo vệ môi trường. Quá trình tích hợp các độ đo độ đa dạng giúp tái hiện những thay đổi
về cấu trúc cảnh quan trên phương diện đặc trưng tính phong phú và đồng đều của lớp phủ sử dụng
đất. Trong nghiên cứu này, mô hình định lượng trong phân vùng được xây dựng từ quá trình tích
hợp ba nhóm thông tin (nhóm các yếu tố thuộc tính, nhóm các yếu tố động lực và nhóm các yếu tố
đa dạng) của các đơn vị cảnh quan cơ sở. Trên cơ sở phân tích phân cụm k-mean, nghiên cứu tiến
hành thực hiện phân thành 06 tiểu vùng từ dữ liệu định lượng của 68 tiểu lưu vực trong lãnh thổ
hành chính huyện Văn Chấn, tỉnh Yên Bái. Từ quá trình so sánh số lượng tiểu vùng về mặt thống
kê và thực tiễn, nghiên cứu đã tiến hành hiệu chỉnh và xác định 15 tiểu vùng tối ưu, giảm đáng kể
tính chủ quan trong quá trình phân vùng cảnh quan.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Tóm tắt nội dung tài liệu: Tích hợp các đặc trưng đa dạng trong xây dựng mô hình định lượng về phân vùng cảnh quan: Trường hợp nghiên cứu tại huyện Văn Chấn, tỉnh Yên Bái
VNU Journal of Science: Earth and Environmental Sciences, Vol. 36, No. 3 (2020) 1-11 1 Original Article Intergrating the Diversity Characteristics to Design a Quantitative Landscape Regionalization Framework: Case Study of Van Chan District, Yen Bai Province Pham Minh Tam1, , Pham Hoang Hai2, Nguyen Cao Huan1, Pham Thu Thuy3 1Faculty of Geography, Vietnam University of Science, Hanoi, 34 Nguyen Trai, Hanoi, Vietnam 2Institute of Geography, Vietnam Academy of Science and Technology (VAST), 18 Hoang Quoc Viet, Hanoi, Vietnam 3Science and Technology Department, Vietnam National University, Hanoi, 144 Xuan Thuy, Hanoi, Vietnam Received 08 August 2019 Revised 18 November 2019; Accepted 08 July 2020 Abstract: Landscape regionalization plays an important role in delineating the heterogeneous characteristics of territory, and provide the spatial fundamental data for natural resource planning and environmental protection activities. The integrating of the diversity indices (landscape metrics) is expressed the change of landscape structure by the richness and evenness of land-use objectives. In this study, a quantitative landscape regionalization framework is designed from 03 group (attribute factor, driving factor, and diversity factor) of basic landscape unit. By using k-means clustering, the study is classified into 06 sub-regions of 68 watersheds in the administration boundary of Van Chan district, Yen Bai province. With the comparison of region numbers in statistical and practical dimensions, the optimal results are edited and determined 15 sub-regions for uncertainty reduction of landscape regionalization. Keywords: regionalization, quantitative modeling, landscape, diversity, cluster analysis, Van Chan. ________ Corresponding author. E-mail address: phamminhtam1989@gmail.com https://doi.org/10.25073/2588-1094/vnuees.4432 P.M. Tam et al. / VNU Journal of Science: Earth and Environmental Sciences, Vol. 36, No. 3 (2020) 1-11 2 Tích hợp các đặc trưng đa dạng trong xây dựng mô hình định lượng về phân vùng cảnh quan: Trường hợp nghiên cứu tại huyện Văn Chấn, tỉnh Yên Bái Phạm Minh Tâm1,*, Phạm Hoàng Hải2, Nguyễn Cao Huần1, Phạm Thu Thủy3 1Khoa Địa lý, Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, ĐHQGHN, 334 Nguyễn Trãi, Hà Nội, Việt Nam 2Viện Địa lý, Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam (VAST), 18 Hoàng