Sự vận động của văn học hiện thực pháp cuối thế kỷ XIX
Qua khảo sát các công trình nghiên cứu về dòng văn học hiện thực trong văn học Pháp thế kỷ
XIX được công bố từ thập niên 80 của thế kỷ XX đến nay, chúng tôi nhận thấy rằng nhiều nhà nghiên
cứu đã hết lời ca ngợi phương pháp sáng tác và ý nghĩa của văn học hiện thực phê phán nhưng hạ
thấp giá trị của dòng văn học tự nhiên chủ nghĩa, xem văn học tự nhiên chủ nghĩa là dòng văn học
suy đồi. Bài báo này nhằm chứng minh rằng Chủ nghĩa tự nhiên là một bộ phận trong dòng văn học
hiện thực, không thể xếp vào dòng văn học suy đồi và có nét khác biệt trong phương pháp sáng tác.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Bạn đang xem tài liệu "Sự vận động của văn học hiện thực pháp cuối thế kỷ XIX", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Sự vận động của văn học hiện thực pháp cuối thế kỷ XIX
TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN HIẾN TẬP 6 SỐ 3 39 SỰ VẬN ĐỘNG CỦA VĂN HỌC HIỆN THỰC PHÁP CUỐI THẾ KỶ XIX Hà Thị Thu Phương Trường Đại học Văn Hiến PhuongHTT@vhu.edu.vn Ngày nhận bài: 24/9/2018; Ngày duyệt đăng: 17/12/2018 TÓM TẮT Qua khảo sát các công trình nghiên cứu về dòng văn học hiện thực trong văn học Pháp thế kỷ XIX được công bố từ thập niên 80 của thế kỷ XX đến nay, chúng tôi nhận thấy rằng nhiều nhà nghiên cứu đã hết lời ca ngợi phương pháp sáng tác và ý nghĩa của văn học hiện thực phê phán nhưng hạ thấp giá trị của dòng văn học tự nhiên chủ nghĩa, xem văn học tự nhiên chủ nghĩa là dòng văn học suy đồi. Bài báo này nhằm chứng minh rằng Chủ nghĩa tự nhiên là một bộ phận trong dòng văn học hiện thực, không thể xếp vào dòng văn học suy đồi và có nét khác biệt trong phương pháp sáng tác. Từ khóa: văn học hiện thực, văn học Pháp, Chủ nghĩa tự nhiên, văn học Công xã Paris The movement of realism in the late Nineteenth century French literature Abstract Through surveys of works on realistic literature in French literature in the nineteenth-century, published since the 80s of the twentieth century, we found that many researchers have praised the writing method and the meaning of critical realist literature but lowered naturalist literature, and considered natural literature as a decadent literary line. This paper aims to prove that Naturalism is a part of the realism literature which cannot be classified as decadent literature because Naturalism looks at real life from the perspective of real natural history. Keywords: Realism, French literature, Naturalism, The Paris commune literature. 1. Đặt vấn đề Nước Pháp thế kỷ XIX đã chứng kiến sự thay đổi to lớn về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội do sự tác động của những thành tựu khoa học - kỹ thuật và sự khẳng định quyền lực mạnh mẽ của giai cấp tư sản. Cuộc cách mạng tư sản tháng 2-1848 chính là dấu mốc quan trọng đánh dấu bước chuyển mình về lịch sử - xã hội và chính sự thay đổi trong hiện thực đời sống, tính đa diện của nó đã tác động đến các nhà văn dẫn đến sự thay đổi về tư duy nghệ thuật của họ. Trong sự thay đổi chung ấy, văn học Pháp cuối thế kỷ XIX cũng có sự thay đổi khuynh hướng thẩm mỹ rõ rệt. Lịch sử văn học Pháp thế kỷ XIX ghi dấu sự thành công rực rỡ của hai dòng văn học lớn, quan trọng nhất là văn học lãng mạn và văn học hiện thực, trong đó dòng văn học hiện thực đã đạt được những thành tựu đáng kể với những tài năng văn chương kiệt xuất như Honoré de Balzac, Stendhal, Gustave Flaubert, Émile Zola, Guy de Maupassant, Juyl Valex Văn học hiện thực Pháp với biến thể của nó là chủ nghĩa tự nhiên đã có tầm ảnh hưởng sâu rộng, không chỉ ở Pháp mà còn lan tỏa ra nhiều nước khác trên thế giới. Ngoài ra, các dòng văn học khác như trường phái Thi sơn, chủ nghĩa tượng trưng, văn học viễn tưởng, văn học kỳ ảo, văn học công xã Paris cũng đạt được những thành tựu rực rỡ. Bài viết này nhằm mục đích tổng hợp tri thức về đặc điểm thẩm mỹ văn học hiện thực chủ nghĩa trong từng giai đoạn khác nhau, trên cơ sở đó chỉ ra sự vận động của dòng văn học này ở cuối thế kỷ XIX, mà minh chứng rõ ràng nhất là sự ra đời của chủ nghĩa tự nhiên như một phản ứng chống lại nguyên tắc thẩm mỹ của văn học VAN HIEN UNIVERSITY JOURNAL OF SCIENCE VOLUME 6 NUMBER 3 40 hiện thực phê phán và cao trào văn học Công xã Paris – dòng văn học ca ngợi người lao động có tác động lớn đến văn học xã hội chủ nghĩa Việt Nam thế kỷ XIX. Tại Việt Nam, rất nhiều nhà nghiên cứu văn học phương Tây đã bàn đến đặc điểm thẩm mỹ văn học hiện thực Pháp cuối thể kỷ XIX. Đó là những công trình nghiên cứu chuyên sâu về các phong trào văn học như: văn học hiện thực phê phán - Lê Nguyên Cẩn (2014), Đỗ Đức Dục (1972, 1981), Đỗ Đức Hiểu (1978), Đặng Anh Đào và cộng sự (2012), văn học Công xã Paris - mà tiêu biểu là Thái Thu Lan (1991, 2001); văn học tự nhiên chủ nghĩa - tác giả tiêu biểu là Lê Ngọc Tân (2002); Ngoài ra còn có một số nhà nghiên cứu đã quan tâm đến sự vận động của cả dòng văn học hiện thực như: Lê Hồng Sâm, Đặng Thị Hạnh (1981), Lê Hồng Sâm (1989), Hoàng Nhân (1997), Phùng Văn Tửu, Lê Hồng Sâm (chủ biên) (2005), Nguyễn Hữu Hiếu (2010), Hà Thị Thu Phương (2016) Một số công trình của nước ngoài đã được dịch ra tiếng Việt, xuất bản tại Việt Nam như Fortassier (1982; Nguyễn Thanh dịch, 1999), De Ligny, Rousselot (1998; Trịnh Thu Hồng, Đỗ Phương Mai dịch, 1998), Сучков Б.Л. (1977a; Hoàng Ngọc Hiến và cộng sự 1980), Сучков Б.Л. (1977b; Hoàng Ngọc Hiến và cộng sự dịch, 1982), Darcos (1992; Phan Quang Định dịch, 1997) Đây là những công trình được đánh giá cao và là nguồn tài liệu tham khảo quý của các nhà nghiên cứu văn học phương Tây, đặc biệt là văn học Pháp. Tuy nhiên, do ảnh hưởng của hoàn cảnh lịch sử, văn hóa nước ta trước đây nên một số đánh giá về dòng văn học này còn chưa thỏa đáng, tiêu biểu nhất là việc hạ thấp thái quá giá trị của chủ nghĩa tự nhiên, đề cao quá