Nghiên cứu sử dụng sóng địa chấn trong định hướng cho các trạm địa chấn dưới đáy biển

Việc định hướng cho các thiết bị địa chấn đáy biển OBS (Ocean - Bottom

Seismograph) là một nhiệm vụ rất quan trọng, cần được hoàn thiện để có

thể sử dụng được các số liệu này. Khi xác định đúng phương hướng của các

thiết bị này, ta có thể xoay hiệu chỉnh hệ tọa độ giúp thu được các tín hiệu

địa chấn có biên độ lớn nhất cho các loại sóng địa chấn khác nhau. Trong bài

báo này nhóm tác giả trình bày phương pháp sử dụng sóng địa chấn để xác

định phương hướng cho các trạm địa chấn đáy biển OBS. Các kết quả thu

được từ 11 trạm địa chấn đáy biển ở Biển Đông cho thấy toàn bộ các trạm

này đều bị sai hướng với các góc khác nhau. Phương pháp này có nhiều ưu

điểm với độ tin cậy cao. Trên cơ sở các kết quả đạt được cho thấy phương

pháp này có thể áp dụng rộng rãi cho tất cả các thiết bị địa chấn đáy biển

OBS ở các vùng biển khác nhau

Nghiên cứu sử dụng sóng địa chấn trong định hướng cho các trạm địa chấn dưới đáy biển trang 1

Trang 1

Nghiên cứu sử dụng sóng địa chấn trong định hướng cho các trạm địa chấn dưới đáy biển trang 2

Trang 2

Nghiên cứu sử dụng sóng địa chấn trong định hướng cho các trạm địa chấn dưới đáy biển trang 3

Trang 3

Nghiên cứu sử dụng sóng địa chấn trong định hướng cho các trạm địa chấn dưới đáy biển trang 4

Trang 4

Nghiên cứu sử dụng sóng địa chấn trong định hướng cho các trạm địa chấn dưới đáy biển trang 5

Trang 5

Nghiên cứu sử dụng sóng địa chấn trong định hướng cho các trạm địa chấn dưới đáy biển trang 6

Trang 6

Nghiên cứu sử dụng sóng địa chấn trong định hướng cho các trạm địa chấn dưới đáy biển trang 7

Trang 7

Nghiên cứu sử dụng sóng địa chấn trong định hướng cho các trạm địa chấn dưới đáy biển trang 8

Trang 8

pdf 8 trang viethung 4080
Bạn đang xem tài liệu "Nghiên cứu sử dụng sóng địa chấn trong định hướng cho các trạm địa chấn dưới đáy biển", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Nghiên cứu sử dụng sóng địa chấn trong định hướng cho các trạm địa chấn dưới đáy biển

