Thực trạng sản xuất và cơ hội tiếp cận chứng nhận của các hộ nuôi tôm quy mô nhỏ tại đồng bằng sông Cửu Long
Nuôi tôm đã trở thành ngành nghề chính của nhiều hộ dân vùng ven biển Đồng bằng sông Cửu
Long (ĐBSCL). Tuy nhiên, nghề nuôi tôm còn chưa thực sự bền vững. Nghiên cứu này được thực
hiện để đánh giá thực trạng sản xuất và cơ hội của các hộ nuôi tôm quy mô nhỏ tiếp cận chứng nhận
thực phẩm quốc tế. Khảo sát được tiến hành tại bốn tỉnh ven biển thuộc vùng ĐBSCL, phương pháp
lấy mẫu ngẫu nhiên phân tầng được áp dụng để chọn vùng nghiên cứu và chọn hộ điều tra. Tổng
số 230 hộ nuôi tôm thuộc 5 hệ thống nuôi tôm điển hình ở ĐBSCL đã được lựa chọn để phỏng vấn
trực tiếp. Kết quả khảo sát cho thấy hiện nay nhiều trang trại nuôi tôm đã có khả năng đạt được một
số tiêu chí của các chứng nhận quốc tế, như: hệ số FCR (≤1,8 mô hình nuôi tôm sú, và ≤1,5 mô
hình nuôi tôm thẻ chân trắng), mật độ thả giống (≤15 PL/m2 trong hệ thống nuôi tôm quy mô nhỏ
(QMN)), tỷ lệ sống (>25% trong hệ thống nuôi tôm QMN, và > 60% trong hệ thống nuôi tôm quy
mô lớn (QML), không sử dụng hóa chất và kháng sinh cấm, không sử dụng giống hoang dã, các
mối quan hệ cộng đồng, quyền sở hữu trang trại, bảo vệ tính đa dạng sinh học. Tuy nhiên, vẫn còn
nhiều tiêu chí chứng nhận mà các trang trại không thể đáp ứng như: quản lý nước thải (hầu hết các
trang trại còn xả chất thải ao nuôi ra môi trường mà không xử lý triệt để, và khu vực chứa bùn cũng
chưa có hoặc đảm bảo khả năng chứa), đăng ký trại (nhiều trang trại chưa tiến hành đăng ký), quản
lý tỷ lệ chết (thiếu phương pháp thích hợp), lao động (thiếu hợp đồng lao động, hoặc chỉ hợp đồng
miệng), vệ sinh trang trại và lưu trữ hồ sơ theo yêu cầu. Khoảng cách từ thực trạng sản xuất tôm đến
các tiêu chuẩn chứng nhận còn khá xa, vì vậy các trang trại nuôi tôm đặc biệt là hộ quy mô nhỏ cần
có những cải thiện để hoàn chỉnh hơn điều kiện cơ sở hạ tầng và kỹ thuật canh tác để xúc tiến việc
áp dụng các chứng nhận quốc tế.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Tóm tắt nội dung tài liệu: Thực trạng sản xuất và cơ hội tiếp cận chứng nhận của các hộ nuôi tôm quy mô nhỏ tại đồng bằng sông Cửu Long
120 TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 7 - THÁNG 01/2016 VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN 2 THỰC TRẠNG SẢN XUẤT VÀ CƠ HỘI TIẾP CẬN CHỨNG NHẬN CỦA CÁC HỘ NUÔI TÔM QUY MÔ NHỎ TẠI ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG Phan Thanh Lâm1* TÓM TẮT Nuôi tôm đã trở thành ngành nghề chính của nhiều hộ dân vùng ven biển Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL). Tuy nhiên, nghề nuôi tôm còn chưa thực sự bền vững. Nghiên cứu này được thực hiện để đánh giá thực trạng sản xuất và cơ hội của các hộ nuôi tôm quy mô nhỏ tiếp cận chứng nhận thực phẩm quốc tế. Khảo sát được tiến hành tại bốn tỉnh ven biển thuộc vùng ĐBSCL, phương pháp lấy mẫu ngẫu nhiên phân tầng được áp dụng để chọn vùng nghiên cứu và chọn hộ điều tra. Tổng số 230 hộ nuôi tôm thuộc 5 hệ thống nuôi tôm điển hình ở ĐBSCL đã được lựa chọn để phỏng vấn trực tiếp. Kết quả khảo sát cho thấy hiện nay nhiều trang trại nuôi tôm đã có khả năng đạt được một số tiêu chí của các chứng nhận quốc tế, như: hệ số FCR (≤1,8 mô hình nuôi tôm sú, và ≤1,5 mô hình nuôi tôm thẻ chân trắng), mật độ thả giống (≤15 PL/m2 trong hệ thống nuôi tôm quy mô nhỏ (QMN)), tỷ lệ sống (>25% trong hệ thống nuôi tôm QMN, và > 60% trong hệ thống nuôi tôm quy mô lớn (QML), không sử dụng hóa chất và kháng sinh cấm, không sử dụng giống hoang dã, các mối quan hệ cộng đồng, quyền sở hữu trang trại, bảo vệ tính đa dạng sinh học. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều tiêu chí chứng nhận mà các trang trại không thể đáp ứng như: quản lý nước thải (hầu hết các trang trại còn xả chất thải ao nuôi ra môi trường mà không xử lý triệt để, và khu vực chứa bùn cũng chưa có hoặc đảm bảo khả năng chứa), đăng ký trại (nhiều trang trại chưa tiến hành đăng ký), quản lý tỷ lệ chết (thiếu phương pháp thích hợp), lao động (thiếu hợp đồng lao động, hoặc chỉ hợp đồng miệng), vệ sinh trang trại và lưu trữ hồ sơ theo yêu cầu. Khoảng cách từ thực trạng sản xuất tôm đến các tiêu chuẩn chứng nhận còn khá xa, vì vậy các trang trại nuôi tôm đặc biệt là hộ quy mô nhỏ cần có những cải thiện để hoàn chỉnh hơn điều kiện cơ sở hạ tầng và kỹ thuật canh tác để xúc tiến việc áp dụng các chứng nhận quốc tế. Từ khóa: thực trạng canh tác, hộ quy mô nhỏ, chứng nhận thực phẩm. 1. Phòng Sinh thái Nghề cá &Tài nguyên Thủy sinh vật, Viện Nghiên cứu nuôi trồng thủy sản 2. * Email: pthanhlam@yahoo.com I. ĐẶT VẤN ĐỀ Nghề nuôi tôm nước lợ mặn diễn ra vùng ven biển Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) với các phương thức nuôi khá đa dạng (Vu và Phan, 2008). Các đối tượng tôm nuôi đóng góp một vai trò quan trọng trong ngành nuôi trồng thủy sản (NTTS) Việt Nam, nuôi tôm không chỉ đóng góp lớn vào kim ngạch xuất khẩu thủy sản mà còn tạo công ăn việc làm và tăng thu nhập cho người dân địa phương. Hiện nay, số trang trại nuôi tôm quy mô nhỏ thuộc sở hữu và quản lý bởi các hộ gia đình vẫn chiếm ưu thế trong vùng ĐBSCL (Tran et al., 2013). Nuôi trồng thủy sản, đặc biệt là nuôi thủy sản quy mô nhỏ vẫn được coi là rất dễ bị tổn thương trong chuỗi giá trị ngành hàng tôm (Washington và Ababouch, 2011). Mặc dù vậy,các trang trại nuôi tôm quy mô nhỏ vẫn sẽ được duy trì trong kế hoạch phát triển NTTS thời gian tới, vì họ chiếm trên 200.000 trang trại nuôi tôm tại ĐBSCL (Phan et al., 2011; Tran et al., 2013). Người nuôi tôm quy mô nhỏ chủ yếu sinh sống ở các khu vực ven biển, và đất đai của họ được sử dụng chủ yếu cho nuôi tôm. Nuôi tôm là nghề nghiệp chính của họ, và họ có rất ít cơ hội để đa dạng sinh kế khác (Tran et al., 2013). Nghiên cứu của tác giả Irz et al., (2007) đã cho thấy rất 121TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 7 - THÁNG 01/2016 VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN 2 ít bằng chứng về việc phát triển NTTS sẽ loại trừ các hộ quy nhỏ ra khỏi ngành nghề này và thu nhập từ NTTS rõ ràng là có sự chênh lệch lớn giữa các quy mô trang trại, hộ quy mô nhỏ thường gặp rất nhiều khó khăn khi gặp những sự cố trong quá trình sản xuất. Mặt khác, xu hướng thị trường đối với các sản phẩm thủy sản được chứng nhận đang gia tăng và khách hàng chú ý nhiều hơn để kiểm soát chất lượng trên tất cả quá trình sản xuất của sản phẩm (Corsin et al., 2007; Reilly, 2007; Yamprayoon và Sukhumparnich, 2010). Gần đây, chứng nhận thực phẩm trong lĩnh vực NTTS đã được các vùng nuôi của các Công ty chế biến thủy sản (CTCBTS) quan tâm thực hiện (Belton et al., 2011; Bush et al., 2010). Một số các trang trại lớn thuộc CTCBTS đã đạt được chứng chỉ như ASC, GAA-BAP và GlobalGAP để đáp ứng các yêu cầu của khách hàng của họ (Fisheries Directorate, 2013; Lam và Truong, 2010). Trong khi đó, các trang trại quy mô nhỏ không có khả năng để đạt được các chứng nhận thực phẩm do năng lực hạn chế của họ (Belton và Little, 2011; Bush và Belton, 2012). Trang trại quy mô nhỏ thường không quan tâm nhiều đến việc xin chứng nhận, vì họ cho rằng hiệu quả kinh tế so với sản phẩm không chứng nhận là không khác biệt. Hiệu quả kinh tế của sản xuất được chứng nhận có thể không cao hơn nhiều so với sản xuất không cần chứng nhận, vì đầu tư tốn kém hơn và rất khó khăn để đạt được các tiêu