Quốc Việt, Hà Nội, Việt Nam 3Ban Khoa học và Công nghệ, Đại học Quốc gia Hà Nội, 144 Xuân Thủy, Hà Nội, Việt Nam Nhận ngày 08 tháng 8 năm 2019 Chỉnh sửa ngày 18 tháng 11 năm 2019; Chấp nhận đăng ngày 08 tháng 7 năm 2020 Tóm tắt: Phân vùng cảnh quan đóng vai trò quan trọng trong phân định đặc trưng bất đồng nhất của lãnh thổ, cung cấp nền tảng không gian cơ bản cho hoạt động quy hoạch sử dụng tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường. Quá trình tích hợp các độ đo độ đa dạng giúp tái hiện những thay đổi về cấu trúc cảnh quan trên phương diện đặc trưng tính phong phú và đồng đều của lớp phủ sử dụng đất. Trong nghiên cứu này, mô hình định lượng trong phân vùng được xây dựng từ quá trình tích hợp ba nhóm thông tin (nhóm các yếu tố thuộc tính, nhóm các yếu tố động lực và nhóm các yếu tố đa dạng) của các đơn vị cảnh quan cơ sở. Trên cơ sở phân tích phân cụm k-mean, nghiên cứu tiến hành thực hiện phân thành 06 tiểu vùng từ dữ liệu định lượng của 68 tiểu lưu vực trong lãnh thổ hành chính huyện Văn Chấn, tỉnh Yên Bái. Từ quá trình so sánh số lượng tiểu vùng về mặt thống kê và thực tiễn, nghiên cứu đã tiến hành hiệu chỉnh và xác định 15 tiểu vùng tối ưu, giảm đáng kể tính chủ quan trong quá trình phân vùng cảnh quan. Từ khóa: phân vùng, mô hình định lượng, cảnh quan, đa dạng, phân tích cụm, Văn Chấn. 1. Mở đầu Phân vùng là một tiến trình quan trọng trong phân tích dữ liệu địa lý đa thời gian [1], nhằm mô tả các đặc trưng bất đồng nhất về mặt không gian cũng như cơ chế phát sinh của chúng [2]. Ở quy mô cảnh quan, hầu hết các hiện tượng sinh thái và môi trường đều có thể phân định thành các khu vực đồng nhất tương đối về thuộc tính hay mối quan hệ không gian [3], trở thành nền tảng cơ bản cho quá trình giám sát, đánh giá, kiểm kê và quản lý tài nguyên môi trường [4]. Từ sự phát triển của phương thức và sự đa dạng ________ Tác giả liên hệ. Địa chỉ email: phamminhtam1989@gmail.com https://doi.org/10.25073/2588-1094/vnuees.4432 về mục tiêu phân vùng, hàng loạt ứng dụng tích hợp khả năng phân tích không gian đã được thực hiện như: bảo tồn đa dạng sinh học [5], kiểm soát chất lượng nước [6], phân tích biến đổi cảnh quan, hay đánh giá các giá trị chức năng phục vụ phát triển kinh tế xã hội [7]. Trong đó, các chỉ tiêu phân vùng cảnh quan được lựa chọn sao cho phù hợp với mục tiêu và đối tượng nghiên cứu [8], nhưng trong thực tiễn cần một số lượng dữ liệu không gian lớn và được giải đoán chi tiết [9]. Những dữ liệu thành phần này có thể gồm đặc trưng vùng sinh thái [10], thông tin môi trường [11], địa chất [12], khí hậu [13], hay một giả định P.M. Tam et al. / VNU Journal of Science: Earth and Environmental Sciences, Vol. 36, No. 3 (2020) 1-11 3 về mối liên kết giữa động lực thúc đẩy quá trình sinh thái và lớp phủ sử dụng đất [14]. Nhìn chung, các chỉ tiêu phân vùng này có thể phân loại thành hai nội dung chính là: thuộc tính (attributes) và yếu tố động lực (driving factors) [2]. Song, trong bối cảnh phát triển kinh tế - xã hội hiện nay, cảnh quan dưới góc độ tiếp cận từ lớp phủ sử dụng đất chứng kiến tốc độ thay đổi hết sức nhanh chóng, ảnh hưởng tới quá trình phân vùng phục vụ tổ chức lãnh thổ [15]. Điều này thúc đẩy quá trình tích hợp các đặc trưng phản ánh sự đa dạng cấu trúc cảnh quan vào tiến trình phân vùng; đặc biệt là trên phương diện phong phú và đồng đều [16]. Từ đó, cách tiếp cận hệ thống trong phân vùng cảnh quan nên được