Phân tích các yếu tố sinh-Địa-hóa trong mối liên quan với xu hướng sử dụng đất trên địa hình bazan khu vực Đồng Nai và phụ cận
Địa hình bazan phân bố khá rộng rãi ở Tây Nguyên và Đông Nam Bộ. Hiện tại, chính sách
sử dụng đất trên các loại địa hình bazan chưa thực sự phù hợp, ảnh hưởng tới sự tăng trưởng kinh tế
và tạo ra những tác động tiêu cực đến môi trường, đặc biệt là suy thoái đất và nguồn nước. Nghiên
cứu này thực hiện việc đánh giá điều kiện sinh-địa-hóa trên ba loại địa hình bazan, thông qua 16 chỉ
số viễn thám. Mối quan hệ giữa các chỉ số này được phân tích dựa trên ma trận tương quan và mô
hình phương trình cấu trúc (SEM), phản ánh các xu hướng sử dụng đất khác nhau trên ba loại địa
hình bazan. Các kết quả nghiên cứu khuyến khích việc quản lý, sử dụng đất theo các hướng (i) mở
rộng và duy trì các khu rừng được bảo vệ trên địa hình bazan Miocen; (ii) phát triển nông nghiệp
trên địa hình bazan Pliocen – Pleistocen giữa; và (iii) cải thiện đất và phát triển du lịch sinh thái trên
địa hình bazan Pleistocen muộn.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Tóm tắt nội dung tài liệu: Phân tích các yếu tố sinh-Địa-hóa trong mối liên quan với xu hướng sử dụng đất trên địa hình bazan khu vực Đồng Nai và phụ cận
VNU Journal of Science: Earth and Environmental Sciences, Vol. 36, No. 2 (2020) 79-89 79 Original Article Analyzing Bio-Geo-Chemical Factors in Relation to Land Use Trends on Basalt Terrain in Dong Nai and Nearby Areas Dang Kinh Bac , Dang Van Bao VNU University of Science, Vietnam National University, Hanoi, 334 Nguyen Trai, Hanoi, Vietnam Received 15 January 2020 Revised 16 February 2020; Accepted 18 February 2020 Abstract: Basalt terrain is widely distributed in the Central Highlands and Southeast of Vietnam. Currently, land use policies on basalt types are not really suitable, affecting economic growth and creating negative impacts on the environment, especially soil and water pollution. This study carried out the assessment of bio-geochemical conditions in three types of basalt terrain, using 16 remote sensing indices. The relationship between these indices is analyzed based on correlation matrix and structural equation model (SEM). The results show different land use management trends across the three basalt types. The results encourage the land-use management to (i) expand and maintain the protected forests on Miocene basalt; (ii) develop agriculture on the Pliocene - Pleistocene basalt terrain; and (iii) improve soil quality and ecotourism on late Pleistocene basalt terrain. Keywords: Basalt terrain, bio-geo-chemical factor, remote sensing index, structural equation model, Dong Nai. ________ Corresponding author. E-mail address: dangkinhbac@hus.edu.vn https://doi.org/10.25073/2588-1094/vnuees.4542 D.K. Bac, D.V. Bao / VNU Journal of Science: Earth and Environmental Sciences, Vol. 36, No. 2 (2020) 79-89 80 Phân tích các yếu tố sinh-địa-hóa trong mối liên quan với xu