mức dòng văn học Công xã Paris trong dòng chảy văn học hiện thực Pháp cũng như những ảnh hưởng của nó đối với các nền văn học khác (cụ thể là văn học hiện thực Việt Nam), nhất là những tác phẩm được xuất bản trước 1986. Hiện nay, tư duy nghệ thuật đã được thay đổi (do những ảnh hưởng của những luồng văn hóa, tư tưởng mới) nên vấn đề trả lại giá trị vốn có cho các dòng văn học hiện thực, đặc biệt là dòng văn học tự nhiên chủ nghĩa, xem như một biến thiên của chủ nghĩa hiện thực ngày càng được sự quan tâm của các nhà nghiên cứu văn học. Qua bài viết này, tác giả cũng mong muốn góp thêm một cách nhìn sự vận động của văn học Pháp cuối thế kỷ XIX, trong đó, tác giả muốn nhấn mạnh chủ nghĩa tự nhiên là một bộ phận không thể tách rời của chủ nghĩa hiện thực, nó là một hình thái mới của chủ nghĩa hiện thực khi các đặc điểm thẩm mĩ của chủ nghĩa hiện thực phê phán không còn được chào đón như ... học trước đó thường tránh đề cập. Chính yếu tố này đã làm dân chủ hóa tiểu thuyết khi nó đề cập đến cả những vấn đề trước kia ít khi được đề cập đến (Lê Ngọc Tân, 2002). Ông xóa bỏ lằn ranh phân biệt đề tài thấp kém hay cao quý khi khẳng định dù viết về đề tài nào nhưng nhà văn đạt được mục đích sáng tác của mình thì đều đáng trân trọng. Từ việc quan sát, nhà văn cũng như những nhà khoa học thực nghiệm phải biết ghi chép cẩn thận những hiện tượng xảy ra trước mắt để có nền tảng kiến thức, từ đó suy luận tìm ra quy luật vận hành của xã hội từ những quy luật vận hành của con người tự nhiên. Zola trở thành tấm gương về việc lao động nghệ thuật nghiêm túc. Để có nguồn tư liệu, ông đi khắp nơi, tiếp xúc hỏi han mọi người, tra cứu thông tin. Ông đến tận khu mỏ Anzin để tìm hiểu về cuộc đình công dài 56 ngày đêm của 12.000 thợ mỏ xảy ra vào tháng 2-1884, cùng ăn, ở, tham gia hội họp cùng với công nhân, quan sát khu mỏ, đọc sách báo về khu mỏ và đời sống công nhân ở đây. Đặc biệt, ông nghiên cứu rất kỹ tài liệu về cuộc đình công và quan tâm sâu sắc đến số phận của những nạn nhân. Ông bỏ ra hàng tháng trời để quan sát, ghi chép chi tiết về hầm lò, trang trại, khu chợ, chợ chứng khoán Người đọc có thể tìm các thông tin kiểu của các nhà xã hội học, văn hóa học, lịch sử từ tác phẩm của Zola mà không cần băn khoăn về tính chân thực của nó. Sau khi quan sát, nhà văn phải tiến hành thực nghiệm như một nhà khoa học thực nghiệm mà yếu tố đầu tiên khiến các nhà văn tự nhiên chủ nghĩa có thể thể hiện quan điểm của mình là phải có sự hoài nghi đối với mọi vấn đề, phải xuất VAN HIEN UNIVERSITY JOURNAL OF SCIENCE VOLUME 6 NUMBER 3 46 phát từ sự nghi ngờ mang tính khoa học mà “ở đó họ phải đối diện những hiện thực còn ít biết đến, những hiện tượng chưa được giải thích” (Lê Ngọc Tân, 2002: tr. 55). Nhà văn phải “nghi ngờ để đạt tới sự hiểu biết tuyệt đối” (Lê Ngọc Tân, 2002: tr. 44) dựa trên thuyết quyết định luận, thứ mà theo Zola “thống trị tất cả” (Lê Ngọc Tân, 2002: tr. 