xây dựng từ tổng hòa ba nhóm chỉ tiêu trên (thuộc tính, động lực và tính đa dạng); trong ... ó tương quan tích cực với nhau; (ii) các chỉ tiêu này có tương quan nghịch đối với nhiệt độ trung bình năm (F1); (iii) chỉ tiêu phân cắt ngang (A3), chỉ số ẩm ướt của địa hình TWI (F4), chỉ số đồng đều Shannon-SHEI (D1) và chỉ số đa dạng Shannon-SHDI (D2) có tương quan tích cực với nhau, cũng như cùng tương quan nghịch với chỉ số thực vật có hiệu chỉnh ảnh hưởng của đất SAVI (F5). Dung tích bề mặt là yếu tố quan trọng nhất, giải thích tới 66.03% phương sai của nhóm chỉ tiêu thuộc tính. Điều này cho thấy mức độ tương đồng về dung tích sẽ ảnh hưởng rất lớn tới phạm vi và khả năng hình thành của các tiểu vùng cảnh quan. Trên cơ sở sử dụng phương pháp phân cụm k-means, quá trình lựa chọn giá trị nhóm tối ưu được thực hiện qua các phương diện sau: (i) Về mặt thống kê, giá trị k có thể xác định thông qua phương pháp Elbow và giá trị chỉ số phù hợp của Dale & Fortin (2014). Các giá trị này được biểu diễn chi tiết trong Hình 4. Theo đó, nếu dựa trên chỉ số phù hợp, k=4 là giá trị tối ưu thì phương pháp Elbow lựa chọn giá trị k=6 là tối ưu. (ii) Về mặt không gian và quan điểm phân vùng, số lượng các tiểu vùng cảnh quan sẽ tồn tại những khác biệt mà kết quả thống kê không thể đáp ứng được. Để các dữ liệu này phân tích trở nên có ý nghĩa, lãnh thổ thường được phân chia thành các vùng có đặc trưng đồng nhất hay có khả năng bị chi phối bởi một quá trình sinh thái chiếm ưu thế. Thông thường, quá trình này được xác định qua hai cách: (i) nhóm các đối tượng có vị trí liền kề có giá trị tương tự nhau thông qua quá trình phân cụm không gian (spatial clustering), (ii) phân chia các khu vực dựa trên mức độ khác nhau làm căn cứ để phân định ranh giới (boundary detection) [27]. Nếu về mặt lý thuyết, hai cách tiếp cận này đem lại kết quả phân vùng giống nhau. Nhưng phần lớn các kết quả không đạt được hiệu quả cao khi giá trị của các biến trong các đơn vị cơ sở không phân bố đồng đều trong không gian. Quá trình sử dụng phương pháp phân cụm k-means trong phân vùng cảnh quan hướng tới ưu tiên xác định giá trị số lượng cụm cần thiết để đạt được sự giống nhau về đặc trưng với giá trị sai lệch thấp nhất; cũng như giảm thiểu sự chủ quan trong hoạt động ra quyết định. Nhưng trên thực tiễn, cách tiếp cận này gặp phải một số khó khăn: (i) các vị trí lấy mẫu ngẫu nhiên đôi khi không thể mang tính đại diện cho đặc trưng của một đơn vị cảnh quan cơ sở; (ii) đòi hỏi kiến thức hoặc thông tin độc lập về dữ liệu sinh thái trên nhiều quy mô không gian và thời gian khác nhau nhằm tiên đoán được kết quả, làm tiền đề để đối sánh với thực tiễn; (iii) giá trị kiểm định chỉ có hiệu quả về mặt thống kê, tính thống nhất về ý nghĩa của các kết quả kiểm định thường thấp; (iv) mục tiêu phân vùng càng đạt được hiệu quả cao khi mức độ phân hóa càng chi tiết trong khi vẫn đảm bảo sai số thấp nhất; (v) các tiểu vùng thường phải nằm lân cận nhau. Điều này dẫn tới nghiên cứu lựa chọn k=6 là số lượng nhóm tối ưu. Hình 4. Kết quả phân vùng cảnh quan huyện Văn Chấn trên cơ sở phân cụm k-means với giá trị k=6 và biểu đồ chỉ số kiểm định giá trị tối ưu. P.M. Tam et al. / VNU Journal of Science: Earth and Environmental Sciences, Vol. 36, No. 3 (2020) 1-11 9 Ngoài ra, trên cơ sở phương pháp định lượng trong phân vùng cảnh quan, nghiên cứu tiến hành biên chỉnh kết quả về mặt thống kê sao cho phù hợp với yêu