chuẩn nghiêm ngặt của các chứng nhận sản phẩm (Dey và Ahmed, 2005; Haugen et al., 2013). Mặc dù vậy, việc đánh giá tính bền vững của nghề nuôi tôm dường như chỉ được thực hiện thông qua các chương trình chứng nhận sản phẩm. Như vậy, để đánh giá tính bền vững nghề nuôi tôm vùng ĐBSCL thì việc phân tích thực trạng sản xuất nên được đánh giá theo các phương thức nuôi tôm, từ đó sẽ xác định được những rào cản chính để trang trại nuôi tôm tiếp cận các chứng nhận sản phẩm. Vì vậy, nghiên cứu này nhằm phân tích các đặc điểm chính về sự khác biệt của thực trạng sản xuất giữa các hệ thống nuôi tôm. Nghiên cứu cũng nhằm đưa ra những đánh giá về khoảng cách giữa các phương thức nuôi tôm hiện nay và các tiêu chuẩn của một số chứng nhận thực phẩm thủy sản. II. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 2.1. Khung chọn mẫu khảo sát * Lựa chọn địa điểm khảo sát: D ... GAA). Gereffi, G., J. Humphrey, and T. J. Sturgeon, 2005. The Governance of Global Value Chains. Review of International Political Economy 12(1):78–104. GlobalGAP, 2011. Control Points and Compliance Criteria: All Farm Base. Code Ref: IFA V4.0 March11; Edition AF 4.0-1; English Version. Grunert, Klaus G. et al, 2005. “Market Orientation of Value Chains: A Conceptual Framework Based on Four Case Studies from the Food Industry.” European Journal of Marketing 39(5/6):428–55. Han, Han and Anton Immink, 2013. “A Zonal Approach for Aquaculture Sustainability.” INFOFISH International 26–28. Retrieved ( s3.amazonaws.com/2013/11/26/26 - 28 _ Han Han - A zonal approach for aquaculture-2- bdfaec03.pdf). Haugen, A. S., S. Bremer, and M. Kaiser, 2013. Assessment of Costs and Benefits of Mandatory and Voluntary Certification Schemes Applied to Asian Producers. SEAT Deliverable 8.5,Centre for the Study of the Sciences and Humanities, University of Bergen. Bergen. Henson, S., S. Jaffee, J. Cranfield, and P. Siegel, 2008. Linking African Smallholders to High-Value Markets: Practitioner Perspectives on Benefits, Constrains, and Interventions. Policy Research Working Paper, the World Bank. Hoa, Tran Thi Tuyet, Mark P. Zwart, Nguyen Thanh, Just M. Vlak, and Mart C. M. De Jong, 2011. “Transmission of White Spot Syndrome Virus in Improved-Extensive and Semi-Intensive Shrimp Production Systems : A Molecular Epidemiology Study.” Aquaculture 313(1-4):7–14. 134 TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 7 - THÁNG 01/2016 VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN 2 Irz, Xavier, James R. Stevenson, Arnold Tanoy, and Pierre Morissens, 2007. “The Equyty and Poverty Impacts of Aquaculture: Insights from the Philippines.” Development Policy Review 25(April 2004):495–516. Jespersen, Karen Sau, Ingrid Kelling, Stefano Ponte, and Froukje Kruijssen, 2014. “Institutional Frameworks and the Governance of Aquaculture Value Chains: Lessons from Asia.” Food Policy in press. Kambewa, E. V., 2007. “Balancing the People, Profit and Planet Dimensions in International Marketing Channels - A Study on Coordinating Mechanisms in the Nile Perch Channel from Lake Victoria.” Wageningen University, the Netherlands. Kariuki, L., 2006. “Participation of Smallholders in International Trade.” Agro-food Chains and Network for Development 14:41–48. Kelling, Ingrid, 2012. “Knowledge Is Power? A Market Orientation Approach to the Global Value Chain Analysis of Aquaculture: Two Cases Linking Southeast Asia and the EU.” The University of Stirling. Kelling, Ingrid, Froukje Kruijssen, and Chen Oai Li, 2010. Review of Trade, Regulation and Certification Issues Related to Farmed Aquatic Animals. SEAT Deliverable 2.7, The WorldFish