Phẫu thuật bướu thể cảnh sau khi bơm tắc mạch tại bệnh viện nhân dân gia định nhân ba trường hợp
Bướu thể cảnh (ở cổ) là loại bệnh hiếm gặp. Đặc trưng của bướu là phát triển ở lớp áo ngoài động mạch, vị trí phía trong chỗ chia đôi của động mạch cảnh và có tăng sinh nhiều mạch máu. Máu nuôi chủ yếu từ động mạch cảnh ngoài và các nhánh khác, điển hình từ động mạch hầu lên. Chúng tôi Báo cáo 3 trường hợp bướu thể cảnh, tại bệnh viện Nhân dân Gia Định, được điều trị bằng phẫu thuật sau khi đã bơm tắc mạch để giảm tưới máu bướu. Kết quả, cả 3 trường hợp đều tốt, không có biến chứng. Tắc mạch trước mổ, bóc tách cẩn trọng và dùng dao siêu âm là yếu tố quan trọng để thành công
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Bạn đang xem tài liệu "Phẫu thuật bướu thể cảnh sau khi bơm tắc mạch tại bệnh viện nhân dân gia định nhân ba trường hợp", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Phẫu thuật bướu thể cảnh sau khi bơm tắc mạch tại bệnh viện nhân dân gia định nhân ba trường hợp
ĐẦU VÀ CỔ TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 63 PHẪU THUẬT BƯỚU THỂ CẢNH SAU KHI BƠM TẮC MẠCH TẠI BỆNH VIỆN NHÂN DÂN GIA ĐỊNH NHÂN BA TRƯỜNG HỢP. TRỊNH MINH TRANH1, VŨ QUANG VIỆT2, PHẠM THỌ TUẤN ANH3, TIÊU CHÍ ĐỨC4, TRẦN HỮU PHƯỚC5 TÓM TẮT Bướu thể cảnh (ở cổ) là loại bệnh hiếm gặp. Đặc trưng của bướu là phát triển ở lớp áo ngoài động mạch, vị trí phía trong chỗ chia đôi của động mạch cảnh và có tĕng sinh nhiều mạch máu. Máu nuôi chủ yếu từ động mạch cảnh ngoài và các nhánh khác, điển hình từ động mạch hầu lên. Chúng tôi báo cáo 3 trường hợp bướu thể cảnh, tại bệnh viện Nhân dân Gia Định, được điều trị bằng phẫu thuật sau khi đã bơm tắc mạch để giảm tưới máu bướu. Kết quả, cả 3 trường hợp đều tốt, không có biến chứng. Tắc mạch trước mổ, bóc tách cẩn trọng và dùng dao siêu âm là yếu tố quan trọng để thành công. ABSTRACT Carotid body tumors (CBTs) are rare. These tumors develop within the adventitia of the medial aspect of the carotid bifurcation. The blood supply of CBT is abundant, which is mainly from external carotid artery and branches, typically the ascending pharyngeal artery. We report three cases of CBT who were diagnosed and operated on at our hospital with preoperatively arterial embolization. Three of them received excellent outcome. Prepoperative embolization and dissection skills with harmonic scalpel is secret to success. 1 TS.BS. Trưởng Đơn vị Ung Bướu - Bệnh viện Nhân Dân Gia Định 2 BSCKII. Trưởng Khoa Lồng ngực mạch máu bướu cổ - Bệnh viện Nhân Dân Gia Định 3 PGS.TS. Đại học Y dược TP.HCM 4 ThS.BS. Phó Trưởng Khoa Lồng ngực Mạch máu bướu cổ - Bệnh viện Nhân Dân Gia Định 5 BS. Khoa Lồng ngực Mạch máu bướu cổ - Bệnh viện Nhân Dân Gia Định ĐẶT VẤN ĐỀ Bướu thể cảnh ở cổ, là bướu cận hạch thần kinh-nội tiết xuất phát từ tế bào cận hạch của thể cảnh. Đây là loại bướu phát triển chậm, có tĕng sinh nhiều mạch máu, thường nằm ở thành sau-trong ở chỗ chia đôi của động mạch cảnh chung. Bướu thể cảnh là bướu thường gặp nhất trong số các bướu