Nho giáo Việt Nam từ thời Bắc thuộc đến đầu thế kỷ XI
Nho giáo đã tham gia một phần quan trọng vào việc xây dựng nên diện mạo tinh thần của
dân tộc, vào văn hóa dân tộc Việt Nam. Vì vậy, trong công cuộc cách mạng văn hóa hiện nay, cần
phải nghiên cứu Nho giáo để thấy tôn giáo này đã ảnh hưởng đến văn hóa của chúng ta như thế nào.
Nho giáo, bên cạnh những ảnh hưởng tiêu cực, cản trở nghiêm trọng bước tiến của xã hội, còn có
nhiều yếu tố tích cực tác động đến đời sống dân tộc. Vì vậy, để đánh giá đúng đắn những ảnh hưởng
của Nho giáo, chúng ta cần đặt nó vào bối cảnh lịch sử cụ thể để nghiên cứu.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Tải về để xem bản đầy đủ
Bạn đang xem 10 trang mẫu của tài liệu "Nho giáo Việt Nam từ thời Bắc thuộc đến đầu thế kỷ XI", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Nho giáo Việt Nam từ thời Bắc thuộc đến đầu thế kỷ XI
51 Nho giáo Việt Nam từ thời Bắc thuộc đến đầu thế kỷ XI Nguyễn Thị Như1 1 Học viện Quản lý giáo dục. Email: nguyenyennhu84@gmail.com Nhận ngày 25 tháng 11 năm 2017. Chấp nhận đăng ngày 14 tháng 12 năm 2017. Tóm tắt: Nho giáo đã tham gia một phần quan trọng vào việc xây dựng nên diện mạo tinh thần của dân tộc, vào văn hóa dân tộc Việt Nam. Vì vậy, trong công cuộc cách mạng văn hóa hiện nay, cần phải nghiên cứu Nho giáo để thấy tôn giáo này đã ảnh hưởng đến văn hóa của chúng ta như thế nào. Nho giáo, bên cạnh những ảnh hưởng tiêu cực, cản trở nghiêm trọng bước tiến của xã hội, còn có nhiều yếu tố tích cực tác động đến đời sống dân tộc. Vì vậy, để đánh giá đúng đắn những ảnh hưởng của Nho giáo, chúng ta cần đặt nó vào bối cảnh lịch sử cụ thể để nghiên cứu. Từ khóa: Nho giáo, Bắc thuộc, nhà Ngô, nhà Đinh, nhà Tiền Lê. Phân loại ngành: Triết học Abstract: Confucianism has played an important role in the development of the spiritual value of Vietnam and its national culture. As a result, in the current cultural revolution, it is necessary to study the doctrine to see how it has affected the Vietnamese culture. In addition to the negative impacts that severely hindered the progress of Vietnam’s society, Confucianism does contain many factors that impacted the nation positively. Therefore, so as to properly assess the effects of Confucianism, we need to put it into a specific historical context to study. Keywords: Confucianism, Northern domination, Ngo dynasty, Dinh dynasty, Early Le dynasty. Subject classification: Philosophy 1. Mở đầu Nho giáo có ảnh hưởng khác nhau ở các thời đại khác nhau và đối với các tầng lớp khác nhau. Khi tìm hiểu Nho giáo, chúng ta cần phân tích những điều kiện xã hội, trong đó Nho giáo đã nảy sinh, phát triển và suy tàn. Không có một Nho giáo chung chung cho các thời đại, một Nho giáo nhất thành bất biến, thích ứng ở khắp mọi nơi, mọi lúc. Khoa học xã hội Việt Nam, số 2 - 2018 52 Chỉ có trên cơ sở nghiên cứu những điều kiện xã hội cụ thể, chúng ta mới nắm được thực chất nội dung Nho giáo qua các thời kỳ lịch sử. Bài viết phân tích ảnh hưởng của Nho giáo ở thời kỳ Bắc thuộc và thời kỳ Ngô, Đinh, Tiền Lê. 2. Nho giáo thời Bắc thuộc Năm 179 trước Công nguyên, Triệu Đà chiếm được Âu Lạc; sáp nhập đất đai Âu Lạc vào quốc gia phong kiến Nam Việt; chia Âu Lạc làm hai quận Giao Chỉ (Bắc Bộ) và Cửu Chân (Bắc Trung bộ); cử quan lại, quân lính sang cai trị và đóng đồn. Khi đất đai Âu Lạc bị tổ chức thành quận huyện, chính quyền phong kiến họ Triệu cũng thi hành một chính sách đồng hóa ráo riết đối với người Việt. Tuy nhiên, việc tổ chức chính quyền của họ Triệu với chính sách dung dưỡng để thống trị khiến xã hội Âu Lạc không gây ra sự biến đổi đáng kể, không làm cho ý thức hệ phong kiến xâm nhập nhiều vào xã hội thuộc địa. Đến năm 111 trước Công nguyên, nước Nam Việt của Triệu Đà bị nhà Hán thôn tính, vùng đất Âu Lạc bị đổi thành châu Giao Chỉ, bao gồm dưới đó 7 quận. Triều đình phong kiến nhà Hán đã áp dụng một chính sách thống trị mới tại đây nhằm ra sức khai thác kinh tế, củng cố chính quyền và đồng hóa nhân dân Việt theo văn hóa Trung Hoa. Để phục vụ cho công cuộc đồng hóa, giai cấp thống trị mới (thay thế giai cấp thống trị trước đó) “buộc phải làm cho tư tưởng của mình có hình thức phổ biến, phải nêu nó lên thành những tư tưởng duy nhất hợp lý, duy nhất có giá trị một cách phổ biến” [7, tr.368-369]. Từ đó, văn tự Trung Hoa cùng với Nho giáo được truyền bá mạnh mẽ vào xã hội Lạc Việt, làm cơ sở cho ý thức hệ phong kiến thống trị. Tuy nhiên, theo Nguyễn Kim Sơn, trong thái độ của triều đình phong kiến Trung Hoa đối với việc truyền bá Nho giáo vào xã hội Việt Nam lại xuất hiện một nghịch lý, mâu thuẫn. Họ vừa đẩy mạnh giáo hóa, thúc đẩy ảnh hưởng của văn hóa Nho giáo tới các vùng quận huyện biên viễn, lại vừa kìm hãm, hạn chế sự phát triển của văn hóa Nho giáo ở các khu vực này [5, tr.433-450]. Nho giáo (với tư tưởng tam cương, ngũ thường, tư tưởng thiên mệnh hết sức khắc nghiệt được coi là hệ tư tưởng thống trị của giai cấp phong kiến phương Bắc) được sử dụng như một công cụ chủ yếu để thống trị, nô dịch nhân dân ta. Nó đóng vai trò thiết yếu trong quá trình hợp thức hóa chế độ Bắc thuộc và biến nước ta thành quận, huyện của Trung Quốc, khiến văn hóa nước ta trở nên phụ thuộc và là một bộ phận của văn hóa Hán. Chính vì thế, những viên quan cai trị (như Tích Quang, Nhâm Diên, Tô Định, Mã Viện, Sỹ Nhiếp, Đỗ Tuệ Độ, Cao Biền) là những người tích cực đưa Nho giáo và những phong tục xuất từ Nho giáo vào Việt Nam dưới mọi hình thức, từ truyền bá điển lễ hôn nhân gia đình, thiết lập pháp chế, đến cổ động tín ngưỡng, mở trường dạy học Tuy nhiên, việc truyền bá Nho giáo, Nho học theo đúng nghĩa của những từ này lại bị hạn chế. Nền giáo dục Nho học có được triển khai cũng chỉ vì giai cấp thống trị nước ngoài muốn đào tạo cho bộ máy cai trị của họ một số người làm tay