Nghiên cứu sử dụng sóng địa chấn trong định hướng cho các trạm địa chấn dưới đáy biển
 Journal of Mining and Earth Sciences Vol. 62, Issue 2 (2021) 79-86 79 
Research using seismic waves for orientation of the 
Ocean - Bottom Seismographs 
Hung Danh Tran 1,*, Huong Thien Phan 1, Ting Yang 2 
1 Department of Geophysics, Hanoi University of Mining and Geology, Vietnam 
2 Department of Ocean Science and Engineering, Southern University of Science and Technology, China 
ARTICLE INFO 
ABSTRACT 
Article history: 
Received 18th Jan. 2021 
Accepted 09th Mar. 2021 
Available online 30th Apr. 2021 
 Orientation of the Ocean-Bottom Seismograph (OBS) devices is an 
important task that must complete before using these data. While the OBS 
direction is determined correctly, we can correct the rotation angle of the 
coordinate system so that we obtain the maximum amplitude seismic 
signals for different seismic waves. In this article, we present the method 
using seismic waves to determine the direction of the OBS. The results 
obtained from 11 OBSs in the East Sea show that these stations have 
misdirected from different angles. This method has advantage with high 
reliability. Specially, we can widely apply for the OBS devices in other 
oceans. 
Copyright © 2021 Hanoi University of Mining and Geology. All rights reserved. 
Keywords: 
East Sea, 
OBS devices, 
OBS orientation, 
Ocean - Bottom Seismograph. 
_____________________ 
*Corresponding author 
E - mail: trandanhhung@humg.edu.vn 
DOI: 10.46326/JMES.2021.62(2).08 
80 Tạp chí Khoa học Kỹ thuật Mỏ - Địa chất Tập 62, Kỳ 2 (2021) 79-86 
Nghiê n cứu sử dụng sóng địa chấn trong định hướng cho các 
trạm địa chấn dưới đáy biển 
Trần Danh Hùng 1,*, Phan Thiên Hương 2, Ting Yang 2 
1 Bộ môn Địa vật lý, Trường Đại học Mỏ - Địa chất, Việt Nam 
2 Bộ môn Khoa học và Kỹ thuật biển, Trường Đại học Khoa học và Công nghệ Phương Nam, Trung Quốc 
THÔNG TIN BÀI BÁO 
TÓM TẮT 
Quá trình: 
Nhận bài 18/01/2021 
Chấp nhận 09/3/2021 
Đăng online 30/4/2021 
 Việc định hướng cho các thiết bị địa chấn đáy biển OBS (Ocean - Bottom 
Seismograph) là một nhiệm vụ rất quan trọng, cần được hoàn thiện để có 
thể sử dụng được các số liệu này. Khi xác định đúng phương hướng của các 
thiết bị này, ta có thể xoay hiệu chỉnh hệ tọa độ giúp thu được các tín hiệu 
địa chấn có biên độ lớn nhất cho các loại sóng địa chấn khác nhau. Trong bài 
báo này nhóm tác giả trình bày phương pháp sử dụng sóng địa chấn để xác 
định phương hướng cho các trạm địa chấn đáy biển OBS. Các kết quả thu 
được từ 11 trạm địa chấn đáy biển ở Biển Đông cho thấy toàn bộ các trạm 
này đều bị sai hướng với các góc khác nhau. Phương pháp này có nhiều ưu 
điểm với độ tin cậy cao. Trên cơ sở các kết quả đạt được cho thấy phương 
pháp này có thể áp dụng rộng rãi cho tất cả các thiết bị địa chấn đáy biển 
OBS ở các vùng biển khác nhau. 
© 2021 Trường Đại học Mỏ - Địa chất. Tất cả các quyền được bảo đảm. 
Từ khóa: 
Biển Đông, 
Định hướng trạm địa 
chấn, 
Thiết bị OBS, 
Trạm địa chấn đáy biển. 
1. Mở đầu 
Ba thành phần trục tọa độ của trạm địa chấn 
bất kỳ đều đòi hỏi phải được lắp đặt theo các 
hướng quy định của hệ tọa độ đã định trước như: 
trục X theo hướng đông, trục Y thêo hướng bắc và 
trục Z thêo phương thẳng đứng. Đối với công tác 