hướng sử dụng đất trên địa hình bazan khu vực Đồng Nai và phụ cận Đặng Kinh Bắc , Đặng Văn Bào Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, Đại học Quốc gia Hà Nội, 334 Nguyễn Trãi, Hà Nội, Việt Nam Nhận ngày 15 tháng 01 năm 2020 Chỉnh sửa ngày 16 tháng 02 năm 2020; Chấp nhận đăng ngày 18 tháng 02 năm 2020 Tóm tắt: Địa hình bazan phân bố khá rộng rãi ở Tây Nguyên và Đông Nam Bộ. Hiện tại, chính sách sử dụng đất trên các loại địa hình bazan chưa thực sự phù hợp, ảnh hưởng tới sự tăng trưởng kinh tế và tạo ra những tác động tiêu cực đến môi trường, đặc biệt là suy thoái đất và nguồn nước. Nghiên cứu này thực hiện việc đánh giá điều kiện sinh-địa-hóa trên ba loại địa hình bazan, thông qua 16 chỉ số viễn thám. Mối quan hệ giữa các chỉ số này được phân tích dựa trên ma trận tương quan và mô hình phương trình cấu trúc (SEM), phản ánh các xu hướng sử dụng đất khác nhau trên ba loại địa hình bazan. Các kết quả nghiên cứu khuyến khích việc quản lý, sử dụng đất theo các hướng (i) mở rộng và duy trì các khu rừng được bảo vệ trên địa hình bazan Miocen; (ii) phát triển nông nghiệp trên địa hình bazan Pliocen – Pleistocen giữa; và (iii) cải thiện đất và phát triển du lịch sinh thái trên địa hình bazan Pleistocen muộn. Từ khoá: Địa hình bazan, sinh-địa-hóa, chỉ số viễn thám, mô hình phương trình cấu trúc, Đồng Nai. 1. Mở đầu Bazan Kainozoi ở Việt Nam chiếm diện tích 23.000 km2, phân bố tập trung ở Tây Nguyên, Trung Bộ và Đông Nam Bộ (khoảng 20.000 km2). Trên các vùng khác, bazan chỉ phân bố trên các diện tích nhỏ ở Điện Biên, Lai Châu, tây Thanh Hóa và Nghệ An. Địa hình baazan có nhiều lợi thế trong công tác bảo tồn và phát triển kinh tế - xã hội [1,2]. Bazan được phun trào trên bề mặt Trái Đất theo nhiều thời kỳ, trong các điều kiện tự nhiên khác nhau (đặc biệt là địa hình, khí hậu và lớp phủ thực vật), do vậy có các đặc điểm riêng về sinh - địa - hóa. Điều kiện sinh - địa - hóa của các khối bazan là yếu tố quan trọng để nhận dạng có tính định lượng về thành phần vật chất của chúng. Cho tới nay, việc ________ Tác giả liên hệ. Địa chỉ email: dangkinhbac@hus.edu.vn https://doi.org/10.25073/2588-1094/vnuees.4542 nghiên cứu đặc điểm khác biệt của các yếu tố này giữa các loại địa hình bazan vẫn chưa được làm rõ. Điều này dẫn tới việc sử dụng địa hình bazan chưa thật hiệu quả, các chính sách sử dụng đất ở đây chưa khuyến khích người dân địa phương phát triển các lĩnh vực kinh tế - xã hội phù hợp, không chỉ làm chậm tăng trưởng kinh tế mà còn dẫn đến những tác động tiêu cực đến môi trường [3]. Ví dụ, lớp đất màu mỡ hình thành trên đá bazan bị bóc đi do hoạt động khai thác bauxite phải trải qua khoảng thời gian dài mới phục hồi được [4]. Nhiều khu vực rừng nguyên sinh được chuyển đổi thành đất nông nghiệp, dẫn đến sự gia tăng xói mòn đất, các mối nguy hại cho hệ sinh thái tự nhiên [5]. Do đó, việc hiểu rõ điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội thông qua phân tích các nhân tố sinh-địa-hóa