cầu phân vùng đã đề cập phía trên. Đồng thời, sự kết hợp của các thông tin cơ bản về đặc trưng thành tạo cảnh quan của khu vực nghiên cứu góp phần “chính xác hóa” kết quả nghiên cứu. Theo đó, kết quả phân vùng cảnh quan huyện Văn Chấn phục vụ mục đích khai thác và sử dụng hợp lý tài nguyên được điều chỉnh thành 15 tiểu vùng như sau: (i) Lưu vực sông Ngòi Hút: chỉ gồm tiểu vùng cảnh quan I và II nằm trên địa bàn xã Tú Lệ và Nậm Búng, phía Tây Bắc của huyện; (ii) Lưu vực sông Ngòi Thia: gồm các tiểu vùng cảnh quan từ III – VIII nằm trong lòng thung lũng Nghĩa Lộ; (iii) Lưu vực sông Ngòi Lao: gồm các tiểu vùng IX-XV nằm ở phía Nam của huyện (Hình 5 và Bảng 3). Bảng 3. Thống kê các đơn vị tiểu vùng cảnh quan khu vực huyện Văn Chấn, tỉnh Yên Bái Lưu vực sông Tiểu vùng (TV) cảnh quan và đơn vị cơ sở P h ân v ù n g cả n h q u an a. LVS Ngòi Hút TV I. (1, 2, 4), TV II. (3, 5, 6, 7, 8). b. LVS Ngòi Thia TV III. (9, 10, 11, 12, 15), TV IV. (13, 14), TV V. (17, 18, 19, 20, 25), TV VI. (24), TV VII. (23, 29, 36), TV VIII. (21, 22, 26, 27, 28, 30, 31, 32, 33, 34, 37). c. LVS Ngòi Lao TV IX. (38), TV X. (39, 40, 41, 43, 54, 55, 56, 57), TV XI. (51, 52, 53), TV XII. (42, 44, 45, 46, 49, 50, 58, 59, 61, 62, 63, 67, 68), TV XIII. (47, 48), TV XIV. (64), TV XV. (60, 65, 66). Hình 5. Kết quả phân vùng CQ sau hiệu chỉnh khu vực huyện Văn Chấn, tỉnh Yên Bái. P.M. Tam et al. / VNU Journal of Science: Earth and Environmental Sciences, Vol. 36, No. 3 (2020) 1-11 10 4. Kết luận và kiến nghị Phân vùng cảnh quan trên cơ sở tiếp cận định lượng là một phương thức phân loại đối tượng không gian rất hiệu quả trong nghiên cứu sinh thái cảnh quan và môi trường. Trên cơ sở tích hợp thêm nhóm yếu tố tính đa dạng, mô hình lý thuyết trong phân vùng cảnh quan đã mở rộng khả năng khai thác các độ đo định lượng và tối ưu hóa đặc trưng đồng nhất trong từng lớp thông tin/cấu trúc chuyên biệt của cảnh quan nhằm phân loại các nhóm lãnh thổ địa lý tự nhiên có tính đồng nhất. Căn cứ vào phương pháp phân cụm k-means và kiểm chứng về mặt thống kê, mô hình phân vùng cảnh quan đã lựa chọn giá trị tối ưu k=6 cho địa bàn huyện Văn Chấn, tỉnh Yên Bái. Đây là cơ sở khoa học quan trọng để tiến hành kết hợp với các quan điểm phân vùng khác nhằm khu biệt 15 tiểu vùng cảnh quan. Nhìn chung, cách tiếp cận này cho thấy khả năng tích hợp thông tin cấu trúc không gian trong sắp xếp và quy hoạch không gian; cũng như cho phép tinh chỉnh kết quả phân vùng theo mục tiêu và đối tượng nghiên cứu khác nhau. Tuy nhiên, hướng tiếp cận này cũng cần lưu ý một số điểm sau: (i) Quá trình lựa chọn các biến phân vùng cảnh quan phụ thuộc chặt chẽ ý kiến chuyên gia – đây là thuận lợi cũng là hạn chế của nghiên cứu; (ii) Quá trình phân cụm đã giảm đáng kể tính chủ quan trong xác định giá trị số lượng phân vùng tối ưu nhưng ranh giới trong không gian phụ thuộc “chặt chẽ” vào phương thức xác định các đơn vị không gian cơ sở; (iii) Khả năng “khái quát hóa” thông tin trên một phạm vi lớn đem lại lợi thế nhất định, nhưng giảm khả năng phân định ranh giới một cách chính xác nếu dữ liệu trong từng đơn vị cơ sở thay đổi không theo quy luật không gian; (iv) Phương pháp phân cụm k-means trong không gian có thể sử dụng dữ liệu từ nhiều nguồn (định tính hoặc định lượng, đơn biến hoặc đa biến) với số lượng mẫu bất kỳ tuy không tạo ra các cụm bị trùng lặp nhưng đòi hỏi sự tương đồng về giá trị khi tạo ra các cụm ngẫu