lắp đặt các trạm địa chấn trên đất liền thì công việc 
định hướng cho thiết bị chủ yếu dựa vào việc sử 
dụng la bàn/địa bàn. Tuy nhiên, đối với việc định 
hướng cho các trạm địa chấn dưới đáy biển OBS 
(Ocean - Bottom Seismograph) thì việc định 
hướng lại vô cùng khó khăn. Vì vậy, khi triển khai 
thực địa trên biển thì các thiết bị này được thả rơi 
tự do xuống đáy biển mà không thể định hướng 
trước đó và cũng không biết thiết bị đã quay thêo 
hướng nào? Mặt khác, khi thiết bị ở dưới đáy đại 
dương sâu vài nghìn mét thì việc định hướng 
trong điều kiện này là rất khó khăn và gần như 
không thể tiến hành. 
Việc xác định sai hướng của trạm OBS ảnh 
hưởng lớn đến các nghiên cứu đòi hỏi sử dụng cả 
3 thành phần của các tài liệu địa chấn này. Cụ thể 
thêo các hướng khác nhau thì vận tốc các sóng địa 
chấn truyền đến máy thu cũng khác nhau và mỗi 
loại sóng địa chấn có phương thức lan truyền khác 
nhau gây sai lệch việc nhận dạng và xác định đúng 
thời gian sóng đến, dẫn tới việc xác định sai vận 
tốc truyền sóng, sai vị trí của các chấn tâm,... 
_____________________ 
*Tác giả liên hệ 
E - mail: trandanhhung@humg.edu.vn 
DOI: 10.46326/JMES.2021.62(2).08 
 Trần Danh Hùng và nnk.,/Tạp chí Khoa học Kỹ thuật Mỏ - Địa chất 62(2), 79-86 81 
Biên độ thu được của các sóng địa chấn theo các 
hướng khác nhau cũng khác nhau, thậm chí không 
thu được tín hiệu mong muốn. Vì thế, đây là một 
trong những nhiệm vụ khó khăn đối với việc sử 
dụng số liệu của các trạm địa chấn đặt dưới đáy 
biển OBS. Xuất phát từ thực tế kể trên, việc nghiên 
cứu sử dụng sóng địa chấn để định hướng cho các 
OBS nhằm hiệu chỉnh những sai lệch về hướng của 
thiết bị là việc làm cần thiết và có ý nghĩa vô cùng 
to lớn, giảm chi phí trong quá trình thi công, triển 
khai thực địa khi thả thiết bị xuống biển. 
Ngày nay, các trạm địa chấn đáy biển được sử 
dụng một cách rộng rãi phục vụ các nghiên cứu 
cấu trúc sâu của trái đất. Số liệu địa chấn thu được 
từ các thiết bị địa chấn đáy biển cũng ngày càng 
phong phú, đa dạng, do có sự đầu tư để nghiên cứu 
cấu trúc sâu vỏ đại dương. Các thiết bị này cần 
phải được định hướng cho cả 3 thành phần X, Y, Z 
của trạm địa chấn. 
Trên thế giới việc sử dụng số liệu địa chấn từ 
các trạm OBS để nghiên cứu cấu trúc lớp vỏ đại 
dương và các ranh giới địa chất dưới sâu của trái 
đất đã được nghiên cứu từ khá sớm. Từ năm 1992, 
các nhà khoa học Pháp đã triển khai thành công 
các thử nghiệm lắp đặt các trạm OBS ở phía bắc 
Đại Tây Dương và được công bố trong công trình 
của Montagner và nnk. (1994). Năm 1995, tiếp tục 
có những thử nghiệm điện từ và chụp cắt lớp bởi 
các thiết bị địa chấn đáy biển được ghi liên tục 
trong vòng 7 tháng để nghiên cứu chi tiết cấu ... và nnk. 1993; Li và 
nnk., 2014) và các kết quả khoan của chương trình 
Khám phá Đại dương Quốc tế 349 cho thấy tốc độ 
tách giãn đáy Biển Đông thay đổi trong khoảng từ 
20÷80 mm/năm và trong giai đoạn khoảng từ 
35÷15,5 triệu năm để hình thành lớp vỏ đại dương 
với trục tách giãn thêo hướng gần Đông - Tây. 
Các kết quả của nghiên cứu này có ý nghĩa 
thực tiễn cao, có thể nói là lần đầu tiên được thực 
hiện ở nước ta. Mở ra hướng nghiên cứu mới 
trong tương lai, cho các trạm địa chấn đáy biển 
được lắp đặt ở Việt Nam. Các thiết bị OBS này có 
thể đặt dưới chiều sâu khoảng 4000÷5000 m đòi 