trên địa hình bazan D.K. Bac, D.V. Bao / VNU Journal of Science: Earth and Environmental Sciences, Vol. 36, No. 2 (2020) 79-89 81 sẽ là một trong các cơ sở khoa học quan trọng cho đề xuất định hướng quản lý, sử dụng đất phù hợp và đưa ra phản hồi/thay đổi chính sách sử dụng đất tại địa phương kịp thời và hiệu quả. Công nghệ viễn thám là công cụ hữu hiệu trong giám sát các quá trình sinh-địa-hóa trên các đối tượng tự nhiên khác nhau và đánh giá những tác động của con người lên Trái Đất từ cấp địa phương đến toàn cầu [6]. Viễn thám và GIS đã được sử dụng rộng rãi trong các lĩnh vực nông nghiệp, môi trường và đánh giá sinh thái [7]. Phân tích viễn thám đa thời gian và GIS cho phép xác định các xung đột giữa lợi ích kinh tế - môi trường và chính sách sử dụng đất. Qua đó, các nhà quản lý có thể điều chỉnh và cải thiện các chính sách kịp thời. Ngoài ra, các chỉ số viễn thám được sử dụng làm chỉ thị cho nhiều đối tượng trong tự nhiên. Ví dụ: chỉ số xây dựng được sử dụng để đánh giá sự mở rộng của đô thị [8], trong khi hàm lượng chất diệp lục trong lá được tính từ dữ liệu Sentinel-2 có thể được sử dụng để đánh giá sức khỏe cây trồng [9]. Với tính đa dụng trong đánh gi ... eistocen Miocen Pliocen – Pleistocen Pleistocen Miocen Pliocen – Pleistocen Pleistocen Miocen Pliocen – Pleistocen Pleistocen Miocen Pliocen – Pleistocen Pleistocen Miocen Pliocen – Pleistocen Pleistocen Miocen Pliocen – Pleistocen Pleistocen Miocen Pliocen – Pleistocen Pleistocen Miocen Pliocen – Pleistocen Pleistocen Miocen Pliocen – Pleistocen Pleistocen Miocen Pliocen – Pleistocen Pleistocen Miocen Pliocen – Pleistocen Pleistocen Miocen Pliocen – Pleistocen Pleistocen D.K. Bac, D.V. Bao / VNU Journal of Science: Earth and Environmental Sciences, Vol. 36, No. 2 (2020) 79-89 86 4. Kết quả và thảo luận 4.1. Đặc điểm sinh-địa-hóa trên ba loại địa hình bazan Sự phân bố của 16 tham số sinh-địa-hóa trong ba loại địa hình bazan được thể hiện trên hình 3. Nhìn chung, đặc điểm sinh – địa - hóa của địa hình bazan Miocen được phân biệt rõ ràng với hai loại địa hình bazan còn lại. Các giá trị viễn thám của Fe (II), laterit, CI, NDVI, LAI và Prep trong loại bazan Miocen cao hơn hẳn so với ở các loại bazan khác. Trong khi đó, giá trị của các chỉ số Fe (III), Carbonate, BU và Temp trong cảnh quan bazan Miocen thấp hơn hẳn so với hai cảnh quan còn lại. Các đặc điểm sinh-địa- hóa trong các cảnh quan bazan Pliocene – Pleistocen giữa và Pleistocen muộn khó phân tách hơn so với trong cảnh quan bazan Miocen, đặc biệt là trong trường hợp của các chỉ số Fe (II), GSI, FAPAR, FVC và LAI. 4.2. Phân tích mối quan hệ giữa các biến tự nhiên - xã hội theo mô hình SEM Hình 4 trình bày mạng lưới SEM thể hiện các mối quan hệ một chiều giữa các điều kiện tự nhiên trong ba lọa địa hình bazan. Phiên bản SEM này được lọc qua nhiều vòng lặp để loại bỏ các biến có tương quan thấp. Ví dụ như ba biến: “Lượng mưa” (Số 13), “FVC” (Số 16) và “LAI” (số 15) đã bị loại