Phạm trù tự nhiên trong lý luận, phê bình văn học cổ Trung quốc và Việt Nam

Bài viết nghiên cứu phạm trù Tự nhiên trong tư tưởng Thiền Lão và trong lý luận, phê bình văn

học cổ Trung Quốc; đồng thời tập trung làm rõ quan niệm Tự nhiên trong lý luận, phê bình văn học

cổ điển Việt Nam với hai nội dung: Tự nhiên trong quan niệm của các tác giả thời Lý - Trần và Tự

nhiên trong quan niệm của các tác giả thời Lê - Nguyễn

Phạm trù tự nhiên trong lý luận, phê bình văn học cổ Trung quốc và Việt Nam trang 1

Trang 1

Phạm trù tự nhiên trong lý luận, phê bình văn học cổ Trung quốc và Việt Nam trang 2

Trang 2

Phạm trù tự nhiên trong lý luận, phê bình văn học cổ Trung quốc và Việt Nam trang 3

Trang 3

Phạm trù tự nhiên trong lý luận, phê bình văn học cổ Trung quốc và Việt Nam trang 4

Trang 4

Phạm trù tự nhiên trong lý luận, phê bình văn học cổ Trung quốc và Việt Nam trang 5

Trang 5

Phạm trù tự nhiên trong lý luận, phê bình văn học cổ Trung quốc và Việt Nam trang 6

Trang 6

Phạm trù tự nhiên trong lý luận, phê bình văn học cổ Trung quốc và Việt Nam trang 7

Trang 7

Phạm trù tự nhiên trong lý luận, phê bình văn học cổ Trung quốc và Việt Nam trang 8

Trang 8

Phạm trù tự nhiên trong lý luận, phê bình văn học cổ Trung quốc và Việt Nam trang 9

Trang 9

Phạm trù tự nhiên trong lý luận, phê bình văn học cổ Trung quốc và Việt Nam trang 10

Trang 10

Tải về để xem bản đầy đủ

pdf 12 trang minhkhanh 10160
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Phạm trù tự nhiên trong lý luận, phê bình văn học cổ Trung quốc và Việt Nam", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Phạm trù tự nhiên trong lý luận, phê bình văn học cổ Trung quốc và Việt Nam