cận hạch vùng đầu cổ. Phẫu thuật là tiêu chuẩn vàng để điều trị khỏi bệnh. Albert là người đầu tiên cắt bỏ bướu thể cảnh thành công vào nĕm 1889, và Gordon-Taylor đã mô tả bóc bướu an toàn dưới áo ngoài động mạch vào nĕm 1940. Từ thập niên 1980, cột triệt mạch động mạch nuôi bướu trong lúc mổ đã được sử dụng rộng rãi. Mặc dù những tiến bộ về kỹ thuật mổ và sự hỗ trợ của chẩn đoán hình ảnh đã làm giảm đáng kể tỉ lệ tử vong. Tuy nhiên, các biến chứng thần kinh- mạch máu chu phẫu vẫn còn phải quan tâm, nhất là vấn đề chảy máu trong mổ và tổn thương thần kinh sọ. Việc bơm tắc mạch nuôi bướu trước mổ và sử dụng dao siêu âm trong mổ có hiệu quả như thế nào? Chúng tôi xin báo cáo 3 trường hợp bướu thể cảnh điều trị tại Bệnh viện Nhân Dân Gia Định. BỆNH ÁN Bệnh nhân thứ nhất là nam, sinh nĕm 1969, số nhập viện 29337, vào viện ngày 22/06/2015 vì khối u ở góc hàm bên trái kích thước khoảng 5cm và đập theo mạch, sinh hiệu bình thường. BN được siêu âm, chụp động mạch cản quang, và cắt lớp điện toán vùng cổ. Kết quả cho thấy khối choán chỗ ở khoang cảnh bên trái, ngay vị trí chia đôi động mạch cảnh chung trái. Khối này đậm độ mô mềm, bắt thuốc tương phản mạnh khá đồng nhất, giới hạn rõ, kích thước 28x32x50mm; đẩy động mạch cảnh ngoài ra trước-trong, và đẩy động mạch cảnh trong ra sau-ngoài. Đo nồng độ catecholamines trong máu và nước tiểu, kết quả đều bình thường. Kết luận: bướu thể cảnh cổ trái. BN được thực hiện bơm tắc động mạch nuôi bướu một ngày trước đó để làm giảm lượng máu trong mổ. ĐẦU VÀ CỔ TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 64 Tường trình bơm tắc mạch ngày 30/07/2015: tổn thương dạng u, kích thước 30x30x50mm, ngang chỗ chia đôi động mạch cảnh chung trái, rất giàu mạch máu, cấp máu chủ yếu bởi các nhánh sau của động mạch hầu lên và một phần cực dưới từ nhánh của động mạch mặt kèm hồi lưu tĩnh mạch sớm. Bơm tắc hoàn toàn nhánh nuôi bướu từ động mạch hầu lên. Còn vùng cấp máu rất ít cực dưới u từ nhánh động mạch mặt. BN được mổ ngày 31/07/2015 cắt bỏ bướu thể cảnh với dao siêu âm. Khi tiếp cận, khối bướu thấy sưng nề nhẹ, bóc tách thấy nhiều mạch máu tĕng sinh quanh bướu nhưng bóc tách được do đã bơm tắc mạch trước đó, máu rỉ rả ít. Bướu ở chỗ chạc ba động mạch cảnh có kích thước 50x30mm, viêm dính mô xung quanh. Kiểm soát động mạch cảnh chung, cảnh trong và ngoài rồi bóc tách tiếp khối bướu ra khỏi vùng chạc ba và động mạch cảnh trong và ngoài. Bảo tồn thần kinh XI. Thời gian mổ 1 giờ 30 phút và máu mất khoảng 50ml. Chẩn đoán sau mổ là bướu thể cảnh ở cổ trái, độ II Shamblin. Hậu phẫu, BN tốt và xuất viện ngày 04/8/2015. Bướu thể cảnh cổ trái Bệnh nhân thứ hai, sinh nĕm 1949, nam,số nhập viện 50187, vào viện 08/10/2015 vì khối u ở vùng cổ phải kích thước 40x50mm, di động kém và đập theo mạch. BN được chụp MSCT cổ trước khi nhập viện (07/10/2015) cho thấy khối tổn thương choán chỗ với đậm độ hỗn hợp trong khoang cảnh phải, kích thước 35x50mm, bờ dạng đa cung, bắt thuốc cản quang mạnh không đồng nhất ở ngoại vi, kém ở trung tâm, rộng