do tương quan kém với các chỉ số khác. Trong phiên bản cuối cùng, mối tương quan giữa 13 biến được tính lại và được phân loại thành 3 lớp bao gồm: lớp (1) với các biến số thạch học (ví dụ Fe2 +, Fe3 +, Fe2O3, Laterite, Silicate và Carbonate), lớp (2) với các chỉ số điều kiện sinh thái (ví dụ CI, FAPAR, Temp và GSI) và lớp (3) với các nhân tố sử dụng đất (ví dụ: NDVI, NDWI và BU). Theo đó, mô hình SEM (2) hoàn toàn thể hiện được mối quan hệ từ thạch học và điều kiện sinh thái tới hiện trạng sử dụng đất thuộc ba loại địa hình bazan. Các nhân tố thạch học ở lớp (1) quyết định các đặc điểm sinh thái (lớp 2). Nhờ những đặc trưng về thạch học và sinh thái ở 2 lớp trên, nhà quản lý sẽ quyết định các chính sách sử dụng đất ở lớp số 3. Qua đó, mô hình SEM đã làm rõ được mối quan hệ thẳng đứng từ tầng đá mẹ, vỏ phong hóa tới tầng thổ nhưỡng, sinh cảnh và tới hoạt động của con người. 4.3. Xu hướng sử dụng đất trên địa hình bazan a. Xu hướng sử dụng đất trên thành tạo bazan Miocen Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng quá trình phong hóa của Fe (II) và tầng laterit từ đá bazan Miocen mạnh hơn tại các loại đá bazan khác (Hình 3). Các vật liệu phong hóa tại bazan Miocen phân bố có tính đồng nhất, tạo một lớp đất dày, độ đặc thấp và kích thước hạt nhỏ. Lớp vật liệu này hình thành dọc theo các khe nứt và đứt gãy kiến tạo. Đặc biệt, tầng vật liệu này chứa một lượng bauxite tiềm năng để khai thác khoáng sản. Các vật liệu còn lại sau khai khoáng có thể được sử dụng để trồng rừng. Tuy nhiên, nếu không có giải pháp hoàn nguyên, hoàn thổ tốt, tầng thổ nhưỡng có thể không được hoàn trả, dẫn đến nguy cơ giảm độ phì của đất. Đá mẹ hoặc tầng phong hóa saprolit sẽ lộ ra trên bề mặt đất, gây khó khăn cho phát triển nông – lâm – nghiệp trong loại địa hình bazan này. Chẳng hạn, dự án Nhân Cơ và Tân Rai chỉ hoàn thổ đầy đủ được 2 ha trong 36 ha trong suốt thời gian khai thác tại Bảo Lộc, tỉnh Lâm Đồng. Đất trong các mỏ bauxite này (khoảng 2 ha) đã được bón phân để trồng rừng keo nhưng cây phát triển khá chậm chạp [5]. So với địa hình bazan Pliocen-Pleistocen giữa, quá trình kiến tạo và xói mòn do nước ở bazan Miocen mạnh hơn đáng kể, dẫn đến giảm mực nước ngầm [14]. Điều này gây khó khăn trong việc cung cấp nước ngọt cho phát triển nông nghiệp và đô thị. Ngoài ra, lượng mưa lớn được ghi nhận ở bazan Miocen (Hình 3), đặc biệt trong mùa mưa đã tạo ra dòng chảy mặt lớn trong thời gian ngắn trên vùng đất dốc, làm tăng tần suất trượt lở và xói mòn đất [2]. Bên cạnh đó, do độ phân cắt sâu trên địa hình bazan Miocen lớn, một lượng lớn nước ngầm đã được thoát ra và chuyển xuống các sông suối về hạ lưu. Nhìn chung, khả năng lưu trữ nước ngầm không đồng nhất theo cả hai chiều ngang và dọc. Hơn nữa, cả nguồn nước mặt và nước ngầm trong cảnh quan bazan Miocen có thể bị ô nhiễm do khai thác khoáng sản, thể hiện ở giá trị của độ đục của D.K. Bac, D.V. Bao / VNU Journal of Science: Earth and Environmental Sciences, Vol. 