Nồng độ IgE huyết thanh toàn phần và đặc hiệu trên bệnh nhân viêm da cơ địa tại Bệnh viện Da liễu thành phố Hồ Chí Minh

Viêm da cơ địa là một bệnh viêm da mạn tính, hay tái phát. Rối loạn miễn dịch cụ thể là vai trò của nồng độ IgE huyết thanh có liên quan đến độ nặng của bệnh và nguy cơ dị ứng trên bệnh nhân viêm da cơ địa. Chúng tôi tiến hành nghiên cứu với mục tiêu khảo sát nồng độ IgE huyết thanh toàn phần và đặc hiệu ở bệnh nhân viêm da cơ địa.

Nồng độ IgE huyết thanh toàn phần và đặc hiệu trên bệnh nhân viêm da cơ địa tại Bệnh viện Da liễu thành phố Hồ Chí Minh trang 1

Trang 1

Nồng độ IgE huyết thanh toàn phần và đặc hiệu trên bệnh nhân viêm da cơ địa tại Bệnh viện Da liễu thành phố Hồ Chí Minh trang 2

Trang 2

Nồng độ IgE huyết thanh toàn phần và đặc hiệu trên bệnh nhân viêm da cơ địa tại Bệnh viện Da liễu thành phố Hồ Chí Minh trang 3

Trang 3

Nồng độ IgE huyết thanh toàn phần và đặc hiệu trên bệnh nhân viêm da cơ địa tại Bệnh viện Da liễu thành phố Hồ Chí Minh trang 4

Trang 4

Nồng độ IgE huyết thanh toàn phần và đặc hiệu trên bệnh nhân viêm da cơ địa tại Bệnh viện Da liễu thành phố Hồ Chí Minh trang 5

Trang 5

Nồng độ IgE huyết thanh toàn phần và đặc hiệu trên bệnh nhân viêm da cơ địa tại Bệnh viện Da liễu thành phố Hồ Chí Minh trang 6

Trang 6

Nồng độ IgE huyết thanh toàn phần và đặc hiệu trên bệnh nhân viêm da cơ địa tại Bệnh viện Da liễu thành phố Hồ Chí Minh trang 7

Trang 7

Nồng độ IgE huyết thanh toàn phần và đặc hiệu trên bệnh nhân viêm da cơ địa tại Bệnh viện Da liễu thành phố Hồ Chí Minh trang 8

Trang 8

pdf 8 trang Danh Thịnh 13/01/2024 1900
Bạn đang xem tài liệu "Nồng độ IgE huyết thanh toàn phần và đặc hiệu trên bệnh nhân viêm da cơ địa tại Bệnh viện Da liễu thành phố Hồ Chí Minh", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Nồng độ IgE huyết thanh toàn phần và đặc hiệu trên bệnh nhân viêm da cơ địa tại Bệnh viện Da liễu thành phố Hồ Chí Minh