59), tức là thừa nhận các hiện tượng tự nhiên và xã hội đều có tính quy luật, tất nhiên và theo mối quan hệ nhân quả, từ đó tìm ra sự thật về tự nhiên, xã hội. Một trong những điểm quan trọng nhất trong Chủ nghĩa tự nhiên là muốn nhấn mạnh “vấn đề di truyền có một ảnh hưởng lớn đến việc biểu hiện của tinh thần và dục vọng của con người” và tác động của “môi trường có tầm quan trọng rất lớn” (Lê Ngọc Tân, 2002: tr. 60). Ông tin rằng dựa vào sinh học, tức môi trường bên trong, kết hợp với môi trường xã hội, tức môi trường bên ngoài, giúp con người hiểu được quy luật vận hành của tư tưởng và dục vọng. Ngoài ra, Zola còn bị ảnh hưởng bởi phương pháp phê bình văn hóa - lịch sử của Hippolyte Taine (1828-1893) khi cho rằng ba yếu tố chủng tộc (race), hoàn cảnh (milieu), thời điểm (moment) là những yếu tố quan trọng chi phối đời sống cộng đồng và cá nhân mỗi con người. Quan tâm đến ba yếu tố này, tác giả muốn tìm ra cái gốc tự nhiên, cái sự thật thật hơn ở con người. Zola mong muốn các sáng tác phải lấy cảm hứng lịch sử, phản ánh trung thực đời sống xã hội. Không phải ngẫu nhiên, bộ tiểu thuyết Gia đình Rougon - Macquart của ông có tên phụ là “Lịch sử tự nhiên và xã hội của một gia đình dưới Đế chế II” với tham vọng mô tả những biến đổi của thời kỳ Đế chế II và những thăng trầm của năm thế hệ trong một gia đình qua hai mươi cuốn tiểu thuyết. Ông xây dựng thế giới nhân vật dựa trên cái khung phả hệ của hai dòng máu (nhân vật thuộc dòng máu Rougon luôn thành đạt, thăng tiến còn nhân vật thuộc dòng máu Macquart đều nghèo khổ, bệnh tật, hủy hoại), đối sánh số phận của con cháu xuất phát từ hai dòng máu đó để khẳng định vai trò của di truyền, của huyết thống đối với tính khí, với sự thăng trầm trong cuộc đời của mỗi nhân vật trong tổng hòa các mối quan hệ trong xã hội. Ông nhấn mạnh đó là con người sinh lý của khoa học hiện nay, một sinh vật gồm những cơ quan và nhúng mình vào một môi trường, thấm ướt môi trường đó trong từng giờ từng phút (Lưu Tô Xương và cộng sự, 2002). Để làm được điều đó, tác giả cho mỗi nhân vật trong gia đình ấy lần lượt là nhân vật chính trong một cuốn tiểu thuyết, đặt nhân vật trong môi trường cụ thể và tái xuất hiện trong nhiều tác phẩm. Kiểu nhân vật tái xuất hiện là điều Zola đã học hỏi được từ Balzac. Tuy nhiên, mối dây liên hệ để nhân vật tái xuất hiện khác nhau; nhân vật trong sáng tác của Balzac tái xuất hiện do sự sắp đặt về sự vận động trong hoàn cảnh mới, vị trí xã hội mới, tính cách mới, còn nhân vật trong tiểu thuyết của Zola tái xuất hiện trong hoàn cảnh mới nhưng cái chi phối lại là sợi dây liên kết về huyết thống, di truyền. Việc áp dụng tiến bộ khoa học vào sáng tác văn chương không chỉ dừng lại ở nhà lập thuyết, nhà tiểu thuyết thực nghiệm Zola, mà ảnh hưởng đến một số nhà văn đương thời khác quy tụ trong nhóm Những buổi tối ở Médan, trong đó có Maupassant, tạo nên trào lưu văn học mới tiếp nối dòng văn học hiện