Center. Penang. Key, N. and D. Runsten, 1999. “Contract Farming, Smallholders, and Rural Development in Latin America: The Organization of Agro-Processing Firms and the Scale of out Grower Production.” World Development 27(2):381–401. Khiem, Nguyen T., Simon R. Bush, Chau M. Nguyen, and Loc T. T. Vo, 2010. Upgrading Small-Holders in the Vietnamese Pangasius Value Chain. Final Report, ODI grant number RO334, An Giang. Khoi, Le Doan Nguyen, 2011. “Quality Management in the Pangasius Export Supply Chain in Vietnam: The Case of Small-Scale Pangasius Farming in the Mekong River Delta.” University of Groningen. Lam, X. T. and M. H. Truong, 2010. Current Status of Best Aquaculture Practices (BAP) Certification Apply for the Black Tiger Shrimp (Penaeus Monodon) Culture in the Mekong River Delta. College of Aquaculture & Fisheries, Can Tho University, Can Tho. Le, Sinh Xuan, 2009. “Social Impacts of Coastal Aquaculture in the Mekong Delta.” Pp. 95–107 in Measuring the contribution of small-scale aquaculture: an assessment. FAO Tecnical paper 534, edited by M. Bondad-Reantaso M.G.; Prein. Rome: FAO. Mohan, C. V., 2013. “Aquaculture Certification: Producer Compliance Constraints.” in VIETFISH 2013: Trade Show and Conference in Vietnam, Vietnam Association of Seafood Exporters and Producers. Ho Chi Minh. Murray, F. J. et al., 2011. Report on Boundary Issues. SEAT Deliverable 2.8. SEAT project, Institute of Aquaculture, The University of Stirling, Stirling. Naturland, 2012. Naturland Standards for Organic Aquaculture. Naturland - Association for Organic Agriculture, Registered Association. Gräfelfing, Germany. Nguyen, Phuong T. and Oanh T. H. Dang, 2009. “Striped Catfish Aquaculture in Viet Nam: A Decade of Unprecedented Development.” Pp. 133–50 in Success Stories in Asian Aquaculture, edited by S. S. De Silva and F. B. Davy. Springer and IDRC, Canada, Drodecht, The Netherlands. Nguyen, T. T. et al., 2009. Project on Development Planning for Aquaculture Sector in the Mekong Delta up to 2015 and Strategic Planning up to 2020 (in Vietnamese). Ministry of Agriculrue & Rural Development. Ho Chi Minh. Nhuong, Tran V. et al., 2003. The Shrimp Industry in Vietnam: Status, Opportunities and Challenges. Research Institute for Aquaculture No.1, Ha Noi. Nietes-Satapornvanit, Arlene, 2014. “Sustainable Development of Export-Orientated Farmed Seafood in Thailand.” The University of Stirling. Oanh, Dang Thi Hoang and Nguyen Thanh Phuong, 2012. “Serious Diseases in Marine Shrimp and Freshwater Prawn Farming in the Mekong River Delta.” Science Journal of Can Tho University 22c:106–18. Oosterveer, Peter. 2006, “Globalization and Sustainable Consumption of Shrimp: Consumers and Governance in the Global Space of Flows.” International Journal of Consumer Studies (September):465–76. Page, S. and R. Slater. 2003, “Small Producer Participation in Global Food Systems: Policy Opportunities and Constraints.” Development Policy Review 21(5-6):641–54. Pham, Anh T., Simon R. Bus, Arthur P. J. Mol, and Carolien Kroeze, 2011. “The Multi-Level Environmental Governance of Vietnamese Aquaculture: Global Certification , National Standards , Local Cooperatives.” Journal of Environmental Policy & Planning 13(4):373–97. Phan, Lam T. et al. 2009. “Current Status of Farming Practices of Striped Catfish, Pangasianodon Hypophthalmus in the Mekong Delta, Vietnam.” Aquaculture 296(3-4):227–36. Phan, Lam T., Phuong T. Nguyen, Francis J. Murray, and David C. Little. 