Nồng độ IgE huyết thanh toàn phần và đặc hiệu trên bệnh nhân viêm da cơ địa tại Bệnh viện Da liễu thành phố Hồ Chí Minh
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 22 * Số 1 * 2018
 58
NỒNG ĐỘ IgE HUYẾT THANH TOÀN PHẦN VÀ ĐẶC HIỆU 
TRÊN BỆNH NHÂN VIÊM DA CƠ ĐỊA 
TẠI BỆNH VIỆN DA LIỄU THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH 
Trương Tiểu Vi*, Nguyễn Tất Thắng**, Văn Thế Trung** 
TÓM TẮT 
Mở đầu: Viêm da cơ địa là một bệnh viêm da mạn tính, hay tái phát. Rối loạn miễn dịch cụ thể là vai 
trò của nồng độ IgE huyết thanh có liên quan đến độ nặng của bệnh và nguy cơ dị ứng trên bệnh nhân viêm 
da cơ địa. Chúng tôi tiến hành nghiên cứu với mục tiêu khảo sát nồng độ IgE huyết thanh toàn phần và đặc 
hiệu ở bệnh nhân viêm da cơ địa. 
Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu hàng loạt ca trên 51 bệnh nhân viêm da cơ địa và 28 người có 
tương đồng về tuổi, giới làm nhóm chứng. 
Kết quả: Nồng độ IgE huyết thanh toàn phần trung bình ở nhóm bệnh cao hơn so với nhóm chứng 
(538,46 ± 396,68 so với 46,01 ± 32,99). Có 88,2% bệnh nhân VDCĐ có kết quả dương tính với IgE đặc 
hiệu, trong đó dị nguyên mạt nhà chiếm tỷ lệ cao nhất. Có mối tương quan thuận rất chặt giữa nồng độ 
trung bình của IgE huyết thanh toàn phần và điểm số SCORAD. 
Kết luận: IgE huyết thanh toàn phần và đặc hiệu là xét nghiệm hữu ích để chẩn đoán, đánh giá và theo 
dõi bệnh, rất có ý nghĩa trong việc điều trị cũng như phòng ngừa sự tái phát của bệnh viêm da cơ địa. 
Từ khoá: viêm da cơ địa, nồng độ IgE toàn phần, nồng độ IgE đặc hiệu. 
ABSTRACT 
TOTAL AND SPECIFIC IgE SERUM CONCENTRATIONS OF PATIENTS WITH ATOPIC 
DERMATITIS IN HOSPITAL OF DERMATO-VENEREOLOGY, HO CHI MINH CITY 
Truong Tieu Vi, Nguyen Tat Thang, Van The Trung 
* Y Hoc TP. Ho Chi Minh * Vol. 22 - No 1- 2018: 58 – 65 
Background: Atopic dermatitis is a recurrent and chronic dermatitis. Immune disorders (the role of Specific 
IgE serum) has a relation to the severity of the disease and the risk of allergy in patients. We conducted this study 
with the aim to investigate total and specific IgE serum concentrations in patients with atopic dermatitis. 
Method: We performed a case - series study in 51 patients with atopic dermatitis and 28 aged and sex 
equally matched healthy controls. 
Result: Patients with atopic dermatitis had total IgE serum concentrations higher than controls (mean SD: 
538.46 ± 396.68 vs 46.01 ± 32.99). The positive result with specific IgE serum concentrations was 88.2% and dust 
mite was the highest. There was a very positive correlation between total IgE serum concentrations and SCORAD 
scores. 
Conclusion: Total and specific IgE serum are useful test for the diagnosis, evaluation and monitoring of 
disease. They are very significant in the treatment and prevention of relapse. 
Key word: Atopic dermatitis, total IgE serum concentration, specific IgE serum concentration. 