sai, chứ không nhằm mục đích giáo hóa cho toàn bộ những người dân Việt bản xứ. Tuy kinh điển Nho giáo có được đem giảng dạy ở các trường, nhưng theo học các trường này là con em quan lại địa chủ Hán tộc và một số con em tầng lớp trên của xã hội Việt mà lực lượng ngoại xâm có thể dựa vào để Nguyễn Thị Như 53 cai trị. Việc bổ nhiệm, sử dụng quan lại người gốc Giao Chỉ tại Trung Châu, cũng như tại chính Giao Chỉ, có sự phân biệt đối xử so với người Trung Quốc, điều đó cũng tạo ra lực cản cho sự phát triển Nho học tại khu vực này. Thậm chí, những trí thức người Việt có tâm huyết, hoài bão, thực lòng muốn dâng hiến trí tuệ và tài năng của mình cho nước cho dân, thì lại bị triều đình trung ương gờm sợ. Số người này bị đánh trượt trong các kỳ thi, nhất là kỳ thi tiến sĩ lấy người sung vào các cơ quan chủ chốt. Những người đỗ rồi, vẫn không được phát triển, thi thố hết tài n ... chí tôn được đẩy mạnh hơn so với thời Đinh. Lê Hoàn nâng các con mình Khoa học xã hội Việt Nam, số 2 - 2018 58 lên một bậc Đại vương. Việc Lê Hoàn chia đất cho những người con trai thể hiện rõ vai trò của một ông vua phân phong đất cai trị. Lê Hoàn lấy niên hiệu Thiên Phúc (936-944) giống của nhà Hậu Tấn ngắn ngủi (936-946). Để đúng với địa vị Thiên tử, Lê Hoàn tổ chức mừng sinh nhật theo kiểu các vua Đường đề ra; cày ruộng tịch điền để mở mùa cho dân chúng. Chính quyền mới được xây dựng không chỉ phỏng theo khuôn mẫu Trung Hoa mà còn sử dụng cả quan lại là những người được đào tạo từ khuôn mẫu đó. Thái sư Hồng Hiến đương thời vốn là người Bắc triều, thông kinh sử, được vua tin dùng như tâm phúc. Quan lại trong triều được trọng dụng nếu không phải là người Trung Quốc thì cũng đều là những người có trình độ Hán hóa nhất định. Họ ủng hộ việc Lê Hoàn công nhận nguyên tắc vương quyền gia trưởng của Nho giáo vào năm 1004. Những người này cũng giúp triều đình phong kiến học được cách tổ chức chính quyền theo kiểu tập trung. Những hoạt động đó cho thấy, lúc này, sự tiếp nhận văn hóa Trung Hoa không còn tính cách cưỡng ép mà đã trở thành tự nguyện và tự nhiên. Những biểu hiện ảnh hưởng của Nho giáo dưới thời Lê Hoàn khiến Ngô Thì Sĩ phải ngạc nhiên vì đời Lê Hoàn “không thấy có nhắc gì tới học hiệu và khoa cử” thế mà “lá thư xin tập vị lời nói uyển chuyển và đắc thể ca khúc tiễn sứ thần tình ý lanh lẹ đầy đủ tình tứ, văn nhân cũng không thể hơn được” [4, tr.97]. Những hiểu biết văn chương, nghĩa lý điển cố tinh tường trong các bài thơ của sư Đỗ Pháp Thuận, sư Khuông Việt là bằng chứng cho thấy Hán học, Nho giáo vẫn được duy trì trong xã hội. Chẳng hạn như, Đỗ Pháp Thuận tuy là tổ sư của một môn phái Phật giáo, nhưng khi được vua Lê Đại Hành hỏi về vận nước, một câu hỏi thuộc lĩnh vực chính trị nhân sinh, đã có câu trả lời hướng đến các giải pháp cụ thể: “Quốc tộ như đằng lạc/Nam thiên lý thái bình/Vô vi cư điện các/Xứ xứ tức đao binh” [9, tr.204]. Quan niệm về “vô vi” trong câu trả lời của ông có nhận thức luận của Phật giáo làm nền tảng, có triết lý của Đạo giáo làm cơ sở và hướng tới hành vi của Nho giáo làm cứu cánh [10]. Cái vô vi mà Nho giáo hướng tới đó chính là biểu hiện của đường lối đức trị. Thánh nhân lấy đức thịnh mà cảm hóa dân nên vô vi mà vẫn bình trị. Đạo làm vua mà biết người, đạo làm tôi mà biết việc thì dù không cần ra lệnh mà muôn việc vẫn thành. Trị nước bằng đức thì vô vi mà thiên hạ theo về [1, tr.566]. Cuối đời Lê, Lê Long Đĩnh cũng nhận thấy rõ trào lưu chính đang ngự trị ở Hoa Lư. Đó là trào lưu xây dựng triều đại theo khuôn mẫu phương Bắc. Vì vậy, ngay sau khi lên ngôi, Lê Long Đĩnh đã “sửa đổi quan chế và triều phục cho các quan văn võ, tăng đạo đều theo đúng như nhà Tống” [2, tr.245], tổ chức cai trị bám sâu vào địa phương hơn, đặt thêm quân địa phương “sương quân” như của nhà Tống. Long Đĩnh nâng thần thổ địa đất Đằng Châu, nơi thực ấp của mình lên chức thành hoàng. Như vậy, lần đầu tiên một ông vua phong tước cho thần theo đúng quyền hành của một vị Thiên tử. Chính những đổi thay theo mô hình Tống trong triều Lê đã giúp cho ý thức về quân quyền ngày càng tăng tiến ở các triều đại về sau. Tuy nhiên, do phải giằng co với những yếu tố bản địa truyền thống, nên Nho giáo không dễ dàng khẳng định vị thế của mình trên bình diện xã hội trong buổi đầu độc lập; sự phát triển của Nho giáo ở thế kỷ thứ X có những diễn tiến phức tạp. Nguyễn Thị Như 59 Sau khi giành được độc lập, đất nước phát triển theo xu hướng tập quyền. Quan niệm vương quyền gia trưởng kiểu Nho giáo được coi là khuôn mẫu cần tuân thủ. Nhưng lúc này, nguyên tắc phụ quyền của Nho giáo chưa lấn đoạt được nguyên tắc mẫu quyền truyền thống. Phải rất khó khăn, nguyên tắc này mới dần dần được khẳng định. Ngô Quyền khi bệnh nặng, giao cho Dương Tam Kha giúp đỡ con mình. Điều đó thể hiện vai trò của Dương Tam Kha. Vai trò của người cậu trong một gia đình mẫu hệ là vai trò người nuôi nấng kẻ nối dõi dòng họ, vai trò điều khiển, quyết định. Dù bằng binh lực đánh dẹp 12 sứ quân, Đinh Bộ Lĩnh cũng phải lấy mẹ Ngô Nhật Khánh để bảo đảm vai trò tiếp nối nhà Ngô. Rồi Lê Hoàn lấy vợ Đinh Bộ Lĩnh, trước đó lại được bà Dương hậu này sai lấy áo long cổn cho mặc và mời lên ngôi hoàng đế. Các vua Đinh, Lê đều lập nhiều hoàng hậu ngang nhau. Tuy nhiên, thực tế lịch sử không để cho khuynh hướng truyền thống giữ ưu thế. Nguyên tắc phụ quyền, cho dù khó khăn, vẫn dần dần được khẳng định. Thời Ngô, sau khi Ngô Quyền mất, người anh vợ (có sách chép là em) Dương Tam Kha toàn quyền lựa chọn người kế nghiệp, đó là người con thứ Ngô Xương Văn. Nhưng do nếp sinh hoạt ở Đô hộ phủ An Nam đã chịu ảnh hưởng nhất định bởi quan niệm phụ quyền gia trưởng trong Nho giáo Trung Hoa, cho nên người con trưởng Ngô Xương Ngập không chịu thiệt thòi, đã xảy ra tranh giành, hiềm khích. Sang thời Đinh, Đinh Tiên Hoàng truyền ngôi cho người