2011. Development Trends and Local Sustainability Perceptions for the International Trade in Seafood Farmed in Vietnam. SEAT Deliverable 2.1, The University of Stirling. Stirling. Ponte, Stefano, Ingrid Kelling, Karen Sau Jespersen, 135TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 7 - THÁNG 01/2016 VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN 2 and Froukje Kruijssen. 2014. “The Blue Revolution in Asia: Upgrading and Governance in Aquaculture Value Chains.” World Development 64:52–64. Reardon, T. and C. P. Timmer. 2006. “Transformation of Markets for Agricultural Output in Developing Countries Since 1950: How Has Thinking Changed?” in Handbook of Agricultural Economics, edited by T. Reardon and C. P. Timmer. Elsevier. Reilly, Alan. 2007. “From Farm to Fork – New European Food Hygiene Regulations.” Pp. 47– 57 in International seafood trade: challenges and opportunities, edited by W. Einarsson, H.; Emerson. Akureyri, Iceland: FAO Fisheries & Aquaculture proceeding 13. FAO. Ruben, R., A. V. Tilburg, J. Trinekens, and M. V. Boekel. 2007. “Linking Market Integration, Supply Chain Governance, Quality and Value Added.” Pp. 13–46 in In Tropical Food Chains: Governance Regimes for Quality Management, edited by R. Ruben, A. V. Tilburg, J. Trinekens, and M. V. Boekel. Wageningen: Wageningen Academic Publishers. Segura, S. F. 2006. “Contract Farming in Costa Rica. Opportunities for Smallholders?” Wageningen University, the Netherlands. SFP. 2013. “Vietnamese Pangasius Aquaculture Improvement Project.” Sustainable Fisheries Partnership. Retrieved ( sustainablefish.org/aquaculture-improvement/ pangasius/pangasius-aquaculture-improvement- partnership). Siar, Susana V. and Percy E. Sajise. 2009. “Access Rights for Sustainable Small-Scale Aquaculture and Rural Development.” Pp. 87–95 in Measuring the contribution of small-scale aquaculture: an assessment. FAO Tecnical paper 534, edited by M. Bondad-Reantaso M.G.; Prein. Rome: FAO. De Silva, Sena S. and Phuong T. Nguyen. 2011. “Striped Catfish Farming in the Mekong Delta, Vietnam: A Tumultuous Path to a Global Success.” Reviews in Aquaculture 3(2):45–73. Sriwichailamphan, T., 2007. “Global Food Chains and Environment: Agro-Food Production and Processing in Thailand.” Wageningen University, the Netherlands. Subasinghe, Rohana, Doris Soto, and Jiansan Jia, 2009. Global Aquaculture and Its Role in Sustainable Development. Reviews in Aquaculture 1(1):2–9. Tran, Nhuong, Conner Bailey, Norbert Wilson, and Michael Phillips, 2013. Governance of Global Value Chains in Response to Food Safety and Certification Standards: The Case of Shrimp from Vietnam. World Development 45(202374):325–36. Trifković, Neda, 2013. The Role of Food Standards in Development: An Empirical Perspective. University of Copenhagen. Umesh, N. R. et al., 2009. Shrimp Farmer in India: Empowering Small Scale Farmer through a Cluster-Based Approach. Pp. 43–65 in Success Stories in Asian Aquaculture, edited by S. S. De Silva and F. B. Davy. Springer and IDRC, Canada, Drodecht, The Netherlands. VASEP. 2014, Report on Vietnam Seafood Export in 2013 (in Vietnamese). Vietnam Association of Seafood Exporters and Producers. Ha Noi. VIFEP, 2009. Project on Development Planning for Crustacean Production and Consumption of Vietnam Upto 2020 (in Vietnamese). Vietnam Institute of Fisheries & Economic Plan. Ha Noi. VIFEP, 2015. Project on Development Planning for Crustacean Production and Consumption of Vietnam Upto 2020 (in Vietnamese). Vietnam Institute of Fisheries & Economic Plan. Ha Noi. Vo, L. T. T., S. R. Bush, and S. X. Le., 2009. Assessment of Value Chains for Promoting Sustainable Fisheries Development in the Mekong Basin: Cases of Pangasius in Vietnam and Cambodia. Vietnam Economic Management Review 26(5-6):32–42. Vu, An V. and