* Bệnh viện đa khoa tỉnh Trà Vinh ** Bộ môn Da Liễu – ĐHYD TP. HCM 
Tác giả liên lạc: TS. BS. Văn Thế Trung ĐT: 0908282705 Email: vanthetrungdhyd@yahoo.com 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 22 * Số 1 * 2018 Nghiên cứu Y học
 59
ĐẶT VẤN ĐỀ 
Viêm da cơ địa (Atopic dermatitis) là một 
bệnh viêm da mạn tính và hay tái phát. Rối loạn 
miễn dịch cụ thể là vai trò của nồng độ IgE huyết 
thanh có liên quan đến nguy cơ dị ứng trên các 
bệnh nhân viêm da cơ địa. Tuy nhiên những 
biến đổi miễn dịch không phải lúc nào cũng gặp 
trên các bệnh nhân VDCĐ, đặc biệt trên các bệnh 
nhân lớn tuổi. Xác định được chính xác dị ứng 
nguyên cho từng bệnh nhân cụ thể rất có ý nghĩa 
trong việc điều trị cũng như phòng ngừa tái phát 
của Viêm da cơ địa(6). 
Vì vậy, chúng tôi tiến hành nghiên cứu này 
để khảo sát nồng độ IgE huyết thanh toàn phần 
và đặc hiệu, đồng thời tìm ra mối liên quan giữa 
chúng với đặc điểm lâm sàng của bệnh nhân 
viêm da cơ địa. 
Mục tiêu nghiên cứu 
Xác định đặc điểm lâm sàng của bệnh nhân 
viêm da cơ địa. 
Xác định nồng độ IgE huyết thanh toàn phần 
và đặc hiệu trong huyết thanh của nhóm viêm 
da cơ địa và nhóm chứng. 
Xác định mối liên quan giữa nồng độ IgE 
huyết thanh toàn phần và đặc hiệu với đặc điểm 
dịch tễ và lâm sàng của bệnh nhân viêm da cơ 
địa. 
ĐỐI TƯỢNG - PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
Thiết kế nghiên cứu 
Nghiên cứu hàng loạt ca 
Đối tượng nghiên cứu 
Tất cả bệnh nhân VDCĐ đến khám và điều 
trị tại Bệnh viện Da liễu TPHCM. 
Tiêu chuẩn chọn bệnh 
Nhóm bệnh: Bệnh nhân từ 18 tuổi trở lên 
được chẩn đoán VDCĐ theo tiêu chuẩn của 
AAD và đồng ý tham gia nghiên cứu. 
Nhóm chứng: Có độ tuổi và giới tính tương 
đồng với nhóm bệnh, là người khoẻ mạnh hiện 
tại không mắc bệnh viêm da cơ địa và các bệnh 
lý nội ngoại khoa khác. 
Tiêu chuẩn loại trừ 
- Bệnh nhân không đồng ý tham gia nghiên 
cứu 
- Bệnh nhân đang mắc các bệnh lý ác tính 
(ung thư), suy giảm miễn dịch (HIV/AIDS), đang 
có bệnh lý nội khoa nặng (suy tim, suy hô hấp) 
và các bệnh lý nền của da khác (ghẻ, viêm da tiết 
bã, viêm da tiếp xúc, Lymphoma tế bào T ở da, 
vảy nến, viêm da nhạy cảm ánh sáng, đỏ da toàn 
thân do nguyên nhân khác) làm ảnh hưởng đến 
kết quả phân tích của dị ứng nguyên. 
- Bệnh nhân đã uống corticoid trong vòng 72 giờ 
và kháng histamine trong vòng 24 giờ. 
- Bệnh nhân đang có thai hoặc đang cho con bú. 
Phương pháp chọn mẫu 
Chọn mẫu thuận tiện liên tục. 
Thu thập số liệu 
Nồng độ IgE huyết thanh toàn phần (biến 
định lượng) 
Nồng độ IgE huyết thanh đặc hiệu (biến nhị 
giá) 
Tuổi, tuổi khởi phát (biến định lượng) 
Giới tính, nghề nghiệp, tiền sử mắc bệnh cơ 
địa, yếu tố khởi phát bệnh, giai đoạn bệnh, mức 
độ bệnh (biến định tính) 
Điểm số SCORAD (biến định lượng) 
Đặc điểm lâm sàng (biến định tính) 