Phạm trù tự nhiên trong lý luận, phê bình văn học cổ Trung quốc và Việt Nam
 TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN HIẾN TẬP 6 SỐ 4 
41 
PHẠM TRÙ TỰ NHIÊN TRONG LÝ LUẬN, PHÊ BÌNH VĂN HỌC CỔ 
TRUNG QUỐC VÀ VIỆT NAM 
Lê Đắc Tường 
Trường THPT Duy Tân, Kon Tum 
Ledactuong@gmail.com 
Nhận bài ngày: 6/6/2019; Ngày duyệt đăng: 27/08/2019 
Tóm tắt 
Bài viết nghiên cứu phạm trù Tự nhiên trong tư tưởng Thiền Lão và trong lý luận, phê bình văn 
học cổ Trung Quốc; đồng thời tập trung làm rõ quan niệm Tự nhiên trong lý luận, phê bình văn học 
cổ điển Việt Nam với hai nội dung: Tự nhiên trong quan niệm của các tác giả thời Lý - Trần và Tự 
nhiên trong quan niệm của các tác giả thời Lê - Nguyễn. 
Từ khóa: Thiền-Lão, Tự nhiên, văn học cổ điển. 
The concepts of nature in literary theory and criticism 
in classical Chinese and Vietnamese literature 
Abstract 
This article examines the concept of Nature in Zen Buddhist and Taoist thoughts, expressing in 
the literary critical works written by the Chinese as well as the Vietnamese classical authors. The 
article consists of two parts: Concept of Nature in the works of Ly – Tran period, and Concept of 
Nature in the works of Le – Nguyen period. 
Keywords: Zen Buddhism, Taoism, Nature, classical literature. 
1. Đặt vấn đề 
Trong các nước Đông Á, Trung Quốc với 
nền văn học có lịch sử trên 2000 năm được xem 
là “nền văn học lâu đời” là trung tâm kiến tạo 
vùng; các nước còn lại như Hàn Quốc, Nhật Bản 
và Việt Nam được xem là “nền văn học trẻ” là 
ngoại biên. Nguồn chung và dòng riêng của nền 
văn học các nước Đông Á đã và đang có sức hút 
rất lớn và mở ra chân trời cho ngành nghiên cứu 
văn học nhất là nghiên cứu văn học so sánh và 
những nghiên cứu chuyên sâu về tư duy nghệ 
thuật, quan niệm văn học,... Trong giới hạn, bài 
viết chỉ nghiên cứu phạm trù Tự nhiên trong lý 
luận và phê bình văn học cổ Trung Quốc và Việt 
Nam để thấy rõ hơn bản chất của vấn đề cũng 
như sự hình thành, phát triển và vai trò, sự ảnh 
hưởng của phạm trù Tự nhiên trong văn học của 
mỗi nước. 
2. Tự nhiên (自 然) trong tư tưởng Thiền-
Lão và trong lý luận, phê bình văn học cổ 
Trung Quốc 
Tìm hiểu, nghiên cứu về tư tưởng Lão Trang, 
chúng tôi nhận thấy Tự nhiên là phạm trù bản 
thể luận của tư tưởng Lão Trang. Khi Phật giáo 
du nhập vào Trung Quốc, kết hợp với Lão Trang 
hình thành Thiền tông Trung Quốc. Vì thế, tư 
tưởng Thiền tông cũng có quan niệm Tự nhiên 
gần giống như Lão Trang. 
Nói đến Lão Trang, đầu tiên phải nói đến 
phạm trù Đạo. Đây là một khái niệm chi phối 
toàn bộ học thuyết Lão Trang. Tư tưởng của Lão 
Tử và Trang Tử tuy cũng có một vài điểm chưa 
thống nhất, nhưng quan niệm về Đạo thì thống 
nhất. Cả hai đều có cùng quan niệm giống nhau 
về Đạo và mối quan hệ giữa Đạo với Tự nhiên. 
Lão Trang quan niệm Đạo là tổng nguyên lý 
