Nhận diện văn hóa, văn học nam bộ trong nghiên cứu của ca văn thỉnh

Từ trước đến nay, việc nhận diện văn hóa, văn học của một vùng miền được tiếp cận ở nhiều

phương cách khác nhau. Mỗi phương cách cho người đọc có một cách nhìn khác nhau về văn hóa,

văn học của mỗi vùng. Trong bài viết này, chúng tôi dựa vào những nghiên cứu của Ca Văn Thỉnh

để nhận diện văn hóa, văn học Nam Bộ với các khía cạnh như: văn học dân gian, văn học viết, lịch

sử văn học, văn hóa giáo dục. Từ kết quả nghiên cứu này, trước hết chúng tôi muốn khẳng định

những đóng góp của Ca Văn Thỉnh với việc mở đường nghiên cứu văn hóa, văn học Nam bộ; sau

nữa là muốn nhấn mạnh đến những phương diện văn hóa truyền thống ở Nam bộ mà Ca Văn Thỉnh

đã dày công dành trọn cả đời để nghiên cứu.

Nhận diện văn hóa, văn học nam bộ trong nghiên cứu của ca văn thỉnh trang 1

Trang 1

Nhận diện văn hóa, văn học nam bộ trong nghiên cứu của ca văn thỉnh trang 2

Trang 2

Nhận diện văn hóa, văn học nam bộ trong nghiên cứu của ca văn thỉnh trang 3

Trang 3

Nhận diện văn hóa, văn học nam bộ trong nghiên cứu của ca văn thỉnh trang 4

Trang 4

Nhận diện văn hóa, văn học nam bộ trong nghiên cứu của ca văn thỉnh trang 5

Trang 5

Nhận diện văn hóa, văn học nam bộ trong nghiên cứu của ca văn thỉnh trang 6

Trang 6

Nhận diện văn hóa, văn học nam bộ trong nghiên cứu của ca văn thỉnh trang 7

Trang 7

Nhận diện văn hóa, văn học nam bộ trong nghiên cứu của ca văn thỉnh trang 8

Trang 8

Nhận diện văn hóa, văn học nam bộ trong nghiên cứu của ca văn thỉnh trang 9

Trang 9

pdf 9 trang minhkhanh 8280
Bạn đang xem tài liệu "Nhận diện văn hóa, văn học nam bộ trong nghiên cứu của ca văn thỉnh", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Nhận diện văn hóa, văn học nam bộ trong nghiên cứu của ca văn thỉnh