con nhỏ tuổi Hạng Lang. Các sử thần đời sau chê ông bỏ trưởng lập thứ, gây mầm rối loạn. Nhưng thực chất, tính chất trưởng thứ đã thể hiện rất rành rẽ trong quyết định của ông. Theo Tạ Chí Đại Trường trong tác phẩm Những bài dã sử Việt, “Hạng Lang” là chuyển âm Hán Việt của từ “Chàng Lớn”, Hạng Lang mới chính là con trưởng của họ Đinh tính theo dòng chính. Vì vậy, Đinh Tiên Hoàng đã truyền ngôi đúng với nguyên tắc của Nho giáo. Nguyên tắc ấy, qua thời Lê sang đến thời Lý mới thực sự thắng thế. Việc Nho giáo khó xác lập vị thế chính thống trong thời kỳ này còn xuất phát từ chỗ ý thức thời đại cũng chưa sẵn sàng cho những khuôn mẫu của nó. Khi tổ chức chính quyền phong kiến, Đinh Bộ Lĩnh đã thực hiện nhiều biện pháp củng cố quyền lực tích cực nhằm tăng cường tính tập trung, xóa bỏ yếu tố phân li. Họ Đinh đã thu phục các cựu sứ quân hay dòng dõi của họ (bằng cách đưa họ vào trong bộ máy chính quyền; lấy danh vị, chức tước triều đình mua chuộc, xoa dịu để đổi lấy sự thần phục; cho Phạm Phòng Át làm quan thân vệ, gả con cho Trần Thăng, em Trần Lãm, liên kết thông gia chặt chẽ với người thuộc dòng chính thống của họ Ngô, phong Lê Lương làm chức Trấn quốc bộc xạ). Tuy nhiên, các thành phần chính quyền từ nhiều nguồn gốc đó là một duyên cớ quan trọng khiến cho khó có một triều đại bền vững. Chính vì khó có thể tin được sự thần phục của các cựu sứ quân hay của dòng dõi họ, cho nên Đinh Tiên Hoàng, thay vì sử dụng biện pháp nhân trị của Nho giáo, đã “đặt vạc dầu lớn ở sân triều, nuôi hổ dữ ở trong cũi” [2, tr.205] để trị tội kẻ phản đối. Đó là biện pháp mạnh trên cái thế thống nhất mỏng manh. Bên cạnh đó, nhà Đinh còn áp dụng những biện pháp thu phục dân chúng nhờ vào tôn giáo. Trong tổ chức tôn giáo lúc ấy, Phật giáo có vị thế nổi bật hơn cả. Ngay từ thời Bắc thuộc, ý thức Phật giáo đã ngày Khoa học xã hội Việt Nam, số 2 - 2018 60 càng thắng thế trong xã hội, ảnh hưởng sâu đậm đến sinh hoạt tư tưởng và thế giới quan của người Việt. Nhiều cuộc tranh luận, đụng độ giữa Nho giáo và Phật giáo đã diễn ra. Nho giáo, tuy được giới cầm quyền bảo hộ nhưng vẫn không bước lên được địa vị độc tôn. Từ đó trở đi, Nho học Việt Nam đã phải náu mình vào đạo Thiền để khả dĩ tồn tại và chờ cơ hội phát triển. Bởi thực tế lịch sử ấy, giai cấp phong kiến Việt Nam buổi đầu độc lập không thể không đề cao và sử dụng Phật giáo một cách tích cực. Không phải ngẫu nhiên mà tổ chức tôn giáo vào lúc đương thời (năm 971) đi đôi với tổ chức chính quyền trung ương. Đại Việt sử ký toàn thư chép: “Tân Mùi, năm thứ 2 (971) (Tống, Khai Bảo năm thứ 4). Mới định ra giai phẩm cho các quan văn võ và tăng đạo. Cho Nguyễn Bặc làm Định Quốc công, Lưu Cơ làm Đô hộ phủ sĩ sư, Lê Hoàn làm Thập đạo tướng quân; cho tăng thống Ngô Chân Lưu hiệu là Khuông Việt đại sư, cho Trương Ma Ni làm Tăng đạo sĩ, Đặng Huyền Quang làm Sùng chân uy nghi” [2, tr.208]. Như vậy là, sức mạnh thần