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU 
Từ tháng 10/2016 - 4/2017 với 51 bệnh nhân 
viêm da cơ địa và 28 người khoẻ mạnh bình 
thường chúng tôi thu được các kết quả sau đây: 
Không có sự khác biệt về tuổi trung bình, 
giới tính, nghề nghiệp và nơi sinh sống giữa 
nhóm bệnh và nhóm chứng (Bảng 1). 
Bệnh nhân viêm da cơ địa mức độ nặng và ở 
giai đoạn bán cấp chiếm tỷ lệ cao nhất (Bảng 2). 
Ngứa và khô da đều chiếm tỷ lệ 100%, các 
triệu chứng khác như mất n ...  lệch chuẩn Anova test 
Nhẹ 140,16 82,4 
p < 0,05 
Trung bình 453,19 169,8 
Nặng 928,59 254,59 
Nồng độ tIgE = -308,42 + 0,882*SCORAD r = 0,882. 
Bảng 9: Nồng độ IgE đặc hiệu theo các yếu tố dịch tễ 
Đặc điểm sIgE (+) p 
Có 
(n,%) 
Không 
(n,%) 
Giới tính Nam 16 (35,6) 4 (66,7) 0,143 
Chi square Nữ 29 (64,4) 2 (33,3) 
Nghề nghiệp CN 17 (37,8) 4 (66,7) 0,71 
Fisher CNVC 8 (17,8) 1 (16,7) 
HSSV 6 (13,3) 0 (0) 
Khác 14 (31,1) 1 (16,7) 
Nơi sinh sống Tỉnh 26 (57,8) 1 (16,7) 0,088 
Fisher Tp.Hồ Chí Minh 19 (42,2) 5 (83,3) 
Tiền sử bệnh cơ địa Có 42 (93,3) 4 (66,7) 0,099 
Fisher Không 3 (6,7) 2 (33,3) 
Tuổi khởi phát < 2 tuổi 4 (8,9) 1 (16,7) 0,709 
Fisher 2-12 tuổi 4 (8,9) 0 (0) 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 22 * Số 1 * 2018
 62
Đặc điểm sIgE (+) p 
Có 
(n,%) 
Không 
(n,%) 
>12 tuổi 37 (82,2) 5 (83,3) 
Yếu tố khởi phát Thức ăn 16 (35,6) 3 (50) 0,213 
Fisher Hít 10 (22,2) 0 (0) 
Tiếp xúc 1 (2,2) 1 (16,7) 
Không rõ 18 (40) 2 (33,3) 
Bảng 10: Nồng độ IgE đặc hiệu theo độ nặng bệnh 
Độ nặng bệnh sIgE (+) Fisher 
Có Không 
Nhẹ (n,%) 18 (40%) 0 (0%) 0,093 
Trung bình (n,%) 9 (20%) 3 (50%) 
Nặng (n,%) 18 (40%) 3 (50%) 
Bảng 11: Mối liên quan giữa mức độ lâm sàng và loại kháng thể đặc hiệu 
 Nhẹ (n,%) Trung Bình (n,%) Nặng (n,%) Chi square (p) 
Mạt nhà DP 5 (23,8) 5 (23,8) 11 (52,4) 0,298 
Mạt nhà DF 6 (24) 6 (24) 13 (52) 0,205 
Hỗn hợp cỏ 6 (46,2) 1 (7,6) 6 (46,2) 0,307* 
Mèo 0 (0) 1(50) 1 (50) 0,704* 
Chó 0 (0) 0(0) 1 (100) 1* 
Sữa 6 (66,7) 3 (33,3) 0 (0) 0,008* 
Lòng đỏ 1(16,7) 3 (50) 2 (33,3) 0,299* 
Carrot 1 (20) 1 (20) 3 (60) 0,836* 
Khoai tây 1 (16,7) 2 (33,3) 3 (50) 0,632* 
Bột mì 0 (0) 0 (0) 1 (100) 1* 
Hazelnut 0 (0) 0 (0) 2 (100) 0,336* 
*Phép kiểm Fisher 
BÀN LUẬN 
Nghiên cứu trên 51 bệnh nhân viêm da cơ 
địa và 28 người khoẻ mạnh, tuổi trung bình của 
nhóm bệnh là 40,92 15,44, tuổi nhỏ nhất là 19 
và tuổi lớn nhất là 73. Trong nghiên cứu của 
chúng tôi, tỷ lệ bệnh nhân nữ cao hơn bệnh nhân 
nam, đa số bệnh nhân đều làm các nghề lao 
động chân tay, tỷ lệ bệnh nhân sống ở ngoại 
thành và nội thành tương đương nhau. 
Diễn tiến bệnh thường được chia làm 3 giai 
đoạn: Cấp tính, bán cấp và mạn tính. Trong 
nghiên cứu của chúng tôi, giai đoạn bán cấp 
chiếm tỷ lệ cao nhất 74,5% kế đến là giai đoạn 
mạn tính 19,6% và giai đoạn cấp tính chiếm tỷ lệ 
thấp nhất 5,9%. Kết quả này phù hợp với nghiên 
cứu của tác giả Châu Văn Trở(3) và Vũ Thị Minh 