nhẹ chỗ chia đôi động mạch cảnh chung phải. Kết luận là u trong khoang cảnh, nghĩ u cuộn cảnh, phân biệt Schwannoma. BN được chụp MRI vùng cổ (18/10/2015): Ở vị trí chia đôi động mạch cảnh phải có khối choán chỗ, giới hạn rõ, hình bầu dục, kích thước 60x45x44mm, làm rộng chỗ chia đôi và đẩy động mạch cảnh trong và cảnh ngoài ra trước ngoài, bao quanh đoạn động mạch cảnh trong và cảnh ngoài. Đo catecholamines trong máu và nước tiểu thấy bình thường. BN được chẩn đoán u cuộn cảnh. BN được bơm tắc mạch (27/10/2015) với khối u tĕng sinh mạch được cấp máu bởi động mạch hầu lên, thông nối với động mạch chẩm. Vào động mạch cảnh ngoài phải, chọn bơm tắc chọn lọc và kiểm tra thấy lượng máu giảm hơn 90% ở khối u. BN được phẫu thuật (ngày 28/10/2015), tương tự như lần mổ trước, thời gian mổ là 2 giờ 30 phút. Hậu phẫu ổn định và BN xuất viện không biến chứng. Chụp mạch máu cản quang: Trước tắc mạch Chụp mạch máu máu cản quang: Sau tắc mạch Bệnh nhân thứ ba sinh nĕm 1999, nữ, số nhập viện 62833/16. BN chậm phát triển tâm thần, thể trạng như trẻ em, cao 1,3m và nặng 35kg, có khối u vùng cổ phải kích thước 50mm. Chụp CT scan (08/12/2016) thấykhối choáng chỗ ở khoang cảnh phải, kích thước 37x40x35mm, xuất phát từ hành cảnh ôm quanh động mạch cảnh trong và cảnh ngoài phải tính chất phù hợp u cuộn cảnh. Đo catecholamines trong máu và nước tiểu,kết quả bình thường. BN được chỉ định phẫu thuật cắt bỏ bướu với bơm tắc mạch 1 ngày trước mổ. ĐẦU VÀ CỔ TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 65 BN được làm tắc mạch u ngày 27/12/2016. Khối u có nhiều máu nuôi và chỉ bơm tắc được khoảng 60% lượng máu tưới u. BN được mổ ngày 28/12/2016. Thời gian mổ là 3 giờ 50 phút, ca này, BN được cột động mạch cảnh ngoài phải để thuận lợi cắt bỏ bướu. Hình kết thúc mổ với động mạch cảnh trong và ngoài tách như cái ná BÀN LUẬN Bướu thể cảnh là bệnh hiếm và phức tạp. Cần nghĩ đến nó trong lúc tiếp nhận để chẩn đoán và điều trị thích hợp. Lâm sàng thường là bướu ở cổ đập theo mạch (do nằm cạnh động mạch cảnh) và không triệu chứng. Đa số bướu tiến triển chậm, nhưng nếu không điều trị thì bướu sẽ phát triển thành khối lớn ở cổ, chèn ép thần kinh làm ảnh hưởng chức nĕng tương ứng. Phẫu thuật cắt bỏ là điều trị chọn lựa bất cứ khi nào bướu có thể cắt bỏ được[11]. Cắt bỏ bướu có thể khó khĕn do bướu nằm sát các thần kinh sọ, các động mạch cảnh, và các cấu trúc cơ thể học phức tạp vùng đầu cổ[11]. Về chẩn đoán bướu thể cảnh, bước đầu thường là chỉ định siêu âm Doppler cho một bướu vùng cổ. Kết quả siêu âm sẽ gợi ý chẩn đoán rồi mới chụp cắt lớp điện toán cản quang hoặc chụp cộng hưởng từ để chẩn đoán xác định[3]; và còn giúp đánh giá kích thước bướu, mức độ xâm lấn, và tương quan bướu với các cấu trúc xung quanh. Hình ảnh điển hình là bướu echo kém, tĕng sinh mạch, nằm ở chỗ chia của động mạch cảnh. Cần biết là không được chọc hút kim làm tế bào học vì có thể phạm động mạch cảnh hoặc chảy máu nhiều ở bướu thể cảnh tĕng sinh mạch, còn sinh thiết là chống chỉ định vì có thể gây