sinh ra trời đất, vạn vật: “Đạo sinh nhất, nhất 
sinh nhị, nhị sinh tam, tam sinh vạn vật”. Về 
mối quan hệ giữa Đạo với Tự nhiên, câu “Đạo 
pháp tự nhiên" của Lão Tử và “Đạo kiêm ư 
thiên” của Trang Tử có nghĩa giống nhau, đều 
nói đến mối quan hệ giữa Đạo với Tự nhiên, hay 
Đạo tức là Tự nhiên, Tự nhiên là Đạo thể. Trong 
Nam hoa kinh, Trang Tử đã dành riêng một 
 VAN HIEN UNIVERSITY JOURNAL OF SCIENCE VOLUME 6 NUMBER 4 
42 
thiên Tiêu dao du để nói về Tự nhiên. Ông quan 
niệm Tự nhiên tức là tự do sống theo bản tính. 
Trong quan niệm của Lão Trang, Tự nhiên 
được hiểu ở hai cấp độ. Tự nhiên là bản thể của 
Đạo, tức là Đạo và Tự nhiên là quy luật của vạn 
vật. Học thuyết Lão Trang đề cao Tự nhiên, tức 
Đạo, vì thế rất xem trọng vô vi. Bởi theo Trang 
Tử, vô vi mà làm gọi là Tự nhiên: “Vô vi vi chi 
vị thiên”. Đồng thời, Lão Trang rất coi trọng quy 
luật Tự nhiên, cho rằng, mọi sự vật trong vũ trụ 
đều được Đạo sinh ra, vận hành theo quy luật của 
riêng mình, con người không nên can thiệp vào. 
Lão Trang kịch liệt phản đối, bài bác những cái 
làm hại đến sự phát triển Tự nhiên của vạn vật. 
Có thể hiểu, Tự nhiên vừa là bản thể của Đạo, 
vừa là quy luật của Đạo, vừa là dụng của Đạo. 
Lão Trang quan niệm Đạo chính là Tự nhiên, 
Tự nhiên có tính “phác”, “phác” cũng là Đạo, 
cũng có nghĩa là tự tánh của vạn vật. Đó là ý 
nghĩa uyên thâm của Tự nhiên. Lão Trang cũng 
rất đề cao luật, trật tự của Tự nhiên, đó là một 
nghĩa khác của Tự nhiên. 
Hai nét nghĩa này cũng được Thiền tông 
quan niệm. Cốt lõi của tư tưởng Thiền tông 
chính là “Trực chỉ nhân tâm, Kiến tánh thành 
Phật”. Tánh chính là hạt mầm Bồ đề ở mỗi con 
người, vì theo quan niệm của nhà Phật, con 
người ai cũng có Phật tính. Phật tính, cũng có 
thể hiểu tương tự như là tự tánh (Phác, Tự nhiên, 
Đạo) của Lão Trang. Việc Lão Trang đề cao 
hành động vô vi, kêu gọi con người phải trở về 
với Đạo, với Tự nhiên, với bản tánh hồn toàn 
của mình, cũng tương tự như Phật giáo Thiền 
tông quan niệm “Bản lai diện mục”, muốn giải 
thoát, đắc Đạo thì phải trở về để “Minh tâm, kiến 
tánh”. Thiền tông cũng hết sức tôn trọng Tự 
nhiên, “Bình thường tâm thị đạo” là câu nói của 
Nam Tuyền (749 - 835) để khai thị cho Triệu 
Châu thể hiện rõ quan niệm Tự nhiên của Thiền 
tông. Cách tu của Thiền tông gắn với hành động 
Tự nhiên của mỗi người, không câu nệ giáo lý, 
hình thức tu, không gượng ép. Theo Thiền tông, 
để trở về với Phật tính không đòi hỏi phải hành 
động “nhân vi”, cứ tuân theo quy luật Tự nhiên, 
tức là tiếp tục các nhiệm vụ bình thường và 
khiêm tốn trong đời sống, như Capra nhận định: 
“Thành tựu của Thiền là sống đời sống hằng 
ngày một cách hồn nhiên chất phác. Trả lời 
Thiền là gì, thiền sư Đại Huệ đáp: Đói thì ăn, 
mệt thì nghỉ” (Capra, 1975: 146). 
Như vậy, Tự nhiên theo quan niệm của 
Thiền-Lão chính là “vô vi” và “vô tâm”. Tức là 