36, No. 2 (2020) 79-89 87 nước tăng lên theo các kết quả phân tích viễn thám. Tình trạng này được thấy ở cả hai tỉnh Đồng Nai và Lâm Đồng. Do đó, việc áp dụng các chỉ số viễn thám để giám sát chất lượng nước trong cảnh quan bazan Miocen có thể cung cấp thông tin rất hữu ích cho việc quản lý khai thác bauxite theo hướng phát triển bền vững. Các kết quả xác định xu hướng sử dụng đất trên 3 loại địa hình bazan và 3 loại hình sử dụng đất chính trên các thành tạo bazan tại Đồng Nai và phụ cận được thể hiện trên hình 5. Xu hướng sử dụng đất theo hướng ưu tiên bảo tồn tự nhiên chỉ được áp dụng tại địa hình bazan Miocen. Xu hướng phát triển kinh tế - xã hội (cây công nghiệp dài ngày, khu dân cư) được tập trung cho 2 loại địa hình bazan còn lại. Việc phát triển các khu dân cư sinh thái cũng được nhận định tại địa hình bazan Miocen, mặc dù diện tích không lớn. b. Xu hướng sử dụng đất trên thành tạo địa hình bazan Pliocen - Pleistocen giữa Tại địa hình bazan Pliocen – Pleistocen giữa, đất (gồm cả tầng phong hóa trên cùng) có độ dốc nhỏ hơn 250 và dày trên 10m, phù hợp cho phát triển cây công nghiệp dài ngày (kết quả từ Hình 3). Ví dụ, cây cao su được trồng trên địa hình bazan này thường khá thưa thớt, cách đều nhau và thẳng hàng. Trước đây, cây cao su được sử dụng cho mục đích khai thác mủ cao su. Tuy nhiên, tại một số khu vực, người dân địa phương hiện đang trồng với mục đích khai thác gỗ do có hiệu quả kinh tế cao hơn [15] (khoảng 200-300 triệu đồng/ha - phỏng vấn dân địa phương năm 2019). Do đó, cây cao su thường bị đốn hạ cứ sau 3-5 năm, để lại bề mặt đất trống trong thời gian trước khi cây trưởng thành [16]. Việc phỏng vấn năm 2019 từ các nhà quản lý địa phương tại tỉnh Đồng Nai cho thấy gỗ đã được thu hoạch vào cuối năm 2016 và cây cao su mới chỉ được trồng lại trong năm 2017. Kết hợp với sự tích lũy sắt và nhôm trên các bề mặt bazan, đất nông nghiệp trong hai hoặc ba năm sau mùa thu hoạch vẫn chưa được phủ màu xanh, thể hiện trên ảnh như vùng đất trống. Sự biến đổi sử dụng đất này khiến bề mặt đất nóng hơn so với đất được sử dụng vào mục đích trồng cây công nghiệp dài ngày truyền thống, được minh chứng bởi chỉ số xây dựng xác định dựa trên nhiệt độ bề mặt. Do đó, các giá trị của chỉ số xây dựng trong vùng đất nông nghiệp trong cảnh quan bazan Pliocene - Pleistocen giữa sẽ cao hơn các vùng đất khác (Hình 3). Hình 5. Đánh giá xu thế sử dụng đất trên 3 địa hình bazan và 3 loại hình sử dụng đất chính trên vùng bazan Đồng Nai. Đơn vị %. 0 10 20 30 40 50 60 Bazan Neogene Bazan Q- Pleistocene Bazan Q- Holocene Đất rừng Đất nông nghiệp Vùng dân cư Quản lý kém Phát triển kinh tế Ưu tiên tự nhiên Đô thị xanh Bazan Bazan Baz Miocen Pliocen – Pleistocen Pleist D.K. Bac, D.V. Bao / VNU Journal of Science: Earth and Environmental Sciences, Vol. 36, No. 2 (2020) 79-89 88 Ngoài ra, vì cây cao su có thể lưu giữ một lượng carbon lớn, nhiều quốc gia đã mở rộng diện tích của loài này để góp phần hạn chế sự