nhiên. Do đó, tiếp cận định lượng sẽ đem lại hiệu quả cao khi coi đây là một bước “tiền xử lý” trước khi tiến hành phân vùng cảnh quan. Tài liệu tham khảo [1] T. Ott, F. Swiaczny, Time-Integrative Geographic Information Systems: Management and Analysis of Spatio-Temporal Data, Springer-Verlag Berlin Heidelberg Publisher, 2001, 234 pages. [2] C. Xu, Sh. Sheng, T. Chi, X. Yang, S. An, M. Liu, Developing a quantitative landscape regionalization framework integrating driving factors and response attributes of landscapes, Landscape and Ecological Engineering, Volume 10, Issue 2, 2014, pp. 295–307. https://doi.org/10. 1007/s11355-013-0225-8. [3] M.G. Turner, Spatial and temporal analysis of landscape patterns, Landscape Ecology, Volume 4, Issue 1, 1990, pp. 21-30. https://doi.org/10.10 07/ BF02573948 [4] G.P. Robertson, L.W. Burger, C.L. Kling, R.R. Lowrance, D.J. Mulla, Methods for Environmental Management Research at Landscape and Watershed Scales. Managing Agricultural Landscapes for Environmental Quality, Journal of Soil and Water Conservation Society, Ankeny, IA., 2007, 196 pages. [5] R.P. Powers, N.C. Coops, J.L. Morgan, M.A. Wulder, T.A. Nelson, C.R. Drever, S.G. Cumming, A remote sensing approach to biodiversity assessment and regionalization of the Canadian boreal forest, Progress in Physical Geography: Earth and Environment, Volume 37, Issues 1, 2013, pp. 36–62. https://doi.org/10.1177/0309133 312457405. [6] M.A. Solans, A. Mellado‐Díaz, A Landscape‐ Based Regionalization of Natural Flow Regimes in the Ebro River Basin and Its Biological Validation, River Research and Applications 31, 2015, pp. 457- 469. https://doi.org/10.1002/rra.2860. [7] B. Martín-López, I. Palomo, M. García-Llorente, I. Iniesta-Arandia, A.J. Castro, D.G.D. Amo, E. Gómez-Baggethun, C. Montes, Delineating boundaries of social ecological systems for landscape planning: A comprehensive spatial approach, Land Use Policy, Volume 66, 2017, pp. 90-104. https://doi.org/10.1016/j.landusepol.2017. 04.040. [8] G. McMahon, E. Wiken, D. Gauthier, Toward a Scientifically Rigorous Basis for Developing Mapped Ecological Regions, Environmental Management, Volume 34, Supplement 1, 2004, pp. S111–S124. https://doi.org/10.1007/s00267-004- 0170-2. [9] T.F. Stepinski, J. Niesterowicz, J. Jasiewicz, Pattern-based Regionalization of Large Geospatial P.M. Tam et al. / VNU Journal of Science: Earth and Environmental Sciences, Vol. 36, No. 3 (2020) 1-11 11 Datasets Using Complex Object-based Image Analysis, Procedia Computer Science, Volume 51, 2015, pp. 2168-2177. https://doi.org/10.1016/j. procs.2015.05.491. [10] Y. Liu, B. Fu, Sh. Wang, W. Zhao, Global ecological regionalization: from biogeography to ecosystem services, Current Opinion in Environmental Sustainability, Volume 33, 2018, pp. 1-8. https://doi.org/10.1016/j.cosust.2018. 02.002. [11] B.J. Amiri, G. Junfeng, N. Fohrer, F. Mueller, J. Adamowski, Regionalizing Flood Magnitudes using Landscape Structural Patterns of Catchments, Water Resources Management, Volume 32, Issue 7, 2018, pp. 2385-2403. https://doi.org/10.1007/s11269-018-1935-3. [12] J.J. Starn, K. Belitz, Regionalization of groundwater residence time using metamodeling, Water Resources Research 54, 2018, pp. 6357- 6373. https://doi.org/10.1029/2017WR021531. [13] M. Gao, X. Chen, J. Liu, Z. Zhang, Regionalization of annual runoff characteristics and its indication of