hốt nhiên làm, không cần cố gắng, không miễn 
cưỡng, không câu nệ, là làm mà không cần để ý 
việc mình làm. Đó là hành động đến mức hoàn 
thiện. 
Từ quan niệm về Tự nhiên của Lão Trang và 
Thiền tông, có thể thấy ở cấp độ mỹ học, tư 
tưởng Thiền-Lão là tư tưởng sùng thượng Tự 
nhiên. Đó là vẻ đẹp của Tự nhiên, tức Đạo, đó 
là ... không hỗn tạp. Âm thanh của con người trái 
ngược với âm thanh của trời, vì sự hỗn tạp, lẫn 
lộn tà chính. Thi nhân muốn theo được cái Đạo 
của vạn vật thì phải thuận theo đặc tính mộc 
mạc, đơn sơ của Tự nhiên và thể hiện sự Bình 
đạm trong văn chương. Từ đó, ông cho rằng văn 
chương đạt đến Tự nhiên đó chính là tiếng sáo 
Trời (Thiên lại), tức là đạt đến Đạo: “Nói chung 
hiểu trời bằng sự giản dị, hiểu đất bằng sự đơn 
sơ, thênh thênh rất công bằng, có sự huyền diệu 
ứng hợp để tạo thành sự vật, suy nó nơi việc làm, 
đặt nó nơi ngôn từ, từ cái này suy tới cái khác, 
gặp vật phẩm đề, phong vận tự nhiên không do 
đẽo gọt, há không phải là đã nắm được nguyên 
thanh đó sao?” (Đỗ Văn Hỷ, 1993: 58). 
Ngô Thì Nhậm là nhà nho, cuối đời theo 
Phật, Lão và còn được tôn xưng là “Trúc Lâm 
đệ tứ Tổ”, vì vậy quan niệm của ông về văn 
chương cũng mang nét Thiền-Lão. Trong bài 
“Viết cho ông em thứ hai nói chuyện về văn”, 
ông đã trích dẫn thơ của Trần Tử, khẳng định 
những câu thơ của Trần Tử gần với thuyết Lão 
Trang và cho rằng những người như Trần Tử có 
thể kết bạn. Từ đó, Ngô Thì Nhậm luận về tài, 
trí và nhận định: “Nếu biết tìm đến bản chất tinh 
túy thì những cái phù hoa không cần bỏ mà nó 
tự bỏ; những cái sai ngoa không cần cắt mà nó 
tự cắt, có thể trở về với thực tế thuần chất và giữ 
được nguyên vẹn bản chất của ta” (Nguyễn 
Minh Tấn, 1981: 71). Quan niệm văn chương 
của Ngô Thì Nhậm mang màu sắc vô vi, Tự 
 VAN HIEN UNIVERSITY JOURNAL OF SCIENCE VOLUME 6 NUMBER 4 
50 
nhiên của Thiền-Lão. 
Bùi Dương Lịch cho rằng thơ có nguồn gốc 
từ Đạo, Đạo là mẹ của vạn vật, đặc tính của Đạo 
là thuần phác, xuất phát từ cái tâm trong sáng. 
Thơ là biểu hiện của cái tình, tình tới thì biểu 
hiện thành thơ. Thơ xuất phát từ Tự nhiên nên 
có cái ý nghĩa bao quát, sâu sắc. Cho nên: “Tình 
tới thì bút tới, nên cái hứng phiêu bồng chơi vơi 
bên trăng sao và cắp ngang vũ trụ, thấp thoáng 
nơi ngoài tình, không thể một bài một câu có thể 
thu lượm được, cái mà Trang Chu gọi “nếu có 
cái chân tế mà không nắm được manh nha của 
nó, e rằng đó chẳng phải là sự hồn toàn của cái 
thần chăng?” (Đỗ Văn Hỷ, 1993: 33). 
Bùi Huy Bích khuyên người làm thơ nên 
theo Đạo, chứ không nên đua lạ tranh khéo khi 
làm thơ. Ông cho rằng chính vì thơ biểu hiện 
Đạo, Tự nhiên nên khi làm thơ không cần kỳ lạ, 
hoa mỹ: “Tác giả nên đi tìm vần thơ của cái Đạo 
cùng tột, chứ đua tranh kỳ lạ ở tứ hoa mà làm 
gì?” (Cảm tác khi sưu tập Thi sao) (Đỗ Văn Hỷ, 
1993: 66). 
Ngô Thì Chí và Vũ Duy Thanh thì quan niệm 