Nhật(13). Tuy nhiên kết quả này lại không phù 
hợp với tác giả Lưu Nguyễn Anh Thư(9), giai 
đoạn cấp tính chiếm tỷ lệ cao nhất 40%, kế đến là 
giai đoạn bán cấp 36% và cuối cùng là giai đoạn 
mạn tính 24%. Kết quả của chúng tôi ghi nhận 
điểm SCORAD trung bình là 40,92 16,9, tương 
tự với tác giả Vũ Thị Minh Nhật(13) 41,51 13,5 
nhưng cao hơn tác giả Châu Văn Trở(3) 35,65 
17,6 và Lưu Nguyễn Anh Thư 35,47 13,74(9). Về 
độ nặng bệnh theo chỉ số SCORAD, chúng tôi 
ghi nhận mức độ nặng chiếm tỷ lệ cao nhất 
41,2%, mức độ nhẹ chiếm tỷ lệ 35,3% và cuối 
cùng là mức độ trung bình 23,5%. Tỷ lệ bệnh 
nhân phân bố theo mức độ nặng trong nghiên 
cứu của chúng tôi cao hơn các nghiên cứu của 
các tác giả Mittermann I(10), Shi M(11) và Lưu 
Nguyễn Anh Thư(9). Tác giả Shi M(11) ghi nhận 
22,7% bệnh nhân nhẹ, 66,6% trung bình và 10,7% 
bệnh nhân nặng. Tác giả Mittermann I(10) cho kết 
quả nghiên cứu có 29,6% bệnh nhân nặng và 
70,4% bệnh nhân trung bình không có bệnh 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 22 * Số 1 * 2018 Nghiên cứu Y học
 63
nhân nhẹ. Nghiên cứu của tác giả Lưu Nguyễn 
Anh Thư(9) cũng ghi nhận tỷ lệ bệnh nhân mức 
độ trung bình cao nhất 46%, tiếp đến là mức độ 
nhẹ 34% và nặng 20%. Tỷ lệ bệnh nhân phân bố 
theo mức độ nặng trong nghiên cứu của chúng 
tôi cao hơn các nghiên cứu trên, có thể do bệnh 
nhân không đi khám khi bệnh mới khởi phát 
hoặc điều trị không đúng cách mà đợi đến khi 
bệnh nặng mới vào viện. 
Trong nghiên cứu của chúng tôi 100% bệnh 
nhân có ngứa và khô da, 52,9% bệnh nhân bị mất 
ngủ. Các triệu chứng thường gặp khác cũng 
được ghi nhận cụ thể như sau: Tổn thương 
quanh mắt (82,4%), tổn thương quanh miệng 
(56,9%), tổn thương quanh tai (23,5%), lichen hoá 
(41,2%), sẩn ngứa (58,8%). 
Chúng tôi ghi nhận kết quả nồng độ IgE 
huyết thanh toàn phần trung bình ở nhóm bệnh 
cao hơn nhóm chứng với giá trị là 538,46 396,68 
và 46,01 32,99 (p < 0,05). Kết quả của các tác giả 
Zedan K(14) (556 ± 198 IU/mL và 41 ± 19 IU/mL) và 
Mittermann I(10) (172 IU/mL và 21 IU/mL) cũng 
ghi nhận nồng độ IgE toàn phần ở nhóm bệnh 
cao hơn nhóm chứng. Kết quả này cũng phù hợp 
với nghiên cứu của chúng tôi nhưng nồng độ 
IgE huyết thanh toàn phần ở mỗi nhóm trong 
nghiên cứu của chúng tôi cao hơn, có thể do là 
do cỡ mẫu khác nhau và trong nghiên cứu của 
tác giả, số bệnh nhân trung bình chiếm tỷ lệ cao 
hơn, còn trong nghiên cứu của chúng tôi, tỷ lệ 
bệnh nhân nặng lại cao hơn. 
Kết quả của chúng tôi ghi nhận có 88,2% 
bệnh nhân dương tính với xét nghiệm IgE đặc 
hiệu (có ít nhất một kết quả dương tính) phù hợp 
y văn(2,5). Kết quả của chúng tôi tương tự với các 
tác giả Somani VK(12) và Mittermann I(10). Nghiên 
cứu của Somani VK và cs(12) trên 50 bệnh nhân 
viêm da cơ địa được chẩn đoán theo tiêu chuẩn 
của Hanifin và Raika với 27 nam và 23 nữ cho 
kết quả nồng độ IgE huyết thanh đặc hiệu 