hỏi những yêu cầu kỹ thuật cao nên cần được quan 
tâm đầu tư một cách đúng mức trong thời gian tới. 
2. Phương pháp nghiên cứu và số liệu địa chấn 
2.1. Phương pháp định hướng dùng sóng địa 
chấn 
Trong nghiên cứu này nhóm tác giả sử dụng 
sóng mặt Raylêigh để định hướng cho các trạm địa 
chấn đáy biển. Sóng địa chấn Raylêigh đến từ các 
trận động đất được ghi lại ở cả 3 thành phần X, Y, 
Z của máy thu địa chấn, tuy nhiên biên độ của sóng 
Rayleigh có sự thay đổi thêo các hướng khác nhau. 
82 Trần Danh Hùng và nnk.,/Tạp chí Khoa học Kỹ thuật Mỏ - Địa chất 62(2), 79-86 
Cụ thể, thêo hướng sóng đến hay hướng xuyên 
tâm (Radial) thì sóng Raylêigh có biên độ đạt giá 
trị cực đại và giảm dần thêo các hướng xung 
quanh. Lợi dụng đặc điểm này của sóng Rayleigh 
mà Stachnik và nnk. (2012) đã sử dụng tính hàm 
tương quan liên kết giữa thành phần thẳng đứng 
Z và thành phần R, khi quay 2 thành phần nằm 
ngang X và Y thêo các hướng khác nhau, kết quả 
hàm tương quan này sẽ đạt giá trị cực đại khi một 
trong hai thành phần nằm ngang X và Y này trùng 
với hướng xuyên tâm của trận động đất theo công 
thức sau: 
𝐶𝑧𝑟 =
𝑆𝑧𝑟
√𝑆𝑧𝑧𝑆𝑟𝑟
(1) 
Với: 𝑆𝑗𝑘 = ∑ 𝑋𝑗
𝑁
𝜏=0 (𝜏)𝑌𝑘(𝜏) (2) 
Với Czr - hàm tương quan liên kết chuẩn hóa 
của 2 thành phần Z và R và sẽ có giá trị -1÷1; Szr - 
hàm tương quan liên kết khi có bước dịch bằng 
không (zero - lag) của 2 thành phần Z và R; Szz - 
hàm tự tương quan khi bước dịch bằng không (0) 
của thành phần Z; Srr - hàm tự tương quan khi 
bước dịch bằng không (0) của thành phần R; Xj() 
Yk() - các biến đổi Hilbert của 2 thành phần nằm 
ngang X và Y. 
Hai thành phần nằm ngang X và Y sẽ được 
xoay tất cả các hướng khác nhau theo chiều kim 
đồng hồ với bước xoay là 1 độ trong dải baz (back 
- azimuth) từ 0÷3600 (Hình 1). Khi 2 thành phần 
này xoay đúng hướng hướng xuyên tâm của trận 
động đất (Radial) và hướng tiếp tuyến 
(Transverse) thì giá trị hàm tương quan liên kết 
giữa 2 thành phần Z và R sẽ đạt giá trị cực đại. Điều 
đó có nghĩa là ta đã xác định được hướng xoay 
đúng của trạm địa chấn cũng như góc hiệu chỉnh  
của 2 thành phần nằm ngang X và Y theo công thức 
sau: 
 = seaz -  (3) 
Trong đó: X và Y - các thành phần Đông và Bắc 
của trạm địa chấn; E và N - các hướng Đông và Bắc 
địa lý;  - góc back - azimuth xác định được trên cơ 
sở sử dụng sóng địa chấn; seaz - góc back - 
azimuth của trạm địa chấn. Từ đó ta tiến hành hiệu 
chỉnh lại hướng của trạm địa chấn bằng cách xoay 
lại hướng của các thành phần X và Y của trạm cho 
trùng với hướng Đông và Bắc địa lý. 
2.2. Số liệu OBS 
Số liệu địa chấn đáy biển OBS sử dụng trong 
nghiên cứu này do Trường Đại học Khoa học và 
Công nghệ Phương Nam Trung Quốc cung cấp, 
trên cơ sở 2 đợt thử nghiệm triển khai các trạm 
OBS tại phía Đông trung tâm Biển Đông vào các 
năm 2012 và 2014 (Hình 2, Bảng 1). Tổng số 36 
trạm OBS được thả xuống đáy biển quanh vị trí đới 
tách giãn trung tâm Biển Đông. Trong số đó có 17 
trạm được trục vớt thành công với 11 trạm địa 
chấn là có số liệu chất lượng tốt để có thể sử dụng 
và 6 trạm có chất lượng tài liệu kém. Hầu hết các 
trạm OBS đặt dưới đáy biển với khoảng thời gian 
từ 7÷8 tháng, tuy nhiên có 3 trạm OBS chỉ thu 
được khoảng 3 tháng số liệu do ảnh hưởng của 
việc bị cạn kiệt năng lượng cũng như hỏng trong 
suốt quá trình vận hành (Liu và nnk., 2014; Le và 