Nhận diện văn hóa, văn học nam bộ trong nghiên cứu của ca văn thỉnh
 TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN HIẾN TẬP 6 SỐ 3 
67 
NHẬN DIỆN VĂN HÓA, VĂN HỌC NAM BỘ 
TRONG NGHIÊN CỨU CỦA CA VĂN THỈNH 
Lê Sỹ Đồng 
Trường Đại học Thủ Dầu Một 
lesydong09081981@gmail.com 
Ngày nhận bài: 12/10/2018; Ngày duyệt đăng: 17/12/2018 
Tóm tắt 
Từ trước đến nay, việc nhận diện văn hóa, văn học của một vùng miền được tiếp cận ở nhiều 
phương cách khác nhau. Mỗi phương cách cho người đọc có một cách nhìn khác nhau về văn hóa, 
văn học của mỗi vùng. Trong bài viết này, chúng tôi dựa vào những nghiên cứu của Ca Văn Thỉnh 
để nhận diện văn hóa, văn học Nam Bộ với các khía cạnh như: văn học dân gian, văn học viết, lịch 
sử văn học, văn hóa giáo dục. Từ kết quả nghiên cứu này, trước hết chúng tôi muốn khẳng định 
những đóng góp của Ca Văn Thỉnh với việc mở đường nghiên cứu văn hóa, văn học Nam bộ; sau 
nữa là muốn nhấn mạnh đến những phương diện văn hóa truyền thống ở Nam bộ mà Ca Văn Thỉnh 
đã dày công dành trọn cả đời để nghiên cứu. 
Từ khóa: Ca Văn Thỉnh, văn hóa, văn học, Nam Bộ 
Identification of culture, literature in Southern from Ca Van Thinh 's research 
Abstract 
Until now, the identification cultural and literary of a region has been approached in a variety 
of ways. In each of these ways, the reader has a different recognization on the culture and literature 
of that region. In this article, we rely on the research of Ca Van Thinh to identify the culture and 
literature of the Southern with aspects such as folklore, literature, literary history, culture and 
education. From the results of this research, before of all, we want to confirm the contributions of 
Ca Van Thinh with the opening of the road to study the culture and literature of the Southern; and 
then, we would like to emphasize the traditional cultural aspects of the Southern that Ca Van Thinh 
devotes his own life to research. 
Key word: Ca Van Thinh, culture, literature, southern. 
Đặt vấn đề 
Khoảng hơn mươi năm đầu thế kỷ XXI, các 
nhà nghiên cứu văn hóa, văn học dần lật lại 
những công trình nghiên cứu của tiền nhân để 
ôn cố tri tân, để đánh giá lại những đóng góp của 
người đi trước đối với tiến trình bảo tồn văn hoá, 
văn học dân tộc. Tuy nhiên, để có cái nhìn toàn 
diện về văn hóa, văn học Nam Bộ không phải là 
một việc dễ dàng. Ở bài viết này, chúng tôi bước 
đầu nhận diện văn hóa, văn học Nam Bộ qua 
những công trình nghiên cứu của Ca Văn Thỉnh 
nhằm góp thêm một góc nhìn khác về những lớp 
trầm tích văn hóa, văn học Nam Bộ; đồng thời 
cũng làm rõ hơn những đóng góp của Ca Văn 
Thỉnh đối với việc bảo tồn văn hóa, văn học 
Nam Bộ. 
Như ta biết, Ca Văn Thỉnh hưởng thọ 85 tuổi 
(1902 – 1987). Trong 85 năm hạnh lạc trên cõi 
đời, ông không ngừng cố gắng phấn đấu để hoàn 
thiện bản thân, tạo lập cho mình sự nghiệp, có 