dương tính với tỷ lệ 88%. Nghiên cứu của 
Mittermann I(10) cũng ghi nhận kết quả tỷ lệ IgE 
huyết thanh đặc hiệu dương tính với tỷ lệ 82%. 
Tuy nhiên cao hơn tác giả Liu P(8) khi chỉ ghi 
nhận có 30,8% tỷ lệ bệnh nhân dương tính với 
IgE đặc hiệu trong tổng số 2662 bệnh nhân viêm 
da cơ địa. 
Trong nhóm dương tính với IgE đặc hiệu 
(88,2%) có 52,4% dương tính với nhóm dị ứng 
nguyên hô hấp, 23,8% dương tính với nhóm dị 
ứng nguyên thực phẩm, còn lại 23,8% dương 
tính với cả dị ứng nguyên hô hấp và thực phẩm. 
Trong nhóm các dị ứng nguyên, tỷ lệ dị ứng với 
kháng thể mạt nhà Derm.pteronyssinus và 
Derm. Farinae chiếm tỷ lệ cao hơn so với các dị 
ứng nguyên còn lại. Tác giả Zeng và cs(15) khi 
nghiên cứu trên 437 trẻ thấy rằng tỷ lệ dương 
tính với IgE đặc hiệu là 69,1%. Các loại dị ứng 
nguyên thường gặp nhất là mạt nhà (farina), sữa 
và lông chó mèo. Kháng thể mạt nhà gặp ở 86% 
trẻ viêm mũi dị ứng, 41,2% trẻ viêm da cơ địa, và 
20% trẻ mày đay. Nghiên cứu của Somani VK và 
cs(12) trên 50 bệnh nhân viêm da cơ địa ghi nhận 
tỷ lệ dương tính với các dị nguyên như sau: Cỏ 
44%, mạt nhà 32%, lông động vật 24%. Hầu hết 
các tác giả đều ghi nhận dị ứng nguyên hay gặp 
ở bệnh nhân có bệnh lý da do miễn dịch như 
viêm da cơ địa, mày đay là nhóm mạt nhà 
Derm.pteronyssinus và Derm. Farinae. Kết quả 
nghiên cứu của chúng tôi với nhóm dị ứng 
nguyên thực phẩm thì sữa chiếm tỷ lệ cao nhất 
17,6%. Kết quả nghiên cứu của tác giả Hill D J(6) 
tương tự với chúng tôi, ghi nhận các loại thực 
phẩm hay gặp trên bệnh nhân viêm da cơ địa 
bao gồm sữa bò, trứng và đậu phộng. 
Khi khảo sát mối liên quan giữa nồng độ IgE 
toàn phần với các yếu tố dịch tễ như giới tính, 
nghề nghiệp, nơi sinh sống, tiền sử bệnh cơ địa, 
yếu tố khởi phát, tuổi khởi phát chúng tôi ghi 
nhận: nồng độ IgE toàn phần trung bình ở nữ 
giới cao hơn nam giới, ở bệnh nhân sinh sống ở 
tỉnh cao hơn TP. Hồ Chí Minh, ở nhóm có tiền sử 
bệnh cơ địa cao hơn nhóm không có tiền sử bệnh 
cơ địa. Những bệnh nhân làm nghề lao động 
chân tay như công nhân hay nội trợ có nồng độ 
IgE toàn phần cao hơn các ngành nghề khác. 
Nồng độ IgE toàn phần ở nhóm có tuổi khởi 
phát dưới 2 tuổi cao hơn 2 nhóm còn lại và ở 
Nghiên cứu Y học Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 22 * Số 1 * 2018
 64
nhóm bệnh nhân có yếu tố khởi phát là dị 
nguyên hít chiếm tỷ lệ cao nhất. Sự khác biệt này 
không có ý nghĩa thống kê. 
Chúng tôi ghi nhận có mối tương quan rất 
chặt giữa nồng độ IgE toàn phần và mức độ 
bệnh theo điểm số SCORAD với phương trình 
hồi qui đơn biến là: 
Nồng độ IgE = -308,42 + 0,882*Scorad; r= 0,882 
Kết quả của chúng tôi tương tự với tác giả 
Aral M(1) với r = 0,99 và p < 0,001, tác giả Glatz 
M(4) với r = 0,549, p < 0,001 và tác giả Zedan K(14) 
với r = 0,9 và p < 0,001. 
Tỷ lệ dương tính với IgE đặc hiệu ở nữ giới 
cao hơn nam giới ở nhóm bệnh nhân sống ở tỉnh 