quyền đã được cụ thể hóa trong hệ thống thế tục để phục vụ cho hệ thống thế tục ấy. Tăng sĩ được quý trọng không những vì vai trò quan trọng về mặt tôn giáo, mà còn vì tính chất đại diện thời đại của họ. Nhà sư không chỉ am tường giáo lý nhà Phật, mà còn am hiểu cả Nho giáo. Họ được các triều đại phong kiến trọng dụng để giúp việc nước, trở thành những người cố vấn trong chính quyền nhà nước do tinh thông cả Nho - Phật - Đạo. Tuy nhờ đó mà Nho giáo có thêm cơ hội mở rộng tầm ảnh hưởng, nhưng cũng chính vì thế mà tính cách duy lý của Nho giáo mờ nhạt đi. Đồng thời với đó, thân phận tăng đồ lại gắn liền với quyền lợi chức vụ, ruộng đất. Tăng quan trụ trì tại các tự viện của nhà nước đều được cấp ruộng. Tự viện là điền trang của tập đoàn phong kiến Phật giáo. Điều đó là một trong những lý do khiến cho nhiều người học Nho quay sang làm tăng. Chẳng hạn như, Khuông Việt “lúc bé học đạo Nho, lớn lên đi tu” [9, tr.208]. Sự nhập nhòa giữa Nho giáo và Phật giáo khiến cho cả hai đều không giữ được tính chất thuần túy của học thuyết mình. Cuối đời Tiền Lê, để tập trung quyền hành cho bản thân, Lê Long Đĩnh muốn nhanh chóng đưa Nho giáo lên địa vị chủ đạo trong đời sống tư tưởng của xã hội. Hành động của vua (róc mía trên đầu nhà sư Quách Ngang, cố tình lỡ tay làm chảy máu rồi cười), là sự đàn áp một lực lượng, một tập thể, một ý thức hệ. Sự đàn áp đó được gây ra bởi ý thức Nho giáo chủ trương quyền độc tôn về ngôi vị Hoàng đế. Nhưng Long Đĩnh đã gặp phải sự chống đối mạnh mẽ trong tiến trình củng cố địa vị chuyên chế của mình. Năm 1009, kinh Đại Tạng được mang về càng làm vững chắc thêm vai trò xã hội của tầng lớp tăng đạo Hoa hóa, khiến cho câu chuyện vua róc mía trên đầu nhà sư sau này chỉ có ý nghĩa là hành động tàn ác của một cá nhân điên loạn cầm quyền. Hoàn cảnh lịch sử đã tạo ra một vị Hoàng đế với những hành động khắc bạc, tàn bạo. Thiền sư Vạn Hạnh bỏ nhà Lê, lao tâm khổ trí mưu đồ cho sự nghiệp của Lý Công Uẩn hẳn có lý do chính đáng. Những toan tính của Lê Long Đĩnh muốn tập trung quyền hành cho bản thân, dòng họ mình, lại dẫn đến kết quả thụ hưởng cho kẻ khác. Mưu toan muốn nhanh chóng đưa khuôn mẫu Nho giáo lên địa vị chủ đạo để thay thế cho thế lực còn rất mạnh mẽ của Phật giáo đã thất bại. Và vì vậy, đạo Phật sẽ vẫn còn thịnh vượng cho đến vài ba thế kỷ về sau. Nguyễn Thị Như 61 Như vậy, thời Ngô, Đinh, Tiền Lê, vai trò của Nho giáo trong xã hội tuy chưa nổi bật, nhưng vẫn được duy trì ở một mức độ nhất định và là tiền đề cho sự khởi sắc của nó ở giai đoạn lịch sử tiếp theo. 4. Kết luận Nho giáo tuy có mặt tại Việt Nam ngay từ thời Bắc thuộc, nhưng trong xã hội Việt lại khác nhau ở mỗi giai đoạn lịch sử. Nửa đầu thời kỳ Bắc thuộc, do việc truyền bá Nho giáo xuất phát từ lợi ích của giai cấp thống trị ngoại tộc và do những mâu thuẫn trong chính sách truyền bá Nho giáo của chính quyền đô hộ, nên Nho giáo đã vấp phải sự