nhiều cống hiến đáng kể ở nhiều lĩnh vực cho 
nước nhà. Từ trước 1945, Ca Văn Thỉnh (bút 
danh Ngạc Xuyên) đã công bố khá nhiều bài viết 
trên Đại Việt Tập chí như Biên dịch tiểu sử 
Nguyễn Thông; Khổng học đất Đồng Nai; Luận 
về núi; Đền Đế Thiên đối với tiền nhơn ta; 
 VAN HIEN UNIVERSITY JOURNAL OF SCIENCE VOLUME 6 NUMBER 3 
68 
Nguyễn Văn Thoại với sự đào Thoại hà và kinh 
Vĩnh tế; Minh bột di ngư – Một quyển sách hai 
thi xã Sau năm 1945, Ca Văn Thỉnh tiếp tục 
công bố những nghiên cứu của mình trên Tạp 
chí Nghiên cứu Văn học, Tạp chí Nghiên 
cứu Lịch sử, Báo Văn nghệ TP. HCM Cùng 
với đó, Ca Văn Thỉnh xuất bản cuốn Hào khí 
Đồng Nai, Nxb TP.HCM, năm 1983; và được 
Nxb ĐHQG Hà Nội tái bản năm 2014. Ngoài ra, 
ông còn để lại rất nhiều bản thảo chưa công bố 
như: Nguyễn Đình Chiểu cuộc đời và sự nghiệp; 
Nguyễn Đình Chiểu nhà thơ chiến đấu vì nghĩa 
cả; Phong trào đấu tranh lục tỉnh trong thời 
gian đầu xâm lược của Pháp; Tìm hiểu lòng đạo 
của Nguyễn Đình Chiểu; Niềm mơ ước của 
Nguyễn Đình Chiểu về mặt xã hội công bằng 
bác ái đang thành hiện thực trong chủ nghĩa xã 
hội ngày nay; Và 17 cuốn nhật ký. Với những 
công trình này, Ca Văn Thỉnh đã cùng với 
những nhà nghiên cứu đương thời có những 
đóng góp lớn, giúp cho thế hệ sau nhận diện rõ 
ràng hơn về văn hóa, văn học Nam Bộ. 
1. Nhận diện văn hóa, văn học Nam Bộ 
qua nghiên cứu của Ca Văn Thỉnh về văn học 
dân gian Nam Bộ 
Qua tìm hiểu những công trình về văn học 
hoặc có liên quan đến văn học của Ca Văn 
Thỉnh, chúng tôi nhận thấy rằng: Về sưu tầm và 
nghiên cứu văn học dân gian Nam Bộ thì cuốn 
Hào khí Đồng Nai là có giá trị nhất, quan trọng 
nhất và có lẽ là tâm huyết nhất mà Ca Văn Thỉnh 
để lại. Mở đầu công trình nghiên cứu này, Ca 
Văn Thỉnh trình bày ý kiến của mình về một số 
truyện, thơ dân gian truyền khẩu với mục đích 
giới thiệu đến công chúng yêu thơ văn dân tộc 
một vùng văn học khá mới mẻ và lạ lẫm – văn 
học dân gian Nam Bộ. Đây chính là sự bổ 
khuyết hết sức quan trọng mà Ca Văn Thỉnh góp 
vào những công trình văn học sử thời bấy giờ. 
Khi xem lại những cuốn văn học sử như: 
Lịch sử văn học Việt Nam, Tập 4b (Lê Trí Viễn, 
1976), Sơ khảo lịch sử văn học Việt Nam: Giai 
đoạn nửa cuối thế kỷ XIX (Huỳnh Lý và cộng 
sự, 1964), Văn học Việt Nam thế kỷ XVIII nửa 
đầu thế kỷ XIX (Nguyễn Lộc và cộng sự, 1962), 
chúng tôi thấy các cuốn sách này hầu như không 
hoặc chỉ dành một phần nhỏ viết về văn học 
Nam Bộ để cho đầy đủ nội dung văn học vùng 
miền. Có thể do chưa đủ điều kiện để đi khảo 
sát, sưu tầm; hoặc do hạn chế về ý thức mang 
tính lịch sử mà các tác giả những cuốn sách trên 
đã vô tình lãng quên hoặc có những thiếu sót 
trong quá trình biên soạn lịch sử văn học dân 
tộc. Dù với lý do gì thì đó cũng là những hạn 
chế của các nhà nghiên cứu văn học đầu thế kỷ 
trước. Vì vậy mà văn học dân gian Nam Bộ lại 