gia tăng khí nhà kính. Trong giai đoạn 80-90 của thế kỷ 20, diện tích rừng nguyên sinh trong cảnh quan bazan dần bị thu hẹp, thay vào đó là diện tích của cây cao su [1]. Các chính sách ngày nay cũng đang cố gắng làm giảm xu hướng này, nhằm ổn định diện tích rừng trồng và cây công nghiệp. Nó tạo ra một xu hướng quản lý sử dụng đất tốt trên các dạng địa hình bazan Pliocen- Pleistocen giữa ngày nay. c. Xu hướng sử dụng đất trên thành tạo bazan Pleistocen muộn Trên địa hình bazan Pleistocen muộn, quá trình phong hóa yếu, chỉ hình thành một lớp đất mỏng xen giữa các tảng đá gốc. Do đó, loại địa hình này không có nhiều tiềm năng để phát triển cây công nghiệp và các hoạt động nông nghiệp khác. Tuy nhiên, độ nứt nẻ cao của đá đã tạo nguồn nước ngầm lớn, cung cấp nước cho các dòng suối. Tại khu vực phía đông Tân Phú, một nguồn nước có lưu lượng đáng kể được thoát ra từ tầng đá bazan, tạo nên các thác nước có giá trị thẩm mĩ và được người dân tận dụng để phát triển du lịch sinh thái, điển hình là khu du lịch Suối Mơ, Đồng Nai. Ngoài ra, nhiều hang động núi lửa chỉ được tìm thấy trong các loại địa hình bazan Pleistocen muộn cho thấy tính đặc thù, độc đáo của khu vực. Những hang động này không chỉ cung cấp lợi ích về giá trị khoa học, mà còn cho sự phát triển kinh tế, đặc biệt là phát triển du lịch. Khu vực này có thể tiếp tục nghiên cứu xây dựng công viên địa học phục vụ phát triển du lịch. Các nhà quản lý nên cải thiện các lớp đất trên bề mặt và điều kiện sinh thái trên địa hình bazan Pleistocen muộn, hướng tới mục tiêu phát triển bền vững trong tương lai. 5. Kết luận Trong phạm vi tỉnh Đồng Nai phân bố 4 loại địa hình bazan liên quan với các hệ tầng Đại Nga, Túc Trưng, Xuân Lộc và Phước Tân. Bazan hệ tầng Phước Tân có tuổi trẻ nhất Việt Nam, có thể kéo dài từ Pleistocen muộn tới Holocen với nhiều cảnh quan thiên nhiên đặc sắc. Do địa hình, vỏ phong hóa và đặc điểm sử dụng đất trên bazan các hệ tầng Túc Trưng, Xuân Lộc ở Đồng Nai ít có sự khác biệt, chúng được gộp với nhau trong nghiên cứu này. Đặc điểm sinh-địa-hóa trên ba loại địa hình bazan đã được đánh giá theo 16 chỉ tiêu dựa trên ảnh viễn thám và yếu tố sử dụng đất/lớp phủ tại tỉnh Đồng Nai. Mối quan hệ các biến số sử dụng/che phủ, địa chất, thạch học, khí hậu, môi trường và đất đai đã được đơn giản hóa thông qua phân tích tương quan và mô hình SEM. Kết quả đánh giá sinh - địa - hóa trên ba loại địa hình bazan là cơ sở cho việc định hướng quản lý, sử dụng đất khác nhau. Trên địa hình bazan Miocen nên khuyến khích bảo tồn, bảo vệ để có cảnh quan tự nhiên. Trên địa hình bazan Pliocene – Pleistocen giữa, nên tập trung phát triển nông nghiệp gắn với bảo vệ cảnh quan. Đối với địa hình bazan Pleistocen muộn, các chính sách liên quan đến cải tạo đất nên được thực hiện nhằm cải thiện độ phì nhiêu của đất trong tương lai, khuyến khích các khu bảo tồn, phát triển du lịch sinh thái trên các cảnh quan bazan đặc sắc. Lời cảm ơn Nghiên cứu này được tài trợ bởi Đại học Quốc gia Hà Nội trong đề tài mã số QG.17.23. Tập thể tác giả xin chân thành cảm ơn. Tài liệu tham khảo [1] N. Hoang, F. Martin, Petrogenesis of Cenozoic Basalts from Vietnam: Implication for Origins of a Diffuse Igneous Province, J. Petrol. 