chống đối của người dân bản địa. Từ thế kỷ VI trở đi (nửa cuối thời kỳ Bắc thuộc), Nho giáo tuy chưa xâm nhập được vào mọi tầng lớp xã hội, nhưng đã từng bước đi vào đời sống tư tưởng người Việt trên phương diện một nhãn quan chính trị - xã hội, cung cấp cho tầng lớp trên của xã hội Việt những tri thức và kinh nghiệm hữu ích về lịch sử, về cách thức tổ chức xã hội, nhà nước. Nho giáo đã cung cấp kiến thức cho những người Việt yêu nước đấu tranh cho độc lập dân tộc, cho quyền tự chủ của quốc gia. Tuy Nho giáo không dạy người Việt Nam yêu nước, nhưng những mệnh đề, khái niệm của Nho giáo khi được cấu trúc lại trên lập trường yêu nước Việt Nam lại tỏ ra có tác dụng tích cực đối với công cuộc cứu nước của dân tộc. Sang thời Ngô, Đinh, Tiền Lê, vai trò của Nho giáo trong xã hội tuy chưa nổi bật, nhưng vẫn được duy trì ở một mức độ nhất định và là tiền đề cho sự khởi sắc của nó ở giai đoạn lịch sử tiếp theo. Thời kỳ này rất ít người có chí học cao, học xa với mục đích tham gia vào những cuộc tranh luận về học thuật, bàn về những vấn đề siêu hình. Người Việt tiếp nhận Nho giáo trên tinh thần thực tiễn, hướng về phía những vấn đề mà thực tiễn đất nước yêu cầu và nhân dân mong muốn. Tóm lại, từ thời Bắc thuộc cho đến đầu thế kỷ XI, Nho giáo chưa có lúc nào có thể vươn lên địa vị chủ đạo, chi phối toàn bộ đời sống tinh thần của dân tộc Việt Nam. Tuy nhiên, nó đã tạo nên một dòng chảy liên tục trong văn hóa, tư tưởng người Việt đương thời, đồng thời tạo những tiền đề cần thiết để tiếp tục phát triển mạnh mẽ hơn trong các giai đoạn lịch sử về sau. Tài liệu tham khảo [1] Chu Hy (1998), Tứ thư tập chú, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội. [2] Ngô Sĩ Liên (2004), Đại Việt sử ký toàn thư, t.1, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội. [3] Trần Nghĩa (2005), “Thử bàn về thời điểm du nhập cùng tính chất, vai trò của Nho học Việt Nam thời Bắc thuộc”, Tạp chí Hán Nôm, số 1. [4] Ngô Thì Sĩ (1960), Việt sử tiêu án, Nxb Sài Gòn, Sài Gòn. [5] Nguyễn Kim Sơn (2015), “Đề cương nghiên cứu đặc điểm việc tiếp nhận Nho giáo của người Việt Nam, từ khởi nguồn tới đầu thế kỷ XX”, Kỷ yếu Hội thảo quốc tế về Nho học Đông Á: truyền thống và hiện đại, tháng 3/2015, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội - Quỹ Sunwah, Tập đoàn Sunwah, Hà Nội. [6] Lê Tắc (1961), An Nam chí lược, Nxb Viện Đại học Huế, Huế. [7] Lê Sỹ Thắng (chủ biên) (1994), Nho giáo tại Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. [8] Tạ Chí Đại Trường (2014), Những bài dã sử Việt, Nxb Tri thức, Hà Nội. [9] Viện Văn học (1977), Thơ văn Lý - Trần, t.1, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. [10] https://thuvienhoasen.org/author/post/2488/ 1/nguyen-hung-vy. [11] nhin-van-hoa/nhung-goc-nhin-van-hoa/ [12] www.vietnamvanhien.net/baisukhacchoviet nam.pdf
File đính kèm:
- nho_giao_viet_nam_tu_thoi_bac_thuoc_den_dau_the_ky_xi.pdf