càng ít được quan tâm, chú ý. Và do vậy, sự dày 
công của Ca Văn Thỉnh nghiên cứu văn học 
Nam bộ để góp sức khắc phục những hạn chế 
của người đi trước là vô cùng quan trọng. 
Ngoài việc giới thiệu, Ca Văn Thỉnh còn 
miệt mài sưu tầm những văn phẩm ở hầu hết các 
thể loại văn học dân gian ở Nam Bộ. Cụ ... 
người dám hy sinh thân mình vì việc nghĩa, vì 
dân vì nước” (Ca Văn Thỉnh, bản thảo b). Từ 
những nghiên cứu trên, Ca Văn Thỉnh đã chứng 
minh được văn học Nam Bộ không những có 
quá khứ mà còn có mối liên hệ khăng khít với 
văn học miền Bắc. 
Mặt khác, Ca Văn Thỉnh đã chỉ ra bên cạnh 
những nét chung trong văn học Việt Nam, thì 
 VAN HIEN UNIVERSITY JOURNAL OF SCIENCE VOLUME 6 NUMBER 3 
72 
văn học Nam Bộ cũng có những đặc điểm riêng. 
Những đặc điểm riêng ấy gắn liền với lối sống, 
hoàn cảnh sống, cá tính của người Nam Bộ. Văn 
ngôn trong văn học Nam Bộ không cầu kỳ, ít 
sâu xa. Nó gắn liền với lời ăn tiếng nói hằng 
ngày nhưng lại giàu tính giáo dục nhân nghĩa 
đạo đức. Trong bản thân văn học Nam Bộ cũng 
có những mối liên hệ riêng biệt giữa các thời kỳ. 
Cụ thể, Ca VănThỉnh đã chứng minh được mối 
liên hệ ấy qua bài: Minh bột di ngư – Một quyển 
sách hai thi xã (Ngạc Xuyên, 1943 a). Đó là mối 
liên hệ giữa nhóm Chiêu Anh Các ở Hà Tiên do 
Mạc Thiên Tích với nhóm Gia Định tam gia mà 
người đứng đầu là Trịnh Hoài Đức. Từ sự phát 
triển nội tại ấy, văn học Nam Bộ đã để lại một 
khối lượng tác phẩm khá đồ sộ. Tuy nhiên ông 
cũng chỉ ra rằng: Những mối quan tâm đến 
thành tựu và quá trình phát triển của văn học 
miền Nam là chưa đúng mức, cần được quan 
tâm, chú ý hơn nữa (Ngạc Xuyên, 1943 a). 
Đóng góp của ông không chỉ ở cái gọi là “chỉ 
đạo”, mà chính bản thân ông đã xắn áo bắt tay 
vào việc tìm tòi nghiên cứu bổ sung cho những 
thiếu sót hay sai lệch mà các công trình nghiên 
cứu về văn học Nam Bộ mắc phải. Ở đây chúng 
tôi xin không bình luận nhiều mà xin tóm lược 
một đoạn trong Phần II bài viết Góp ý về hai tập 
lịch sử văn học Việt Nam (Ca Văn Thỉnh, 1975) 
để thấy rõ đóng góp và tấm lòng của Ca Văn 
Thỉnh dành cho văn học Nam Bộ sâu nặng đến 
thế nào: "Con dân Nam Bộ, hiểu biết xã hội, văn 
học Nam Bộ với sắc thái riêng của địa phương, 
tôi cảm thấy bản dự thảo lịch sử Việt Nam, tuy 
có nói qua về Mạc Thiên Tích Hà Tiên và ba nhà 
thơ Gia Định, nhưng tác giả ít biết văn hoá, ngôn 
ngữ, văn nghệ dân gian, và ít tìm tài liệu, sách 
báo chữ quốc ngữ xuất bản từ 1865, có phần 
nào, ở thư viện, như Gia Định báo. 
Ngôn ngữ, chữ quốc ngữ: ở tập 1, trang 28 
“Đầu thế kỷ này (tức thế kỷ XX) chữ Quốc ngữ 
thay thế chữ Nôm” lại viết thêm: “Nguyễn 
Đình Chiểu phản đối không nhìn đến nó” (chữ 
Quốc ngữ) là không chính xác. Sự thật lịch sử 
không như vậy, sau khi xâm chiếm Nam kỳ 
(1867), Pháp mở trường dạy chữ Quốc ngữ từ 
Sài Gòn đến các tỉnh. Cùng với nó, thực dân 