chảy máu nguy hiểm tính mạng. Do đó, đánh giá siêu âm ban đầu rất quan trọng. Cả ba trường hợp của chúng tôi đều bắt đầu bằng siêu âm và chụp cắt lớp điện toán cản quang hoặc chụp cộng hưởng từ sau đó, để cho chẩn đoán xác định. Siêu âm khởi đầu rất quan trọng để tránh làm chọc hút tế bào hoặc sinh thiết bướu, có thể gây xuất huyết nguy hiểm cho bệnh nhân. Chúng tôi không chụp mạch máu để chẩn đoán bướu thể cảnh, nhưng dùng để bơm tắc mạch, giảm tưới máu bướu khi mổ. Tuy nhiên, trước khi làm tắc mạch, bệnh nhân được xét nghiệm adrenaline, noradrenaline, và dopamine trong máu và nước tiểu thường qui dù không có triệu chứng cao huyết áp, mạch nhanh. Nếu chỉ số xét nghiệm cao thì phải dùng thuốc chẹn alpha trước thủ thuật hoặc phẫu thuật để ngĕn chặn cao huyết áp nguy hiểm. Tỉ lệ bướu có hoạt động nội tiết rất ít, khoảng 1%-3%[4]. (2Offergeld C, Brase C, Yaremchuk S, Mader I, Rische HC, Glasker S, Schmid KW, Wiech T, Preuss SF, Suarez C, Kopec T, Patocs A, WohllkN, Malekpour M, Boedeker CC, Neumann HP. Head and neck paragangliomas: clinical and molecular genetic classifi cation. Clinics (Sao Paulo) 2012; 67 (Supp 1): 19-28). May mắn là cả ba trường hợp của chúng tôi đều có xét nghiệm cathecholamine bình thường nên diễn tiến bơm tắc mạch sau đó thuận lợi. Bướu thể cảnh đã được phân độ theo Shamblin từ nĕm 1971, dựa vào liên quan của bướu với động mạch cảnh trong và ngoài, để đánh giá độ khó của bệnh theo ba mức. Shamblin nhóm I gồm bướu khu trú ở chỗ chia động mạch cảnh và không dính, hoặc dính ít với mạch máu xung quanh, dễ cắt bỏ; nhóm II bướu dính vừa hoặc bao quanh một phần mạch máu; nhóm III bướu lớn và bao quanh mạch máu, thường phải cắt bỏ bướu với động mạch cảnh. Tuy nhiên, ông không đề cập đến kích thước bướu. Nói chung, bướu càng lớn thì càng khó do dính và bao quanh mạch máu nhiều hơn nhưng không luôn nhất thiết như vậy. Luna-Ortiz đã bổ sung phân độ Shamblin với nhóm I nhỏ hơn 4cm, không dính mô hoặc mạch máu xung quanh, cắt bỏ không khó; nhóm II lớn hơn 4cm, dính thâm nhiễm một phần vào động mạch cảnh, cắt bỏ khó khĕn; nhóm III cần phải can thiệp vào mạch máu khi cắt bỏ. Chúng tôi dựa vào hình ảnh cắt lớp điện toán để phân loại Shamblin. Có 2 bướu Shamblin loại II kích thước 50mm và bướu còn lại Shamblin III kích thước 40mm. Tắc mạch là một bước quan trọng trước mổ. Tắc mạch một bướu lớn, tĕng sinh mạch nhiều, sẽ tạo thuận lợi cho phẫu thuật vì làm giảm tưới máu bướu và làm bướu nhỏ lại[10,11]. Trường hợp điển hình, làm tắc động mạch hầu lên có thể làm giảm đến 75% lượng máu đến bướu. Thời điểm tối ưu để làm tắc mạch là 1 đến 2 ngày trước mổ[5,12]. Nếu tiên lượng lúc mổ có thể phải kẹp hoặc tái tạo động mạch cảnh trong thì có thể làm thử nghiệm tắc nghẽn động mạch bằng cách luồn và bơm bóng ĐẦU VÀ CỔ TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 66 chẹn trong lòng động mạch. Khám ngay bệnh nhân có dấu thần kinh định vị thì xả bóng để dòng máu thông trở lại. Nếu bệnh nhân vẫn bình thường thì cho giảm nhẹ huyết áp (tâm thu khoảng 