quan hệ văn chương, Tự nhiên, Đạo ở khía cạnh 
chân tánh. 
Trong bài Nối tiếp bài phú Thiên Thai, Ngô 
Thì Chí cho rằng văn chương chính là món quà 
của tạo hóa, vì vậy ta cần biết trân trọng và giữ 
gìn nguồn gốc Tự nhiên ấy bằng cách giữ gìn 
cái chân tính của mình. Ông quan niệm tu thân, 
rèn văn phải lấy Tự nhiên làm trọng, phải lấy 
chân thực, bỏ hư tạp, có như vậy bản thân mới 
giữ được chân tính, thơ văn mới đạt Tự nhiên. 
Vũ Duy Thanh, trong mộng được gặp Đào 
Tiềm, nhận được lời khuyên của Đào Tiềm nên 
sống hồn nhiên và tìm về chân tánh thì có thể 
hiểu được văn chương. Những lời Vũ Duy 
Thanh nghe được trong mộng cho thấy Tự nhiên 
thật đáng quý, vi diệu. Tự nhiên thể hiện ở sự 
thanh thản, hồn nhiên, chân tánh: “Lòng dục của 
con người không bờ bến, nhưng đúng với hòa 
điệu của tự nhiên thì ít lắm, ông thanh thản mà 
sống, thì vật nào có thể làm phiền được; thế gian 
đa sự, cảnh thực mịt mờ, ông hãy hồn nhiên mà 
sống, thì mình sao chẳng là tiên? Ông hãy tìm 
nó nơi thâm tâm của ông vậy, đâu phải câu chấp 
nơi bài phú và bài kí của tôi...” (Phan Trọng 
Thưởng và cộng sự, 2007: 273). 
Nguyễn Đức Đạt cho rằng văn chương quý ở 
chỗ Tự nhiên, không gì đẹp rực rỡ và sâu sắc 
như vạn vật trong trời đất, mà những thứ do con 
người cố gắng tạo ra chẳng thể nào sánh kịp: 
““Có người hỏi: “Văn qúy ở chỗ nào?” Ông trả 
lời “Quý ở tự nhiên. Hoa mùa xuân chẳng gấm 
lụa nào sánh kịp, chín vực sâu không sự đào 
khoét nào có thể so bì”” (Nam Sơn tùng thoại) 
(Phan Trọng Thưởng và cộng sự, 2007: 277). 
Cao Xuân Dục, trong Bài tựa tập Liên đàn 
kê thi thoại, đã quan niệm văn chương không chỉ 
là cửa ngõ của muôn vật, trái tim của trời đất, 
mà văn chương còn chính là Đạo, Đạo ở đây 
được hiểu theo nghĩa của Thiền-Lão. Đạo tức là 
Tự nhiên là chân tánh:“Thơ là tổ của quân đức, 
là tông của trăm phúc, chẳng những là cửa ngõ 
của muôn vật, trái tim của trời đất, mà còn là 
cái Một của Đạo” (Phan Trọng Thưởng và cộng 
sự, 2007: 292). 
Như đã đề cập ở phần trên Tự nhiên không 
chỉ là Đạo, Tự nhiên còn là quy luật. Bên cạnh 
quan niệm Văn chương - Tự nhiên - Đạo, một 
số tác giả còn bộc lộ quan niệm: Văn chương - 
quy luật Tự nhiên. 
Phạm Nguyễn Du ca ngợi cảnh giới thơ Bình 
đạm gắn với Tự nhiên, từ đó ông quan niệm làm 
thơ phải theo lẽ Tự nhiên: “chuyên chú vào sự 
tỏa sáng, tự nhiên mà thành văn vẻ, rất bình 
đạm mà sinh lý thú” (Phan Trọng Thưởng và 
cộng sự, 2007: 174). 
Nguyễn Quýnh, trong bài tựa Tây Hồ mạn 
hứng của Ninh Tốn, qua việc đề cao hứng thơ và 
xem đó như là quy luật tất yếu của Tự nhiên: 
“Người như sóng biển, chữ như nước, hứng thì 
như gió. Gió thổi tới sông biển, cho nên nước lay 
động làm thành gợn, thành sóng, thành ba đào. 
Hứng chạm vào người ta cho nên chữ nổi dậy, 
không nên nín được mà sinh ra ở trong lòng, 
ngâm vịnh ở ngoài miệng, viết nên ở bút nghiên 