Pháp cho ra đời tờ báo Quốc ngữ “Gia Định 
báo” (1865). Từ 1869 đến 1897, Trương Vĩnh 
Ký làm chủ bút báo này (Ca Văn Thỉnh, 1975). 
Trong giai đoạn này, ta thấy có nhiều tác phẩm 
được phiên âm ra chữ quốc ngữ như: Lục Vân 
Tiên (1873); KimVân Kiều (1875). Về tiếng nói 
Nam Bộ, đáng chú ý có nhiều từ gốc dân tộc. Ví 
dụ: Người Nam Bộ gọi: cây viết, ngòi viết mà 
không gọi “bút”; gọi là “trái cây”, ít gọi là quả; 
gọi là “vỏ, ruột” xe đạp, xe hơi mà không gọi là 
“lốp săm”. 
Về văn học dân gian, ngôn ngữ học, ta có thể 
bổ sung thêm vài tác giả Nam Bộ, thời Pháp 
thuộc đã hợp tác với thực dân như: Huỳnh Tịnh 
Của với Tục ngữ, cổ ngữ, gia ngôn (1896); 
Trương Minh Ký với Câu hát An Nam (1898); 
Paulus Của với Chuyện giải buồn; Vè sông rạch 
Nam Bộ, Khuyết danh được Trương Vĩnh Ký 
sưu tầm Chuyện dân gian có: chuyện Thủ 
Huồng, chuyện Miếu ông bần quỳ, chuyện Bà 
đội om, vè thầy Thông Chánh, Sáu Trọng. 
Về mối quan hệ văn học Bắc - Nam, có Lê 
Quý Đôn, Phạm Nguyễn Du, đã sưu tập văn liệu 
miền Nam, và viết thành Phủ biên tạp lục, Nam 
hành ký đắc tập; Ngoài ra ta còn thấy nhiều thư 
từ, nhiều lời bạt, bình về các tác phẩm của các 
tác giả Nam – Bắc trao đổi qua lại. 
Đặc biệt có hai điểm cần lưu ý bộ Lịch sử 
văn học Việt Nam này: Ở tập 2, trang 213, có 
đoạn viết Cấn Trai thi tập của Lê Quang Định là 
sai. Tác giả của Cấn Trai thi tập là Trịnh Hoài 
Đức; còn Lê Quang Định là tác giả của Hoa 
nguyên thi thảo. 
Như vậy, Ca Văn Thỉnh đã chỉ ra yếu tố hết 
sức quan trọng trong việc hình thành, phát triển 
văn hóa, văn học Nam bộ đó là sự giao lưu và 
giao thoa với văn học miền Bắc; đồng thời đó là 
sự kết hợp giữa thói quen sinh hoạt của người 
Nam bộ với lối giáo dục giáo dục nêu gương qua 
các tác phẩm văn học. 
4. Nhận diện văn hóa, văn học Nam Bộ 
qua nghiên cứu của Ca Văn Thỉnh về giáo 
dục ở Nam Bộ 
Vấn đề biên khảo những tài liệu cổ, những 
văn liệu đã bị thất lạc hoặc lưu truyền đâu đó rải 
rác trong dân gian đã được rất nhiều nhà khoa 
 TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN HIẾN TẬP 6 SỐ 3 
73 
học quan tâm sưu tầm, nghiên cứu. Tuy vậy, vẫn 
còn không ít tài liệu quý cần được ghi chép, tìm 
kiếm và đính chính. Ý thức được điều đó, Ca 
Văn Thỉnh lấy sở học của bản thân, lấy tình yêu 
mến văn hoá quê hương làm ngọn đuốc soi 
đường cho cuộc sống. Nên ngay khi còn là sinh 
viên Cao đẳng Sư phạm Đông Dương, lúc nghe 
thầy người Pháp giảng: đất Nam Bộ không có 
nền Nho học, dân Nam Bộ vốn gốc là những 
người không kỷ luật, là quân ăn cướp đã làm 
ông vô cùng bứt rứt và khó chịu. Ông viết trong 
Khổng học ở đất Đồng Nai: “Tôi luôn luôn nuôi 
trong lòng mình ý chí phải nghiên cứu để bằng 
mọi cách đánh bại luận điệu rẻ tiền của Bô ni 
phat xi (thầy giáo Pháp dạy sử) (Ngạc Xuyên, 
1943 b). Ngay khi quay về Bến Tre, ông đã miệt 
mài tìm bằng chứng để chứng minh ở Nam Bộ 