nnk., 2018). Do ảnh hưởng của dòng chảy ngầm 
cũng như sự sụt lún không đều của địa hình đáy 
biển, dẫn tới các trạm địa chấn đáy biển có thể bị 
nghiêng đáng kể ảnh hưởng rất lớn đến chất 
lượng các băng ghi, có nhiều trường hợp biên độ 
của sóng địa chấn bị đảo ngược pha khi gặp góc 
nghiêng lớn (Hùng và nnk., 2019). 
Tập hợp các số liệu địa chấn sử dụng được 
chọn lọc các trận động đất ở các khoảng cách cách 
trạm địa chấn từ 20÷950 và đảm bảo có xuất hiện 
sóng mặt với biên độ đủ lớn thấy rõ trên băng địa 
chấn. Sau đó, mỗi trận động đất được xử lý với 
chiều dài 100 phút tính từ thời điểm xảy ra động 
đất. Các số liệu này sẽ được lọc tần số thông qua 
các bộ lọc dải với các tần số thay đổi trong khoảng 
Hình 1. Mô hình thể hiện phương pháp định hướng 
cho trạm địa chấn đáy biển OBS với: N, E - các 
hướng Bắc và Đông địa lý; Y, X - các thành phần 
Bắc và Đông của trạm địa chấn; hình ngôi sao - vị 
trí chấn tâm trận động đất;  - sai số giữa hướng 
Bắc của thiết bị và hướng Bắc địa lý  = seaz - ; 
seaz - góc back - azimuth của thiết bị;  - góc back - 
azimuth xác định trên cơ sở sử dụng sóng địa chấn. 
 Trần Danh Hùng và nnk.,/Tạp chí Khoa học Kỹ thuật Mỏ - Địa chất 62(2), 79-86 83 
từ 0,01÷0,1 Hz để đảm bảo tìm ra được dải tần số 
phù hợp, mà ở đó sóng mặt có biên độ cao nhất và 
tỉ số tín hiệu/nhiễu là lớn nhất. Sau đó các số liệu 
sẽ được sử dụng để chạy chương trình xác định 
góc xoay hiệu chỉnh hướng của trạm địa chấn OBS. 
Trong nghiên cứu này nhóm tác giả đã tiến
 hành lọc sóng sử dụng dải tần số 0,01÷0,1 Hz để 
thu được biên độ lớn nhất của sóng Rayleigh trên 
mỗi mạch địa chấn. Sau đó, tiến hành xác định thời 
gian đến của sóng Rayleigh sử dụng vận tốc 4 
km/s và khoảng cửa sổ thời gian dùng cho phân 
tích được lấy trước thời điểm sóng đến 30 s và sau 
thời điểm sóng đến là 600 s. 
Bảng 1. Kết quả xác định các góc quay để hiệu chỉnh hướng cho các trạm OBS tại khu vực Biển Đông. 
TT Tên trạm OBS Kinh độ (0) Vĩ độ (0) Chiều sâu (m) Hướng xoay  (0) 
Năm 2012 
1 HY01 117,0006 16,4054 - 4071 220 
2 HY02 116,3061 16,2033 - 3750 20 
3 HY08 117,7965 13,8004 - 4104 218 
4 HY10 116,9983 14,5989 - 4276 166 
5 HY15 117,5370 16,5033 - 3753 154 
6 HY16 118,2134 16,4513 - 3920 49 
7 HY17 118,8037 16,2010 - 3870 330 
8 HY18 119,2166 15,8003 - 4739 20 
Năm 2014 
9 B04 117,011 14,0243 - 4245,8 185 
10 B19 116,499 14,5006 - 4301,1 350 
11 B32 117,999 14,3965 - 3859,2 110 
Hình 2. Bản đồ địa hình đáy biển khu vực nghiên cứu tại Biển Đông với 11 trạm OBS là các tam giác màu đỏ 
với tên trạm được in đậm, các tam giác màu đen với tên trạm được in nghiêng là các trạm OBS bị mất hoặc 
số liệu có chất lượng kém. Hình tròn phía trên bên trái thể hiện vị trí của các trận động đất được sử dụng. 
84 Trần Danh Hùng và nnk.,/Tạp chí Khoa học Kỹ thuật Mỏ - Địa chất 62(2), 79-86 
3. Kết quả và thảo luận 
Các kết quả xác định hướng cho 11 trạm OBS 
trên vùng Biển Đông được đưa ra trong Hình 5 và 
Bảng 1 cho thấy, cả 11 trạm đều bị lệch hướng 
đáng kể so với hướng Bắc địa lý với các góc khác 
nhau. Sau khi tiến hành hiệu chỉnh sẽ thu được 
sóng Rayleigh xuất hiện trên thành phần xuyên 
tâm với biên độ cực đại. Trong khi đó biên độ của 
sóng Lovê đạt giá trị cực đại trên thành phần tiếp 
tuyến (Hình 4). 
Hình 3 thể hiện thành phần xuyên tâm với các 