giấy mực” (Nguyễn Minh Tấn, 1981: 103). 
Cao Bá Quát cũng quan niệm đề cao Tự 
nhiên, giản phác trong sáng tác thơ. Theo ông, 
tứ thơ cần thanh thoát, tao nhã: “Văn nhã tức 
ngô sư” (Văn tao nhã là thầy của ta). Vì thế, theo 
 TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN HIẾN TẬP 6 SỐ 4 
51 
Cao Bá Quát, hứng thơ đến bất chợt, không thể 
có sự gượng ép, là quy luật của Tự nhiên, như 
cơn mưa đến giục làm thơ (Ưng thị vũ thôi thi). 
Trong bài thơ Đúng là mưa giục thơ, cơn mưa 
chính là nguồn cảm hứng xúc tác cho thi nhân 
viết thành thơ. Tác giả hình dung hạt mưa như 
vó ngựa phi, từng hình ảnh, âm thanh của Tự 
nhiên như bầu trời, tiếng gió, tiếng sấm sét như 
tạo nên cảm hứng, chất liệu ngôn từ, nhịp điệu 
cho thơ. 
Vũ Duy Thanh cũng cho rằng vạn vật, mọi 
hiện tượng Tự nhiên thuở ban đầu vốn chất 
phác, hồn toàn. Cho nên thi nhân làm thơ cứ 
theo quy luật ấy mà làm, không cần phải thay 
đổi: “Tạo vật từ buổi đầu vốn thuần nhất và 
chân thực trên bày dưới đặt, cái lý ấy tự trình 
bày” (Đỗ Văn Hỷ, 1993: 76). 
- Văn chương - Tự nhiên không gọt giũa 
Mở đầu Toàn Việt thi lục, Lê Quý Đôn cho 
rằng làm văn không nên gọt giũa, vì gọt giũa làm 
hại đến văn chương: “Thơ của các bậc danh sĩ 
xưa nay rất tinh, rất thực, hợp thể, cái đó đủ rõ. 
Nếu chọn nắn nót, ưa nói lạ, gò gẫm từng chữ, 
từng câu, thơ làm ra sẽ kém” (Nguyễn Minh 
Tấn, 1981: 88). Văn chương của ông cũng vậy, 
không đẽo gọt cầu kỳ như Phan Huy Chú nhận 
xét. Phan Huy Chú đã dùng những hình ảnh rất 
sinh động, tươi đẹp và rực rỡ của tự nhiên như 
tiếng “chim ríu rít”, “hoa mùa xuân tươi nở 
đúng kỳ” để nói lên phong cách Tự nhiên của 
Lê Quý Đôn. Từ đó khen ngợi phong cách thanh 
tao, không đẽo gọt cầu kỳ: “Tôi từng thử bàn về 
điều này: Việc trước thuật của Lê Công như 
sông dài bể rộng, đầy tràn, tít tắp, không nơi 
nào không đến thế mà sự kỳ diệu của những lời 
ngâm vịnh của ông lại cũng như chim [ríu rít] 
mùa xuân, hoa [tươi nở] đúng kỳ; âm điệu hay, 
phong cách thanh tao đâu phải là cái nhờ đẽo 
gọt cầu kỳ mà có thể có được...” (Phan Trọng 
Thưởng và cộng sự, 2007: 190). 
Khi đọc về tập thơ của Nhữ Sơn Ngô Tử 
(Ngô Nhân Tĩnh), Nguyễn Địch Cát cho rằng 
thơ của Nhữ Sơn Ngô Tử có phong cách Tự 
nhiên, là tiếng nói của “Thiên lại”, bởi không có 
dấu vết ca sự cầu kỳ, đẽo gọt: “Nhân cách của 
Nhữ Sơn Ngô Tử là ưa tự nhiên thích rãnh việc. 
Tập thơ này có tới một trăm vài chục bài. Tôi 
thường ngạc nhiên về việc đó, nhưng đọc hết tập 
tôi thấy sáo trời vang lên, ý tới thì bút tới, mà 
cũng không thấy cái dấu vết đẽo gọt chạm trổ...” 
(Phan Trọng Thưởng và cộng sự, 2007: 226). 
Ngô Thì Nhậm quan niệm việc làm văn 
chương cũng là việc nói theo quy luật biến đổi 
của vạn vật, cái hay của tác phẩm văn chương là 
ở sự mộc mạc, chất phác. Không gắng sức, gọt 
giũa nhưng thực chất là: “Tuy đẽo gọt nhưng 