có nền Nho học và ông đã làm được điều đó 
bằng bài dịch Bài ký ở văn miếu Vĩnh Long do 
Phan Thanh Giản soạn năm Tự Đức thứ 19, và 
Bài văn bia về Võ Trường Toản trích trong Ngọa 
du sào tập. Đây chính là đóng góp đầu tiên của 
ông trong quá trình biên khảo của mình. 
 Vậy đóng góp đầu tiên của Ca Văn Thỉnh 
cho văn hoá Nam Bộ là việc chứng minh Nam 
Bộ có truyền thống văn hóa gắn với truyền 
thống giáo dục Nho học. Rồi nhiều năm sau đó, 
ông tiếp tục tìm kiếm và khuyến khích giới 
nghiên cứu truy cứu tàng thư, sưu tầm thực địa, 
lưu giữ những thành tựu văn hoá tiền nhân để 
lại. Nhà nghiên cứu Mạc Đường nhận xét: “Ông 
(Ca Văn Thỉnh) là một trong những chuyên gia 
lớn đầu tiên về nghiên cứu Nam Bộ đã muốn 
vận dụng “chủ nghĩa Mác và nhân phẩm”, vận 
dụng những ý kiến của đồng chí Lê Duẩn năm 
1949 vào việc giáo dục học sinh và quần chúng 
để nghiên cứu con người Nam Bộ. Ông còn là 
người khuyến khích và ký giấy giới thiệu cho 
đoàn điều tra điền dã dân tộc học đầu tiên vào 
đầu năm 1976 đi công tác sau vụ bạo động ở Trà 
Vinh và Sóc Trăng để nghiên cứu về hậu quả 
của chủ nghĩa thực dân mới đối với vấn đề 
Khmer và Hoa ở đồng bằng sông Cửu Long. 
Ông đã can thiệp và cử chúng tôi đi tiếp quản 
Trung tâm văn hoá Chăm ở Phan Rang, Thư 
viện sách khoa học xã hội của Trần Lệ Xuân và 
Ngô Đình Nhu ở Đà Lạt, Thư viện của Đảng 
Cần lao Nhân vị thời Ngô Đình Nhiệm ở Vĩnh 
Long, ông rất quan tâm đến nghiên cứu Văn hoá 
Óc Eo” (Ca Văn Thỉnh, 2015). 
Mặt khác, Ca Văn Thỉnh đi tìm hiểu nghiên 
cứu, tiểu sử, sự nghiệp những nhân vật đóng vai 
trò quan trọng trong văn hoá Nam Bộ. Với các 
bài viết như: Bài diễn văn trong buổi lễ kỷ niệm 
Nguyễn Đình Chiểu, Nhớ hai nhà giáo Võ 
Trường Toản và Nguyễn Đình Chiểu, Biên dịch 
tiểu sử Nguyễn Thông, Minh bột di ngư – Một 
quyển sách hai thi xã, Nguyễn Văn Thoại với sự 
đào Thoại Hà và kinh Vinh Tế, Tiểu sử Nguyễn 
Văn Thoại, Ông đã dựng lại cuộc đời của các 
nhân vật lịch sử có tầm ảnh hưởng lớn đến quá 
trình phát triển văn hoá và nhân cách con người 
Nam Bộ. Đồng thời ông muốn kêu gọi nhân dân 
Nam Bộ hãy tiếp tục phát huy những truyền 
thống văn hoá tốt đẹp vốn có của người Nam Bộ. 
Một đóng góp khác khá quan trọng của Ca 
Văn Thỉnh đối với Nam Bộ chính là đóng góp 
vào nền giáo dục Nam Bộ. Ngay khi làm Đốc 
học Bến Tre, ông đã chứng minh cho những nhà 
giáo dục đầu thế kỷ XX thấy rằng: Nam Bộ cũng 
có truyền thống giáo dục, truyền thống ấy bắt 
nguồn từ những lời hát ru, những mẩu chuyện 
mà những người bà, những người mẹ kể cho con 
cháu và sau này kết tinh, hội tụ ở nhà giáo Võ 
Trường Toản, nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu. 
Bằng nhiệt huyết của một nhà giáo và sự tinh 
tường của một trí thức lớn, Ca Văn Thỉnh đã chỉ 
ra hai phương pháp giáo dục cơ bản: Phương 
pháp nêu gương và phương pháp thực hành. Ở 