cao hơn TP. Hồ Chí Minh, ở nhóm bệnh làm 
nghề công nhân cao hơn các nhóm nghề còn lại, 
và ở nhóm có tiền sử mắc bệnh cơ địa cao hơn 
nhóm không có tiền sử. Khác với IgE toàn phần, 
nhóm có tuổi khởi phát trên 12 tuổi cho tỷ lệ 
dương tính với IgE đặc hiệu cao nhất, nhóm có 
yếu tố khởi phát là dị nguyên thức ăn cho kết 
quả cao hơn nhóm dị nguyên hít và tiếp xúc. Sự 
khác biệt về nồng độ IgE đặc hiệu với các yếu tố 
này không có ý nghĩa thống kê. Chúng tôi chưa 
tìm được nghiên cứu nào nghiên cứu mối liên 
quan giữa nồng độ IgE huyết thanh đặc hiệu với 
các yếu tố trên, tuy nhiên kết quả của chúng tôi 
giúp củng cố thêm kết luận rằng không có sự 
khác nhau về nồng độ IgE đặc hiệu với các yếu 
tố dịch tễ. 
Khi phân tích giá trị IgE huyết thanh đặc 
hiệu với độ nặng bệnh, chúng tôi ghi nhận nhóm 
bệnh nhân viêm da cơ địa nặng và nhẹ có tỷ lệ 
dương tính với IgE đặc hiệu cao hơn nhóm trung 
bình. Sự khác biệt về nồng độ IgE huyết thanh 
đặc hiệu theo mức độ bệnh không có ý nghĩa 
thống kê. Khi phân loại mối liên quan giữa mức 
độ lâm sàng và loại kháng thể đặc hiệu, chúng 
tôi nhận thấy hầu hết các dị nguyên nhóm hô 
hấp thường gặp ở nhóm bệnh nặng nhiều hơn. 
Sự khác biệt về các tỷ lệ này không có ý nghĩa 
thống kê với p > 0,05. Đối với nhóm dị nguyên 
thức ăn thì cà rốt, khoai tây, bột mì và quả phỉ 
chỉ gặp ở bệnh nhân nặng, riêng đối với dị 
nguyên sữa lại nhạy cảm với bệnh nhân nhẹ và 
trung bình, đặc biệt sự khác biệt về các tỷ lệ này 
có ý nghĩa thống kê với p = 0,008 khi dùng phép 
kiểm Fisher. Tác giả Laske N và Niggemann B(7) 
nghiên cứu trên 345 trẻ viêm da cơ địa ghi nhận 
trẻ có điểm số SCORAD càng cao tương ứng với 
mức độ bệnh càng nặng thì nhạy cảm với các dị 
nguyên đường hô hấp nhiều hơn (p < 0,02). Tác 
giả Mittermann I(10) ghi nhận kết quả cao hơn 
chúng tôi khi tỷ lệ dương tính với IgE đặc hiệu ở 
nhóm nặng là 85%, nhóm trung bình là 80%. Tác 
giả cũng ghi nhận các dị nguyên hô hấp thường 
gặp ở bệnh nhân viêm da cơ địa là mạt nhà, chó, 
mèo, phấn hoa, Staphylococcus Aureus và M. 
Sympodialis. Trong đó, nhóm bệnh nhân nặng 
thường nhạy cảm với các dị nguyên như mạt 
nhà, mèo, Staphylococcus Aureus và M. 
Sympodialis. Nhóm bệnh trung bình thường 
nhạy cảm với các dị nguyên như chó, mèo, mạt 
nhà và cỏ. Tuy nhiên, dị nguyên mạt nhà gặp ở 
nhóm nặng nhiều hơn, hỗn hợp cỏ lại gặp ở 
nhóm trung bình nhiều hơn. 
KẾT LUẬN 
Qua nghiên cứu chúng tôi nhận thấy nồng 
độ trung bình của IgE toàn phần ở nhóm bệnh 
cao hơn nhóm chứng. Có 88,2% bệnh nhân có 
kết quả dương tính với IgE đặc hiệu. Trong các 
dị ứng nguyên hô hấp, dị nguyên mạt nhà (DP 
và DF) chiếm đa số. Có mối tương quan thuận 
rất chặt giữa nồng độ trung bình của IgE huyết 
thanh toàn phần và điểm số SCORAD. Có thể 
thấy rằng hầu hết các dị ứng nguyên hô hấp 
thường gặp ở nhóm bệnh nhân nặng hơn nhóm 