không thấy dấu. Người làm văn quý ở mực 
thước, thanh nhã, hồn nhiên; biết nắm lấy cái 
thực làm cốt tử, rồi dùng đẹp đẽ trang sức thêm. 
Làm thơ cũng phải như thế” (Phan Trọng 
Thưởng và cộng sự, 2007: 142). 
Trong Thơ gửi Quảng Đông du tử Liêu Luận 
Anh, Nguyễn Văn Siêu ví việc làm thơ như 
trồng cây. Nếu thuận theo Tự nhiên thì cây phát 
triển, vươn cao, mạnh mẽ; còn đi ngược lẽ Tự 
nhiên thì cây sẽ tàn tạ,... Tương tự, việc sáng tác 
thơ cũng cần tránh việc khoa trương, lời hoa mỹ 
mà thiếu chân thực: “Bởi vì cái tô sức ở bên 
ngoài thì bên trong tàn tạ, cái vun đắp ở bên 
trong, thì bên ngoài tốt tươi". Và “lời càng khéo 
thì càng mất điều chân thực (chân), ý càng kỳ 
thì càng rơi xuống hư hao” (Nguyễn Minh Tấn, 
1981: 129). 
Ngô Thì Sỹ xuất thân là nhà nho, cuối đời 
theo Phật, chuộng Đạo, chủ trương tam giáo 
đồng nguyên, vì vậy, quan niệm văn chương của 
ông cũng mang sắc thái Thiền-Lão. Ông đề cao 
Tự nhiên trong sáng tác văn học, ông cho rằng, 
làm thơ là phải “nói theo sự biến đổi của vạn 
vật?” tức là thuận theo quy luật Tự nhiên. Ngôn 
từ cũng nên tránh đẽo gọt cầu kỳ, sáng tác cần 
xuất phát từ cảm hứng Tự nhiên và chân thực. 
4. Kết luận 
Trong lý luận, phê bình văn học cổ điển 
Trung Quốc và Việt Nam, sùng thượng Tự 
nhiên là một trong những khuynh hướng tư 
tưởng nổi bật. Ở Trung Quốc, khuynh hướng 
này có lịch sử hơn 2000 năm và ảnh hưởng khá 
sâu rộng trong văn học cổ Trung Quốc và các 
nước nước Đông Á. Đối với Việt Nam, khuynh 
hướng này khởi phát trong thời Lý - Trần chủ 
yếu biểu hiện qua sáng tác với những mệnh đề: 
 VAN HIEN UNIVERSITY JOURNAL OF SCIENCE VOLUME 6 NUMBER 4 
52 
Tự nhiên - bản thể; Tự nhiên - đạt Đạo; Tự nhiên 
- vô vi; Tự nhiên - an nhiên, tự tại; Tự nhiên - 
tùy duyên; Tự nhiên - con người hợp nhất. Sau 
thời Lý - Trần, đặc biệt đến đầu thế kỷ XVIII, 
sùng thượng Tự nhiên được các tác giả tự ý thức, 
thể hiện qua những lời phát biểu trực tiếp trên 
các phương diện của Tự nhiên: Văn chương - 
Tự nhiên - Đạo, Văn chương - Tự nhiên không 
gọt giũa. 
Về mặt tư tưởng, Tự nhiên trong văn học cổ 
điển Việt Nam mang dấu ấn của tư tưởng Thiền-
Lão và có sự ảnh hưởng từ quan niệm Tự nhiên 
trong lý luận, phê bình văn học cổ Trung Quốc. 
Tuy nhiên, trong lý luận, phê bình và trong thực 
tiễn sáng tác, sùng thượng đã có sự dung hợp 
tam giáo, đã được Việt hóa. Vì vậy, quan niệm 
Tự nhiên của Việt Nam trở nên gần gũi, bình dị, 
nhưng cũng rất huyền diệu. 
Trên phương diện lý luận, phê bình, quan 
niệm sùng thượng Tự nhiên của Việt Nam có 
nhiều điểm tương đồng với quan niệm văn học 
Trung Quốc. Cả hai đều xem Tự nhiên là phẩm 
chất của văn chương, văn chương phải biểu hiện 
cái Tự nhiên, tức là Đạo, văn chương là cái đức 
của Đạo. Sáng tác văn chương phải theo quy luật 
của Tự nhiên, chú trọng tính Tự nhiên và hành 
động vô vi trong quá trình sáng tác. Điều đó 