phương pháp nêu gương, ông lấy nhân cách của 
những nhà văn hoá, văn học, chí sĩ mẫu mực ở 
đất Nam Bộ từ từ khi hình thành cho tới thời đại 
Hồ Chí Minh để tạo niềm tin và sự ảnh hưởng 
đến nhân cách và hành động của người Nam Bộ. 
Ông nhấn mạnh vấn đề giáo dục con người phải 
bắt đầu từ thuở ấu thơ – tức sự giáo dục ấy phải 
có quá trình từ thấp lên cao, từ đơn giản đến 
phức tạp mà bước đầu là nêu gương, tạo trong 
trí óc con trẻ những tấm gương đạo đức tốt đẹp. 
Ở phương pháp thực hành, Ca Văn Thỉnh đặc 
biệt đề cao phương pháp “Tập nghĩa” của Võ 
Trường Toản. Ông chỉ ra ưu điểm của phương 
 VAN HIEN UNIVERSITY JOURNAL OF SCIENCE VOLUME 6 NUMBER 3 
74 
phàp này là vừa giúp người học tiếp thu lý 
thuyết vừa vận dụng vào thực tế; biến những lý 
thuyết giáo điều thành hành động thực tế. Từ đó 
giúp người học hứng thú và làm theo những gì 
đã học. 
Vậy là, Ca Văn Thỉnh qua việc tìm hiểu nên 
giáo dục Nam Bộ đã cho thấy truyền thống văn 
hóa Nam bộ luôn được nuôi dưỡng trong truyền 
thống giáo dục lấy tinh thần yêu nước làm chủ 
đạo, và văn học Nam bộ lấy khuynh hướng "tập 
nghĩa, dưỡng khí" làm đề tài sáng tác. 
Kết luận 
Từ kết quả nghiên cứu trên, có thể khẳng 
định rằng, Ca Văn Thỉnh đã góp phần vào việc 
lưu giữ những tác phẩm văn học dân gian - là 
bằng chứng để khẳng định mối quan hệ văn học 
Bắc Nam có từ lâu đời. Đồng thời, ở những tác 
phẩm ông sưu tầm được cũng khẳng định văn 
hóa, văn học Nam Bộ có những đặc thù riêng 
của nó trong quá trình vận động tồn tại và phát 
triển. Chính Ca Văn Thỉnh là một trong những 
nhà nghiên cứu đầu tiên khẳng định cái hay, cái 
tinh hoa của văn học Nam Bộ là ở ngôn ngữ mộc 
mạc, gần gũi với lời ăn tiếng nói người Nam Bộ, 
gần với tính cách "ngang tàng", phóng khoáng 
và thích tự do của người Nam Bộ. Và với đặc 
thù trong lời ăn, nếp ở của người Nam Bộ thì 
văn phong trong các tác phẩm văn học ở Nam 
Bộ không thể nào khác. 
 Với những đóng góp của Ca Văn Thỉnh, 
ngày nay khi lật giở những trang sách viết về 
văn học Nam Bộ, người ta thường nhắc đến Ca 
Văn Thỉnh như người có công đầu trong quá 
trình dựng lại văn học sử Nam Bộ. Ngoài ra, ta 
còn thấy đây đó nhiều bài nghiên cứu, hồi kí của 
các nhà cách mạng, nhà văn Nam Bộ nhắc đến 
ông như một người thầy cao quý, một tấm 
gương cần mẫn trong nghiên cứu khoa học. 
Vậy là bằng những nỗ lực của mình, Ca Văn 
Thỉnh đã thực hiện được ý nguyện: "Kẻ hậu học 
này mải lo dại tới “cái vựa thóc văn học” ít ỏi 
này không đủ cung cấp thức ăn tinh thần cho cả 
giống nòi đương khao khát, nên ráng sức mọn 
đi mót từng hột, lượm từng bông ở tận ruộng 
biền, ruộng chéo của đất Lục tỉnh này” trích 
Minh bột di ngư - một quyển sách, hai thi xã 
(Ngạc Xuyên, 1943 a). 
Tài liệu tham khảo 
Bảo Định Giang (1977). Thơ văn yêu nước Nam Bộ 
(nửa sau thế kỷ XIX). Nxb Văn học. 
Bảo Định Giang (2001). Những ngôi sao sáng trên 