90-100) mà vẫn không có dấu thần kinh thì bệnh nhân sẽ chịu được cột động mạch cảnh trong mà không cần tái tạo. Ba bệnh nhân của chúng tôi đều không có kế hoạch làm thử nghiệm này. Biến chứng có thể của làm tắc mạch (0-13%) như hoại tử da, mù mắt, tổn thương thần kinh sọ nhũn não và tử vong nên một số trung tâm không làm thường qui[1,2,10]. Nói chung, nếu bướu Shamblin I thì không cần làm, nên dành cho bướu Shamblin II và III. Cả ba trường hợp của chúng tôi đều được làm tắc mạch ngày trước mổ và cắt bỏ bướu vào ngày hôm sau. Chúng tôi nghĩ cắt bỏ thuận lợi nhờ có tắc mạch trước đó, giúp thời gian mổ khoảng 2g30 và máu mất ít hơn 50ml. Phẫu thuật cắt bỏ bướu bắt đầu bằng đường rạch dọc bờ trước cơ ức-đòn-chủm, bóc tách và kiểm soát động mạch cảnh chung, cảnh trong và cảnh ngoài. Dùng dao siêu âm để cắt bỏ bướu dọc theo lớp dưới vỏ động mạch. Trường hợp cần cắt đoạn động mạch khi lấy bướu thì dùng tĩnh mạch tự thân để ghép nối động mạch và dùng aspirin ít nhất 1 nĕm tùy tình trạng bệnh đi kèm. Nếu dùng ống ghép nhân tạo thì dùng chống kết tập tiểu cầu kép liên tục, không giới hạn thời gian. Hiện có ít dữ liệu về thời gian điều trị chống kết tập tiểu cầu ở bệnh nhân ghép nối bằng ống nhân tạo[11]. Ba trường hợp của chúng tôi không cần ghép nối. Hai trường hợp đầu bảo vệ mạch máu và các cơ quan xung quanh tốt. Trường hợp thứ ba thì cần hy sinh động mạch cảnh ngoài vì bướu bao quanh động mạch và mạch máu còn tĕng sinh nhiều dù đã làm tắc mạch. Có thể chẹn động mạch cảnh ngoài tạm thời để giảm tưới máu trong lúc bóc tách[5], nhưng chúng tôi thấy không cần thiết vì bơm tắc mạch đã giúp phẫu thuật thuận lợi. Khi cắt bỏ bướu xong thì chỗ phân chia động mạch cảnh trong và ngoài vẫn còn banh ra như cái ná. Biến chứng thần kinh do phẫu thuật thay đổi từ 11% đến 50% tùy báo cáo[5,6]. Bướu có độ Shamblin càng cao thì càng dễ biến chứng[7], nhất là bướu lớn cần những thủ thuật phức tạp trong mổ. Các tổn thương gồm liệt vĩnh viễn hoặc thoáng qua các thần kinh X, thần kinh hạ thiệt, chuỗi giao cảm cổ, nhánh hàm của thần kinh mặt[6,8]. Ngoài ra, còn biến chứng chảy máu sau mổ và nhũn não chu phẫu với tỉ lệ từ 0% ở người có kinh nghiệm và đến 11% ở vài báo cáo do thao tác kém trên động mạch[6]. Giải phẫu bệnh của ba trường hợp đọc là bướu cận hạch (paraganglioma) không xâm lấn vỏ bao kèm mô hạch tĕng sinh phản ứng. Cả 3 bệnh nhân của chúng tôi đều không có biến chứng. Dẫn lưu cổ rút bỏ 1-2 ngày sau mổ và xuất viện sau đó. Về điều trị, phẫu thuật cắt bỏ bướu vẫn là tiêu chuẩn vàng để điều trị khỏi bệnh với tỉ lệ gần 100% đối với bướu lành. Tuy nhiên, do bướu tiến triển chậm, nên có những ý kiến khác nhau. Một số cho rằng bướu nhỏ hơn 3cm và có tiết catecholamine thì nên theo dõi. Số khác cho rằng bướu nhỏ thì mổ dễ hơn và ít hoặc không có biến chứng[9]. Chúng tôi theo ý kiến sau, chẩn đoán xong là mổ. Tuy nhiên, bệnh nhân của chúng tôi bướu to vì hoàn cảnh khó khĕn nên khi bướu làm biến dạng mặt và không cúi đầu được thì mới đi khám bệnh, KẾT LUẬN Xử trí bướu thể cảnh