góc xoay từ 0÷3600 cho thấy vị trí các sóng 
Rayleigh và sóng Love có biên độ thay đổi ứng với 
các góc xoay khác nhau. Có thể thấy, tại vị trí góc 
xoay 1500 (vị trí R) biên độ của sóng Love đạt giá 
trị nhỏ nhất và biên độ sóng Rayleigh đạt giá trị lớn 
nhất đó chính là vị trí của góc xoay hiệu chỉnh cần 
xác định. Trên thành phần tiếp tuyến ta sẽ thấy 
Hình 3. Hình ảnh sóng mặt Rayleigh (R) và Love (L) 
phân bố trên thành phần xuyên tâm Radial theo các 
góc xoay (các hướng) khác nhau của trạm địa chấn 
đáy biển HY15. 
Hình 4. Ba thành phần: thẳng đứng Z, xuyên tâm R và 
tiếp tuyến T của trạm địa chấn đáy biển HY15 tại vị 
trí góc xoay 1500 cho thấy sóng Rayleigh xuất hiện 
trên 2 thành phần thẳng đứng Z và xuyên tâm R, 
trong khi đó sóng Love lại xuất hiện trên thành phần 
tiếp tuyến T (hình dưới). 
Hình 5. Kết quả xác định góc quay hiệu chỉnh hướng cho các trạm địa chấn đáy biển B32, HY02, HY15 và HY17. 
 Trần Danh Hùng và nnk.,/Tạp chí Khoa học Kỹ thuật Mỏ - Địa chất 62(2), 79-86 85 
hình ảnh ngược lại. Các kết quả xác định góc xoay 
hiệu chỉnh tương ứng với các hệ số tương quan 
liên kết giữa Z và R thể hiện rất tốt, và có sự tương 
đồng theo tất cả các trận động đất được sử dụng, 
đặc biệt là những trận động đất mà có hệ số tương 
quan liên kết lớn. Để xác định góc hiệu chỉnh nhóm 
tác giả chỉ sử dụng những góc có hệ số tương quan 
lớn hơn 0,6. Các kết quả xác định hướng xoay hiệu 
chỉnh cho 11 trạm địa chấn ở khu vực Biển Đông 
được thể hiện trong Bảng 1. 
4. Kết luận 
Phương pháp sử dụng sóng địa chấn Rayleigh 
để xác định hướng cho các trạm địa chấn đáy biển 
OBS là rất có ý nghĩa, mở ra các hướng nghiên cứu 
tiếp thêo trong tương lai. Cụ thể trong thời gian tới 
cần tiếp tục nghiên cứu sử dụng sóng dọc hoặc/và 
sóng ngang để định hướng cho các trạm địa chấn 
đáy biển. Nghiên cứu này cũng là tiền đề để có thể 
áp dụng sớm trong điều kiện nước ta có vùng biển 
trải dài, rộng lớn, trong khi các hoạt động nghiên 
cứu cấu trúc sâu, nghiên cứu các đặc điểm cấu kiến 
tạo khu vực, tìm kiếm thăm dò khoáng sản và 
nghiên cứu môi trường đang còn nhiều hạn chế, 
đòi hỏi những nghiên cứu chi tiết với độ chính xác 
cao hơn trong tương lai. 
Lời cảm ơn 
Bài báo là kết quả nghiên cứu của đề tài cấp 
cơ sở mã số T19 - 39. Tác giả chân thành cảm ơn 
GS.TS. Ting Yang trường Đại học Khoa học và Công 
nghệ Phương Nam (Southêrn Univêrsity of 
Science and Technology), TP. Thâm Quyến, Trung 
Quốc đã cung cấp các số liệu OBS để thực hiện 
nghiên cứu này. 
Những đóng góp của tác giả 
Trần Danh Hùng - tổng quan, phương pháp 
luận, phân tích số liệu, viết bản thảo bài báo; Phan 
Thiên Hương, Ting Yang - góp ý và chỉnh sửa. 
Tài liệu tham khảo 
Audet, P., (2016). Receiver functions using OBS 
data: Promises and limitations from numerical 
modelling and examples from the Cascadia 
Initiative. Geophysical Journal International, 
205(3), 1740-1755. 
Baker, G. E., & Stevens, J. L., (2004). Backazimuth 
estimation reliability using surface wave 
polarization. Geophysical research letters, 
31(9). 
Bell, S. W., Forsyth, D. W., & Ruan, Y., (2015). 
Removing noise from the vertical component 
records of ocean-bottom seismometers: 
Results from year one of the cascadia initiative. 
Bulletin of the Seismological Society of 
America, 105(1), 300-313. 