39 (1998) 369- 395. [2] N. Dao, N. Yem, N. Tuyet, L. Tam, Geomorphological features of the basalt areas in the South Vietnam, J. Geol. 172 (1986) 17-20. [3] A.N. Dang, A. Kawasaki, Integrating biophysical and socio-economic factors for land-use and land- cover change projection in agricultural economic regions, Ecol. Modell. 344 (2017) 29-37. [4] V.B. Dang, Researching on scientific basis to enhance regional linkage between the Central Highlands with the South Central Coast in the use of natural resources, environmental protection and D.K. Bac, D.V. Bao / VNU Journal of Science: Earth and Environmental Sciences, Vol. 36, No. 2 (2020) 79-89 89 disaster prevention, A report in national project No.TN3/T19, Hanoi, 2015 (In Vietnamese). [5] N.T. Thuy, L.T. Anh, Assessment of Basalt Soil Quality under Different Land Use Types in Bao Loc - Di Linh Area, Lam Dong Province, VNU J. Sci. Earth Environ. Sci. 33 (2017) 67-78 (In Vietnamese). [6] A. Polydoros, C. Cartalis, Assessing the impact of urban expansion to the state of thermal environment of peri-urban areas using indices, Urban Clim. 14 (2015) 166-175. [7] R. Fensholt, I. Sandholt, M.S. Rasmussen, Evaluation of MODIS LAI, fAPAR and the relation between fAPAR and NDVI in a semi-arid environment using in situ measurements, Remote Sens. Environ. 91 (2004) 490-507. [8] S.S. Bhatti, N.K. Tripathi, Built-up area extraction using Landsat 8 OLI imagery, GIScience Remote Sens. 51 (2014) 445-467. [9] M. Weiss, F. Baret, S2ToolBox Level 2 products: LAI, FAPAR, FCOVER, Sentin. ToolBox Level2 Prod., 2016. [10] J. Mitchell, R. Shrestha, C. Moore-Ellison, and N. Glenn, Single and Multi-Date Landsat Classifications of Basalt to Support Soil Survey Efforts, Remote Sens. 5 (2013) 4857-4876. [11] K.W. Abdelmalik, Landsat 8: Utilizing sensitive response bands concept for image processing and mapping of basalts, Egypt. J. Remote Sens. Sp. Sci., In press (2019). [12] D.T. Nguyen, Geological map in Vinh An on the scale of 1:50.000, Geological Archives, 1998. [13] P. Spirtes, C. Glymour, R. Scheines, Causation, Prediction, and Search. London, England: The MIT Press, Cambridge, Massachusetts, 2000. [14] K.C. Vu, T. Thu, H. Hoang, Histrorical land use dynamics in the Northern mountain of Vietnam, Third Conf. GIS-based Glob. Hist. from Asian Perspect. (2015) 38-43. [15] W. Killmann, L.T. Hong, Rubberwood - The success of an agricultural by -product, Unasylva 51 (2000) 66–72. [16] E.S. Nambiar, C.E. Harwood, N.D. Kien, Acacia plantations in Vietnam: research and knowledge application to secure a sustainable future, South. For. 77 (2015) 1-10.
File đính kèm:
- phan_tich_cac_yeu_to_sinh_dia_hoa_trong_moi_lien_quan_voi_xu.pdf