vẫn còn phức tạp và khó khĕn về kỹ thuật. Với ba trường hợp bướu thể cảnh, chúng tôi xin lưu ý: Bướu vùng cổ dưới hàm khi siêu âm cần chú ý bướu thể cảnh để không chọc kim chẩn đoán tế bào học hoặc sinh thiết;xác định chẩn đoán bằng chụp cắt lớp điện toán hoặc cộng hưởng từ. Sau đó, cần xét nghiệm catecholamine và làm tắc mạch trước mổ. Thực hiện phẫu thuật cắt bỏ sau 24-48 giờ tắc mạch. Làm tắc mạch và dùng dao siêu âm, theo chúng tôi là bước đột phá giúp xử trí bướu thể cảnh tốt hơn so với mổ thường qui trước đây./. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Persky MS, Setton A, Niimi Y, et al. Combined endovascular and surgical treatment of head and neck paragangliomas-a team approach. Head Neck 2002; 24: 423. 2. Wang SJ, Wang MB, Barauskas TM, Calcaterra TC. Surgical management of carotid body tumors. Otolaryngol Head Neck Surg 2000; 123: 202. 3. Dematte S, DiSarra D, Schiavi F, Casadei A, Opocher G. Role of ultrasound and color Doppler imaging in detection of carotid paragangliomas. J Ultrasound 2012; 15 (3): 158-163). 4. Offergeld C, Brase C, Yaremchuk S, Mader I, Rische HC, Glasker S, Schmid KW, Wiech T, Preuss SF, Suarez C, Kopec T, Patocs A, Wohllk N, Malekpour M, Boedeker CC, Neumann HP. Head and neck paragangliomas: clinical and molecular genetic classifi cation. Clinics (Sao Paulo) 2012; 67(Supp 1): 19-28). 5. O’Neill S, O’Donnell M, Harkin D, Loughrey M, Lee B, Blair P. A 22-year northern Irish experience of carotid body tumours. Ulster Med J 2011; 80 (3): 133-140. ĐẦU VÀ CỔ TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 67 6. Luna-Ortiz K, Rascon-Ortiz M, Villavicencio- Valencia V, Granados-Garcia M, Herrera-Gomez A. Carotid body tumors: review of a 20-year experience. Oral Oncol 2005; 41 (1): 56-61. 7. Obholzer RJ, Hornigold R, Connor S, Gleeson MJ. Classificationand management of cervical paragangliomas. Ann R Coll Surg Engl 2011; 93 (8): 596-602. 8. Neskey DM, Hatoum G, Modh R, Civantos F, Telischi FF, Angeli SI, Weed D, Sargi Z. Outcomes after surgical resection of head and neck paragangliomas: a review of 61 patients. Skull Base 2011; 21(3): 171-176). 9. Lim JY, Kim J, Kim SH, Lee S, Lim YC, Kim JW, Choi EC. Surgicaltreatment of carotid body paragangliomas: outcomes and complicationsaccording to Shamblin classifi cation. Clin Exp Otorhinolaryg 2010; 3 (2): 91-95. 10. Power AH, Bower TC, Kasperbauer J, et al. Impact of preoperative embolization on outcomes of carotid body tumor resections. J Vasc Surg 2012; 56:979. 11. Jennifer L. Dixon, Marvin D. Atkins, William T. Bohannon, Clifford J. Buckley, and Terry C. Lairmore. Surgical management of carotid body tumors: a 15-yearsingle institution experience employing an interdisciplinaryapproach. Proc (Bayl Univ Med Cent) 2016; 29 (1): 16-20. 12. White JB, Link MJ, Cloft HJ. Endovascular embolization of paragangliomas:a safe adjuvant to treatment. J Vac Interv Neurol 2008; 1 (2): 37- 41.
File đính kèm:
- phau_thuat_buou_the_canh_sau_khi_bom_tac_mach_tai_benh_vien.pdf