Lam T. Phan, 2008. Inland Fisheries and Aquaculture in the Mekong Delta: A Review. Research Institute for Aquaculture No.2, Ho Chi Minh. Vu, T. A. et al., 2013. Status of Small-Scale Environmentall Friendly Shrimp Production in the Ca Mau Province, the Mekong Delta, Vietnam. GIZ Vietnam, Ca Mau. Washington, S. and L. Ababouch, 2011. Private Standards and Certification in Fisheries and Aquaculture: Current Practice and Emerging Issues. Food and Agriculture Organization, Rome. Washington, Sally and Lahsen Ababouch, 2011. Private Standards and Certification in Fisheries and Aquaculture: Current Practice and Emerging Issues. FAO Fisher. Rome: Food and Agriculture Organization of United Nations. WWF, 2011. Draft Stabdards for Responsible Shrimp Aquaculture. Version 3.0 for Guidance Development and Field Testing, ShAD. Yamprayoon, Jirawan and Krissana Sukhumparnich. 2010, Thai Aquaculture: Achieving Quality and Safety through Management and Sustainability. Journal of the World Aquaculture Society 41(2):274–80. Young, James A., Ian Goulding, and Roderick L. Stirrat. 2011,Post-Harvest to Consumer Driver Review of the Aquatic Supply Chain. Driver Review-DR17/ Foresight Project on Global Food and Farming Futures. London. 136 TẠP CHÍ NGHỀ CÁ SÔNG CỬU LONG - SỐ 7 - THÁNG 01/2016 VIỆN NGHIÊN CỨU NUÔI TRỒNG THỦY SẢN 2 FARMING PRACTICES AND CHALLENGES TO REACH FOOD STANDARDS OF SMALL-SCALE SHRIMP FARMS IN THE MEKONG DELTA Phan Thanh Lam1* ABSTRACT Shrimp culture becomes main occupation of many farmers in the coastal areas of the Mekong River Delta (MKD); however, shrimp farming has not really sustainable. This study is to assess the current farming practices and challenges to reach international food standards of small-scale shrimp farms. This study was carried-out in four coastal provinces in the MKD,A randomized stratified sampling method was used to select survey-sites and survey-farms for interview. The 230 belongings to five typical shrimp farming systems in the MKD were selected for face-to-face interviewing. The findings show that many shrimp farms were likely to reach several standard criteria such eFCR (≤1.8 in Black Tiger Shrimp culture, and ≤1.5 in White-legged Shrimp culture), stocking density (≤15PL/m2 in the lower investment shrimp system), survival rate (>25% in the lower investment shrimp system, and >60% in the higher investment shrimp system), no banned chemical/drug and wild-seed source use, community relationships, property rights, and biodiversity protection. However, there are still many standard criteria that farms could not meet such as criteria for effluent management (most farms release their waste water without any treatment and had no sediment basins), registration of farms (many farms were not legally registered), shrimp mortality management (lack of proper methods), labor arrangements (verbal contracts), farm hygiene, and recordkeeping requirements.With these current shrimp farming practices, it is still far behind to reach criteria of the food standards; therefore, the shrimp farms, especially small-scale farms need to be strengthened and to improved their infrastructure conditions and farming techniques to promote the adoption of international food standards. Keywords: farming practices, small-scale farm, food standards. Người phản biện: TS. Vũ Anh Tuấn Ngày nhận bài: 18/11/2015 Ngày thông qua phản biện: 18/12/2015 Ngày duyệt đăng: 25/12/2015 1. Department of Fisheries Ecology &Aquatic Resources, Research Institute for Aquaculture No.2 * Email: pthanhlam@yahoo.com
File đính kèm:
- thuc_trang_san_xuat_va_co_hoi_tiep_can_chung_nhan_cua_cac_ho.pdf