bầu trời văn học Nam Bộ nửa sau thế kỷ XIX. 
Tp. Hồ Chí Minh, Nxb Trẻ. 
Nhiều tác giả (2016). Những vấn đề văn học và ngôn 
ngữ Nam Bộ, Nxb Đại học Quốc gia Tp. Hồ 
Chí Minh. 
Nguyễn Lộc và Hoàng Hữu Yên (1962). Văn học 
Việt Nam thế kỷ XVIII đến nửa đầu thế kỷ XIX. 
Nxb Giáo dục. 
Huỳnh Lý và cộng sự (1964). Sơ khảo lịch sử văn 
học Việt Nam: Giai đoạn nửa cuối thế kỷ XIX. 
Nxb Văn học. 
Ca Văn Thỉnh (1972). Truyền thống quật cường của 
Nam Bộ và Việt Nam với tinh thần đấu tranh 
của Nguyễn Đình Chiểu. Tạp chí Nghiên cứu 
Văn học, Số 4. 
Ca Văn Thỉnh (1975). Góp ý về hai tập lịch sử văn 
học Việt Nam. Bản thảo do gia đình cung cấp. 
Ca Văn Thỉnh (1976 a). Nguyễn Hữu Huân thân thế 
và sự nghiệp. Kỷ yếu Viện KHXH Miền Nam. 
Ca Văn Thỉnh (1976 b). Sự nghiệp của Thủ Khoa 
Huân là một bài ca chính khí, Báo Văn nghệ 
Tp. HCM. Số 608. 
Ca Văn Thỉnh và Bảo Định Giang (1976). Thơ văn 
yêu nước Nam Bộ nửu cuối thế kỷ XIX. Nxb 
Văn học Giải phóng. 
 Ca Văn Thỉnh (1978). Nhớ hai nhà giáo Võ Trường 
Toản và Nguyễn Đình Chiểu. Tuần báo Văn 
nghệ Tp.HCM, Số 7. 
 Ca Văn Thỉnh và cộng sự (1982). Nguyễn Đình 
Chiểu toàn tập (2 tập). Nxb Đại Học và Trung 
học chuyên nghiệp. 
Ca Văn Thỉnh (1983). Hào khí Đồng Nai. Nxb Tp. HCM. 
 Ca Văn Thỉnh (1987). Xây dựng con người mới từ 
tuổi thơ. Nxb Tp. Hồ Chí Minh 
Ca Văn Thỉnh (2015). Ca Văn Thính tổng hợp. Nxb 
Tổng hợp Tp. Hồ Chí Minh. 
Ca Văn Thỉnh (2016). Nam Bộ đất và người, Nxb Trẻ 
Tp. Hồ Chí Minh. 
Ca Văn Thỉnh. Nguyễn Đình Chiểu cuộc đời và sự 
nghiệp. Bản thảo (a) do gia đình cung cấp. 
Ca Văn Thỉnh. Nguyễn Đình Chiểu nhà thơ chiến đấu 
vì nghĩa cả. Bản thảo (b) do gia đình cung cấp. 
Ca Văn Thỉnh. Niềm mơ ước của Nguyễn Đình Chiểu về 
mặt xã hội công bằng bác ái đang thành hiện 
thực trong chủ nghĩa xã hội ngày nay. Bản thảo 
(c) do gia đình cung cấp. 
 TẠP CHÍ KHOA HỌC ĐẠI HỌC VĂN HIẾN TẬP 6 SỐ 3 
75 
Ca Văn Thỉnh. Phong trào đấu tranh lục tỉnh trong 
thời gian đầu xâm lược của Pháp. Bản thảo 
(d) do gia đình cung cấp. 
Ca Văn Thỉnh. Thủ Khoa Huân. Bản thảo (e) do gia 
đình cung cấp. 
Ca Văn Thỉnh, Tìm hiểu lòng đạo của Nguyễn Đình 
Chiểu, Bản thảo (f) do gia đình cung cấp. 
Ca Văn Thỉnh. Khả năng và lòng đạo của Nguyễn 
Đình Chiểu. Bản thảo (g) do gia đình cung cấp. 
Ca Văn Thỉnh. Nhật ký (17 tập), thủ bút (f) do gia 
đình cung cấp. 
 Lê Trí Viễn (1976). Lịch sử văn học Việt Nam (Tập 
4b). Nxb Giáo dục. 
Ngạc Xuyên (1962). Câu chuyện yểm quỷ. Tạp chí 
Nghiên cứu Văn học, Số 4. 
Ngạc Xuyên (1943 a). Minh bột di ngư – Một quyển 
sách hai thi xã. Đại Việt Tập chí. Số 12. 
Ngạc Xuyên (1943 b). Khổng học ở đất Đồng Nai. 
Đại Việt Tập chí, Số 22, 23. 
Ngạc Xuyên (1975). Ý nghĩ về văn học sử Nam Bộ 
và mối quan hệ Bắc Nam. Tạp chí Nghiên cứu 
Văn học, Số 3. 

File đính kèm:

  • pdfnhan_dien_van_hoa_van_hoc_nam_bo_trong_nghien_cuu_cua_ca_van.pdf