đồng nghĩa với sự phản đối cầu kỳ, gọt giũa 
trong văn chương. 
Trong thực tiễn sáng tác, quan niệm đề cao 
Tự nhiên đã trở thành khuynh hướng nghệ thuật 
xuyên suốt trong văn học cổ điển Trung Quốc 
và Việt Nam. Nếu quan niệm “Văn dĩ tải đạo”, 
“Thi dĩ ngôn chí” của Nho giáo là để các nhà 
văn, nhà thơ biểu hiện ra bên ngoài nhằm kinh 
bang tế thế, thì quan niệm sùng thượng Tự nhiên 
của Thiền-Lão chủ yếu là sự biểu hiện bên trong 
để di dưỡng tính tình, giữ gìn sự thanh sạch của 
tâm hồn, cao hơn là để thể hiện sự thấu triệt chân 
lý cuộc đời và hướng đến sự giác ngộ, đạt Đạo. 
Tài liệu tham khảo 
Capra, F. (1975). The Tao of Physics: An 
Exploration of the Parallels Between Modern 
Physics and Eastern Mysticism. Nguyễn 
Tường Bách (dịch) (2001). Đạo của Vật lý, 
Một sự khám phá mới về sự tương đồng giữa 
Vật lý hiện đại và Đạo học phương Đông. Tái 
bản lần 3. Tp. HCM, Nxb Trẻ. 
Nguyễn Duy Cần (2013). Trang Tử Nam hoa kinh, 
tập 1. Tp. HCM, Nxb Trẻ. 
Dương Ngọc Dũng (1999). Dẫn nhập tư tưởng lý luận 
văn học Trung Quốc. Hà Nội, Nxb Văn học. 
Trần Thanh Đạm, Phạm Thị Hảo (2007). Lưu Hiệp 
Văn tâm điêu long. Hà Nội, Nxb Văn học. 
Lê Giang (2001). Ý thức văn học cổ trung đại Việt 
Nam. Luận án tiến sĩ Ngữ văn, Đại học Quốc 
gia Tp. HCM. 
Lê Giang (2005). Tư tưởng lý luận văn học Trung 
Quốc - Lịch sử và tư liệu. Đề tài nghiên cứu 
khoa học cấp trường, Trường Đại học Khoa 
học xã hội và Nhân văn Tp. HCM. 
Đỗ Văn Hỷ (1993). Người xưa bàn về văn chương. 
Hà Nội, Nxb Khoa học Xã hội. 
Khoa Ngữ văn và Báo chí (2006). Một số vấn đề về lý 
luận, phê bình văn học cổ Trung Quốc. Kỷ yếu 
Hội nghị khoa học “Cái nhìn mới về lý luận, 
phê bình văn học cổ Trung Quốc”, Trường Đại 
học Khoa học xã hội và Nhân văn Tp. HCM. 
Viên Mai (-). Tùy viên thi thoại. Trương Đình Chi 
(dịch) (2002). Nxb Văn nghệ Tp. HCM. 
Nguyễn Tôn Nhan (1998). Từ điển văn học cổ điển 
Trung Quốc. Nxb Văn nghệ Tp. HCM. 
Dương Phong (tuyển chọn) (2014). Thơ thời Lý – 
Trần. Hà Nội, Nxb Văn học. 
Nguyễn Minh Tấn (chủ biên) (1981). Từ trong di 
sản... Hà Nội, Nxb Tác phẩm mới. 
Lê Đắc Tường (2019). Khuynh hướng Thiền – Lão 
trong quan niệm văn học Việt Nam giai đoạn 
hậu kỳ trung đại. Tạp chí Nghiên cứu Văn 
học, số 2. 
Phan Trọng Thưởng, Nguyễn Cừ, Vũ Thanh, Trần 
Nho Thìn (sưu tầm, tuyển chọn và giới thiệu) 
(2007). Mười thế kỷ bàn luận về văn chương. 
Hà Nội, Nxb Giáo dục. 
Lê Quang Trường (2009). Lý Thương Ẩn - Lan trong 
rừng vắng. Nxb Văn nghệ Tp. HCM. 
Viện Văn học (1977). Thơ văn Lý - Trần, tập 1. Nxb 
Khoa học xã hội. 
Viện Văn học (1989). Thơ văn Lý - Trần, tập 2, 
quyển thượng. Nxb Khoa học xã hội. 
Chung Vinh (-). Thi phẩm tập bình. Nguyễn Đình 
Phức, Lê Quang Trường (tuyển dịch) (2008). 
Nxb Văn nghệ Tp. HCM.

File đính kèm:

  • pdfpham_tru_tu_nhien_trong_ly_luan_phe_binh_van_hoc_co_trung_qu.pdf