Briais, A., Patriat, P., & Tapponnier, P., (1993). 
Updated interpretation of magnetic anomalies 
and seafloor spreading stages in the south 
China Sea: Implications for the Tertiary 
tectonics of Southeast Asia. Journal of 
Geophysical Research, 98(B4), 6299-6328. 
Brillon, C., Cassidy, J. F. & Dosso, S. E., (2013). 
Onshore/offshore structure of the Juan de 
Fuca plate in northern Cascadia from Bayesian 
receiver function inversion. Bulletin of the 
Seismological Society of America, 103(5), 2914-
2920. 
Crawford, W. C. & Webb, S. C., (2000). Identifying 
and Removing Tilt Noise from Low Frequency 
(<0.1Hz) Seafloor Vertical Seismic Data. 
Bulletin of the Seismological Society of America, 
90(4), 952-963. 
Dahm, T., Tilmann, F. & Morgan, J. P., (2006). 
Seismic broadband ocean - bottom data and 
noise observed with free - fall stations: 
Experiences from long - term deployments in 
the North Atlantic and the Tyrrhenian Sea. 
Bulletin of the Seismological Society of America, 
96(2), 647-664. 
Forsyth, D. W. & Li, A., (2005). Array analysis of 
two‐dimênsional variations in surfacê wavê 
phase velocity and azimuthal anisotropy in the 
presence of multipathing interference. Seismic 
Earth: Array Analysis of Broadband 
Seismograms, 81 - 97. 
Forsyth, D. W., Webb, S. C., Dorman, L. M. and Shen, 
Y., (1998). Phase velocities of Rayleigh waves 
in the MELT experiment on the East Pacific 
Rise, Science, 280,1235 - 1238. 
Hung, T. D., Yang, T., Le, B. M. & Yu, Y., (2019). 
Effêcts of Failurê of thê Ocêan‐Bottom 
Seismograph Leveling System on Receiver 
86 Trần Danh Hùng và nnk.,/Tạp chí Khoa học Kỹ thuật Mỏ - Địa chất 62(2), 79-86 
Function Analysis. Seismological Research 
Letters, 90(3), 1191-1199. 
Le, B. M., Yang, T., Chen, Y. J. & Yao, H., (2018). 
Correction of OBS clock errors using Scholte 
waves retrieved from cross - correlating 
hydrophone recordings. Geophysical Journal 
International, 212(2), 891-899. 
Li, C., Xu, X., Lin, J., Sun, Z., Peleo-Alampay, A., & 
Tejada, M., (2014). Ages and magnetic 
structures of the South China Sea constrained 
by deep tow magnetic surveys and IODP 
Expedition 349. Geochemistry, Geophysics, 
Geosystems, 15(12), 4958-4983. 
Liu, C., Qingfeng Hua, Y. P., Yang, T., Xia, S., Le, B. M., 
Huo, D. & Huang, Fang Liu, H., (2014). Passive - 
source ocean bottom seismograph (OBS) array 
experiment in South China Sea and data 
quality analyses. Chinese Science Bulletin, 59, 
4524-4535. 
Montagner, J. P., Romanowicz, B., Bouaricha, S., 
Lognonne, P., Roult, G., Thirot, J. L., ,... & Floc'h, 
H., (1994). The French pilot experiment OFM - 
SISMOBS: first scientific results on noise level 
and event detection. Physics of the earth and 
planetary interiors, 84(1), 321 - 336. 
Ramachandran, K., Hyndman, R. D. & Brocher, T. 
M., (2006). Regional P wave velocity structure 
of the Northern Cascadia Subduction Zone. 
Journal of Geophysical Research: Solid Earth, 
111(12), 1-15. 
Stachnik, J. C., Sheehan, A. F., Zietlow, D. W., Yang, 
Z., Collins, J. & Ferris, A., (2012). Determination 
of New Zealand ocean bottom seismometer 
orientation via Rayleigh - wave polarization. 
Seismological Research Letters, 83(4), 704 - 
713. 

File đính kèm:

  • pdfnghien_cuu_su_dung_song_dia_chan_trong_dinh_huong_cho_cac_tr.pdf