bệnh trung bình và nhẹ. 
TÀI LIỆU THAM KHẢO 
1. Aral M, et al (2006), “The Relationship Between Serum Levels 
of Total IgE, IL-18, IL-12, IFN-γ and Disease Severity in 
Children With Atopic Dermatitis”, Mediators Inflamm, 2006 (4). 
2. Bolognia J L, Jorizzo J L and Schaffe J V (2012), “Atopic 
Dermatitis”, Dermatology, pp. 203. 
3. Châu Văn Trở (2013), "Nghiên cứu siêu kháng nguyên của tụ 
cầu vàng và hiệu quả điều trị viêm da cơ địa bằng kháng sinh 
Cefuroxim", Luận án Tiến sĩ Y học. Đại học Y Hà Nội. 
Y Học TP. Hồ Chí Minh * Tập 22 * Số 1 * 2018 Nghiên cứu Y học
 65
4. Glatz M, et al (2015), “Malassezia spp.-specific 
immunoglobulin E level is a marker for severity of atopic 
dermatitisin adults”, Acta Derm Venereol, 95 (2), pp. 191-196. 
5. Habif TP (2016), “Atopic Dermatitis”, Clinical Dermatology: A 
Color Guide to Diagnosis and Therapy, pp. 150-177. 
6. Hill DJ, et al (2000), “The association of atopic dermatitis in 
infancy with immunoglobulin E food sensitization”, The 
Journal of Pediatrics, 137 (4), pp. 475 - 479. 
7. Laske N, Niggemann B (2004), “Does the severity of atopic 
dermatitis correlate with serum IgE levels?”, Pediatr Allergy 
Immunol, 15(1), pp. 86-88. 
8. Liu P, et al (2016), “Clinical Features of Adult/Adolescent 
Atopic Dermatitis and Chinese Criteria for Atopic 
Dermatitis”, J Chin med, 129(7), pp. 757-762. 
9. Lưu Nguyễn Anh Thư (2013), “Nồng độ Interleukin - 2 huyết 
thanh của bệnh nhân viêm da cơ địa tại bệnh viện Da liễu 
TP.Hồ Chí Minh”. Luận văn thạc sĩ, trường Đại học Y dược 
thành phố Hồ Chí Minh, tr.31- 64. 
10. Mittermann I, et al (2016), “IgE Sensitization Profiles Differ 
between Adult Patients with Severe and Moderate Atopic 
Dermatitis”. PLoS One.. doi: 10.1371/journal.pone. 
0156077. 
11. Shi M et al (2011), “Clinical features of atopic dermatitis in a 
hospital-based setting in China”, J Eur Acad Dermatol Venereol, 
25(10), pp. 1206-12. 
12. Somani VK, et al (2008), “A study of allergen-specific IgE 
antibodies in Indian patients of atopic dermatitis”, Indian J 
Dermatol Venereol Leprol. 2008 Mar-Apr;74(2):100-4. 
13. Vũ Thị Minh Nhật (2015), “Nồng độ Vitamin D trong huyết 
thanh và mối liên quan với đặc điểm lâm sàng của bệnh nhân 
Viêm Da Cơ Địa”, Luận văn thạc sĩ, trường Đại học Y dược 
thành phố Hồ Chí Minh. 
14. Zedan K, et al (2015), “Immunoglobulin E, Interleukin-18 and 
Interleukin-12 in Patients with Atopic Dermatitis: Correlation 
with Disease Activity”, J Clin Diagn Res, 9(4), pp. WC01–
WC05. 
15. Zeng YH, Zhang D, Shu Y, et al (2009), “Detection of serum 
specific IgE in 437 children with allergic disease”, Zhongguo 
Dang Dai Er Ke Za Zhi, 11(7), pp. 543-545. 
Ngày nhận bài báo: 14/11/2017 
Ngày phản biện nhận xét bài báo: 16/11/2017 
Ngày bài báo được đăng: 28/02/2018 

File đính kèm:

  • pdfnong_do_ige_huyet_thanh_toan_phan_va_dac_hieu_tren_benh_nhan.pdf