co-dependence among hydro-climate–landscape factors in Jinghe River Basin, China, Stochastic Environmental Research and Risk Assessment, Volume 32, Issue 6, 2018, pp. 1613-1630. https://doi.org/10.1007/s00477-017-1494-9. [14] W. Cao, S. Zhou, S. Wu, Land-use regionalization based on landscape pattern indices using rough set theory and catastrophe progression method, Environmental Earth Sciences, Volume 73, Issue 4, 2015, pp. 1611-1620. https://doi.org/10.1007/s 12665-014-3511-3. [15] R. Wang, H. Yang, Landscape Regionalization for Highway Corridor Planning from Landscape Ecology Perspective: A Case Study of Shandong, China, 2018 International Conference on Sensing, Diagnostics, Prognostics, and Control (SDPC), China, 2018, pp. 503-508. [16] K. McGarigal, S. A. Cushman, E. Ene, FRAGSTATS v4: Spatial Pattern Analysis Program for Categorical and Continuous Maps. Computer software program produced by the authors at the University of Massachusetts, Amherst, 2012. [17] W.W. Hargrove, F.M. Hoffman, Potential of multivariate quantitative methods for delineation and visualization of ecoregions, Environmental Management 34 (Suppl. 1), 2004, pp. S39-S60. https://doi.org/10.1007/s00267-003-1084-0. [18] S. Ragettli, J. Zhou, H. Wang, Assessment of parameter regionalization methods for modeling flash floods in China, Geophysical Research Abstracts, Vol. 19, EGU2017-8018, 2017. [19] G.H. Shah, A.N.S. Badana, C. Robb, W.C. Livingood, Cross-Jurisdictional Resource Sharing in Changing Public Health Landscape: Contributory Factors and Theoretical Explanations, Journal of Public Health Management and Practice, Volume 22, Number 2, 2016, pp. 110-119. https://doi.org/10.1097/PHH. 0000000000000368. [20] J. Niesterowicz, T.F. Stepinski, On using landscape metrics for landscape similarity search, Ecological Indicators, Volume 64, 2016, pp. 20-30. https://doi.org/10.1016/j.ecolind.2015.12.027. [21] O. Hall, W. Arnberg, A method for landscape regionalization based on fuzzy membership signatures, Landscape and Urban Planning 59, 2002, pp. 227-240. https://doi.org/10.1016/S0169- 2046(02)00050-6. [22] K.H. Riitters, J.D. Wickham, T.G. Wade, Evaluating anthropogenic risk of grassland and forest habitat degradation using landcover data. Landscape Online 13, 2009, pp. 1–14. https://doi.org/10.3097/LO.200913. [23] D.R. Grafius, R. Corstanje, J.A. Harris, Linking ecosystem services, urban form and green space configuration using multivariate landscape metric analysis, Landscape Ecology, 2018, Volume 33, Issue 4, pp. 557–573. https://doi.org/10.1007/s 10980-018-0618-z. [24] M.J. Todd, P.J. Wigington, E.A. Sproles, Hydrologic Landscape Classification to Estimate Bristol Bay, Alaska Watershed Hydrology. Journal of the American Water Resources Association (JAWRA) 53 (5), 2017, pp. 1008‐ 1031. https://doi.org/10.1111/1752-1688.12544. [25] B. Choubin, K. Solaimani, M. Habibnejad Roshan, A. Malekian, Watershed classification by remote sensing indices: A fuzzy c-means clustering approach, Journal of Mountain Science, Volume 14, Issue 10, 2017, pp. 2053-2063. https://doi.org/ 10.1007/s11629-017-4357-4. [26] L. Kaufman, P.J. Rousseeuw, Finding groups in data, Wiley, New York, 1990, 342 pages. [27] M. Dale, M. Fortin, Spatial Analysis: A Guide for Ecologists, Cambridge University Press. 438 pages.
File đính kèm:
- tich_hop_cac_dac_trung_da_dang_trong_xay_dung_mo_hinh_dinh_l.pdf