thực nhưng với quan điểm thẩm mỹ khác với Chủ nghĩa hiện thực cổ điển. Tuy nhiên, như đã nói ở trên, giữa lý luận của Chủ nghĩa tự nhiên và thực tế sáng tác có độ chênh nhất định. Chính độ chênh đó đã giúp sáng tác của Zola không đơn thuần là khoa học mà nó còn là những tìm kiếm thẩm mỹ mới mẻ, góp phần làm mới đời sống văn học. Nếu các nhà văn hiện thực cổ điển thích thú với tham vọng trở thành “thư ký của thời đại”, “mang cả lịch sử trong đầu” (Balzac), thích tái hiện hiện thực cuộc sống với nguồn tư liệu vô cùng phong phú, bao quát bức tranh phong tục của xã hội trên quy mô rộng lớn thì văn học hiện thực Pháp nửa sau thế kỷ XIX lại làm người đọc ấn tượng và ám ảnh với cách chụp ảnh hiện thực, cái được phản ánh là bất cứ thứ gì có trong hiện thực, dù cao cả hay thấp hèn, dù tốt đẹp hay xấu xa... Người mở đầu kiểu văn học này là Flaubert với tác phẩm Bà Bovary – một tác phẩm tạo cho người đọc ám ảnh về cái tầm thường, giả dối. TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN HIẾN TẬP 6 SỐ 3 47 Dù có nhiều điểm đáng phê phán nhưng kiểu nhân vật đầy dục vọng trong sáng tác của Balzac, Stendhal ít nhiều vẫn còn gây cảm tình của bạn đọc, gợi lên niềm lạc quan, kỳ vọng vào những điều tốt đẹp sẽ xảy ra, còn nhân vật trong sáng tác của Flaubert lại gây nên cho người đọc “ám ảnh về sự thống trị không cưỡng lại được của cái tầm thường” (Nguyễn Hữu Hiếu, 2010: tr.64), trong cái nhìn đầy hoài nghi, bi quan trước hiện thực đầy dung tục. Sự bi quan này còn được đẩy lên thành một trong những yếu tố chính chi phối trong sáng tác của Guy de Maupassant. Tần suất thể hiện cái xấu, cái ác, cái giả dối, cái tầm thường, cái thiếu nhân tính càng về cuối thế kỷ càng được nhấn mạnh đến mức ám ảnh. Các tác phẩm như Một cuộc đời, Con quỷ, Một mẹo lừa, Kẻ lang thang, Kẻ giết cha mẹ gây ám ảnh cho người đọc về một thế giới chưa bao giờ ít tính người hơn thế như Maupassant từng nhận định. Thậm chí, để nhấn mạnh nỗi ám ảnh trước đời sống, tác giả còn dùng cách viết đầy yếu tố kì ảo. Một số tác phẩm như vậy được in trong cuốn Truyện ngắn kỳ lạ mà ở đó người đọc cảm nhận được sự lên ngôi, chi phối của đồ vật, của sự cô đơn, của sự giả dối tận cùng... Ông đã đẩy sự bi quan, vỡ mộng, tuyệt vọng về con người lên thành triết lý. Càng về cuối thế kỷ XIX, sự “ly khai” hình thức văn chương thiên về quan sát, miêu tả bên ngoài càng rõ rệt. Nhà văn ít quan tâm hơn đến hiện thực bên ngoài mà thiên về miêu tả diễn biến tâm lý phức tạp của nhân vật, thường là nhân vật “tôi” – người kể chuyện. Thậm chí những nguyên nhân xã hội của hành vi và hành động của nhân vật “bị hạ xuống mức chỉ còn là cái búng ban đầu” (Сучков Б.Л., 1977a, Hoàng Ngọc Hiến và cộng sự dịch, 1980: tr.280) để làm nổi bật những mặt đối lập trong tâm hồn con người để “nghiên cứu thế giới tâm hồn bên trong của con người bị tách rời khỏi môi trường xã hội” (Сучков Б.Л., 1977, Hoàng Ngọc Hiến và cộng sự dịch, 1980a: tr.284). Đây là những tiền đề để chủ nghĩa hiện đại ra đời trong văn học thế kỷ XX. 5. Kết luận Bài viết này nhằm khái quát sự bước phát triển mới của dòng văn học hiện thực Pháp cuối thế kỷ XIX mà dấu ấn sâu đậm nhất là sự ra đời và phát triển của dòng văn học tự nhiên chủ nghĩa. Tuy nhiên, bài báo chưa quan tâm đúng mức đến văn học Công xã Paris – dòng văn học được xếp vào dòng văn học hiện thực nhưng mang đặc điểm khác biệt, cái mà sang thế kỷ XX được gọi là tiền thân của văn học xã hội chủ nghĩa. Văn học hiện thực Pháp cuối thế kỷ XIX nói riêng, tổng hòa các dòng văn học Pháp cuối thế kỷ XIX nói chung trong mối quan hệ với các nền văn học lớn của thế giới lúc bấy giờ như văn học Nga, Anh, Mỹ là tiền đề cho sự ra đời và phát triển của chủ nghĩa hiện đại ở thế kỷ XX. Đây cũng là giai đoạn văn học có ảnh hưởng rất sâu sắc đến văn học Việt Nam nói riêng, văn học thế giới nói chung. Hiểu về sự vận động của văn học hiện thực Pháp có ý nghĩa rất quan trọng trong việc hiểu sự vận động của văn học Việt Nam giai đoạn 1930-1945 nói riêng, sự vận động của văn học hiện đại thế giới nói chung. Hơn nữa, đối với các nhà nghiên cứu văn học, giai đoạn văn học này rất hấp dẫn vì còn nhiều khoảng trống để nghiên cứu. Đây chính là tiền đề cho các nghiên cứu tiếp theo của người nghiên cứu. Tài liệu tham khảo Lê Nguyên Cẩn (2014). Tiểu thuyết phương Tây thế kỷ XIX. Hà Nội, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội. Darcos, X. (1992). Histoire de la littérature française. Phan Quang Định dịch (1997). Lịch sử văn học Pháp. Nxb Văn hóa thông tin. Đỗ Đức Dục (1981). Chủ nghĩa hiện thực phê phán trong văn học phương Tây. Hà Nội, Nxb Khoa học xã hội. Đỗ Đức Dục (1972). Chủ nghĩa hiện thực phê phán trong văn học phương Tây từ nửa sau thế kỷ XIX bước sang thế kỉ XX. Tạp chí Văn học, 3, tr. 91. Đỗ Đức Dục (1981). Chủ nghĩa hiện thực phê phán trong văn học phương Tây (dưới ánh sáng quan điểm Mác-xít). Hà Nội, Nxb Khoa học xã hội. Đặng Anh Đào, Hoàng Nhân, Lương Duy Trung, Nguyễn Đức Nam, Nguyễn Thị Hoàng, VAN HIEN UNIVERSITY JOURNAL OF SCIENCE VOLUME 6 NUMBER 3 48 Nguyễn Văn Chinh, Phùng Văn Tửu (2012). Văn học phương Tây. Nxb Giáo dục Việt Nam. Fortassier, R. (1982). Le roman francsais au 19è siècle. Nguyễn Thanh dịch (1999). Tiểu thuyết Pháp thế kỷ XIX. Hà Nội, Nxb Thế giới. Nguyễn Như Hiền, Lê Đình Lượng, Đái Duy Ban (2005). Những phát minh trong khoa học sự sống. Hà Nội, Nxb Khoa học và kỹ thuật. Đỗ Đức Hiểu (1978). Văn học công xã Pari. Hà Nội, Nxb Đại học và Trung học chuyên nghiệp. Nguyễn Hữu Hiếu (2010). Khảo sát sự chuyển hướng thẩm mĩ văn học Pháp cuối thế kỷ XIX. Báo cáo kết quả đề tài nghiên cứu khoa học cấp Đại học Quốc gia. Tp. Hồ Chí Minh, Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn Tp. Hồ Chí Minh. Thái Thu Lan (1991). Emin Dôla – nhà văn của những thể nghiệm và thử thách. Tạp chí Văn học, 5, tr. 42. Thái Thu Lan (2001). Các tác giả lớn của văn học Pháp thế kỉ XIX. Tp. Hồ Chí Minh, Nxb Giáo dục. Thái Thu Lan (2005). Jules Vallès – nhà văn xuất sắc của Công xã Paris. Nxb Đại học quốc gia TP. HCM. De Ligny C., Rousselot M. (1998). La littérature française. Trịnh Thu Hồng, Đỗ Phương Mai dịch (1998). Văn học Pháp. Tp. Hồ Chí Minh, Nxb Giáo dục. Hoàng Nhân (1997). Tuyển tập văn học Pháp (tập II – thế kỷ XIX, XX). Thành phố Hồ Chí Minh, Nxb Trẻ và Hội nghiên cứu và giảng dạy văn học Tp. Hồ Chí Minh. Hoàng Nhân, Nguyễn Ngọc Ban, Đỗ Đức Hiểu (1979). Lịch sử văn học phương Tây, tập 2. Tp. Hồ Chí Minh, Nxb Giáo dục. Hà Thị Thu Phương (2016). Sự thay đổi thẩm mỹ của dòng văn học hiện thực qua truyện ngắn Guy de Maupassant. Luận văn Thạc sĩ. Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn TP. HCM. Đoàn Rạng, Vũ Quý Mão, Trần Như Thuần, Đỗ Quang Giai (1962). Mười thế kỷ văn chương Pháp (quyển II). Sài Gòn, Khai Trí xuất bản. Lê Hồng Sâm, Đặng Thị Hạnh (1981). Văn học lãng mạn và văn học hiện thực phương Tây thế kỷ XIX. Hà Nội, Nxb Đại học và trung học chuyên nghiệp. Lê Hồng Sâm (1989). Guxtav Phlôbe, một gương mặt bi đát trong văn học Pháp. Tạp chí Văn học, 3, tr. 43. Cao Chi, Chu Hảo, Pierre Darriulat, Nguyễn Xuân Xanh, Phạm Xuân Yêm (chủ biên) (2014). Khi văn chương vinh danh khoa học (Kỳ 1, 2, 3). Trích từ Kỷ yếu Hạt Higgs và Mô Hình Chuẩn. van-chuong-vinh-danh-khoa-hoc-ky-1-7499. Truy cập ngày: 20 tháng 8 năm 2017. Lê Ngọc Tân (2002). Chủ nghĩa tự nhiên, Zola và tiểu thuyết. Tp. Hồ Chí Minh, Nxb Hội Nhà văn. Nguyễn Thị Anh Thảo (2001). Tiểu thuyết Pháp thế kỷ XIX và những ảnh hưởng đối với một số nhà văn Việt Nam tiêu biểu thời kỳ 1932- 1945. Luận án Tiến sĩ ngành Lý thuyết và Lịch sử văn học. Viện Khoa học Xã hội tại Tp. Hồ Chí Minh. Đặng Thanh Tịnh (biên soạn) (2006). Lịch sử nước Pháp. Nxb Văn hóa - Thông tin. Phùng Văn Tửu, Lê Hồng Sâm (chủ biên) (2005). Lịch sử văn học Pháp thế kỷ XVIII và thế kỷ XIX (tập II). Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội. Сучков Б.Л. (1977a). Исторические судьбы реализма. Hoàng Ngọc Hiến và những người khác (dịch từ nguyên bản tiếng Nga) (1980). Số phận lịch sử của chủ nghĩa hiện thực (suy nghĩ về phương pháp sáng tác), Tập 1. Tp. Hồ Chí Minh, Nxb Tác phẩm mới, Hội Nhà văn Việt Nam. Сучков Б.Л. (1977b). Исторические судьбы реализма. Hoàng Ngọc Hiến và những người khác (dịch từ nguyên bản tiếng Nga) (1982). Số phận lịch sử của chủ nghĩa hiện thực (suy nghĩ về phương pháp sáng tác), Tập 2. Hà Nội, Nxb Tác phẩm mới, Hội Nhà văn Việt Nam. Lưu Tô Xương, Quang Nhân Hồng, Hàn Thừa Văn (chủ biên) (2002). Lịch sử thế giới thời cận đại (1640-1900); Tập 3. Nxb Tổng hợp TP. HCM. Zola, Z. (1881a). Le Roman Expérimental. Paris, Cinquième edition, G. Charpentier édition. Zola, Z. (1881b). Les Romanciers naturalists. Paris, G. Charpentier édition.
File đính kèm:
- su_van_dong_cua_van_hoc_hien_thuc_phap_cuoi_the_ky_xix.pdf