Ngôn ngữ văn hóa trong vở tuồng liệu đố của Nguyễn Diêu
Bài viết tập trung đánh giá về cuộc đời, hành trạng của nhà biên soạn tuồng Nguyễn
Diêu của Bình Định và những giá trị đặc sắc của vở tuồng Liệu đố, một tác phẩm tuồng Nôm
tiêu biểu của ông. Từ hướng tiếp cận văn hoá, chúng tôi đã khái quát và nêu bật một số nét đặc
sắc về ngôn ngữ của tác phẩm Liệu đố. Qua ngôn ngữ văn hoá, người đọc có thể nhận thấy tác
phẩm đã đánh dấu một bước phát triển khá đặc sắc của dòng tuồng Nôm trung đại nói chung và
tuồng Bình Định nói chung.
Trang 1
Trang 2
Trang 3
Trang 4
Trang 5
Trang 6
Trang 7
Trang 8
Trang 9
Trang 10
Bạn đang xem tài liệu "Ngôn ngữ văn hóa trong vở tuồng liệu đố của Nguyễn Diêu", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên
Tóm tắt nội dung tài liệu: Ngôn ngữ văn hóa trong vở tuồng liệu đố của Nguyễn Diêu
32 TRƯỜNG ĐẠI HỌC PHÚ YÊN NGÔN NGỮ VĂN HÓA TRONG VỞ TUỒNG LIỆU ĐỐ CỦA NGUYỄN DIÊU Võ Minh Hải*, Võ Thị Thu Hòa Trường Đại học Quy Nhơn Tóm tắt Bài viết tập trung đánh giá về cuộc đời, hành trạng của nhà biên soạn tuồng Nguyễn Diêu của Bình Định và những giá trị đặc sắc của vở tuồng Liệu đố, một tác phẩm tuồng Nôm tiêu biểu của ông. Từ hướng tiếp cận văn hoá, chúng tôi đã khái quát và nêu bật một số nét đặc sắc về ngôn ngữ của tác phẩm Liệu đố. Qua ngôn ngữ văn hoá, người đọc có thể nhận thấy tác phẩm đã đánh dấu một bước phát triển khá đặc sắc của dòng tuồng Nôm trung đại nói chung và tuồng Bình Định nói chung. Từ khoá: Tuồng Nôm, tuồng Bình Định, ngôn ngữ văn hoá, ngôn ngữ tuồng, Liệu đố. Abstract: The cultural language in Nguyen Dieu’s classical drama Liệu đố This article focuses on assessing the life of Nguyen Dieu, the Binh Dinh classical drama composer, and the unique values of the classical drama Liệu đố, a typical classical drama of his works. From a cultural point of view, we have generalized and highlighted some linguistic features of Liệu đố. Through his cultural language, readers can find that the work has marked the development of the medieval classical drama in Nôm script in particular, and the classical drama of Binh Dinh in general. Key words: classical drama in Nôm script, Binh Dinh classical drama, cultural language, the language of classical drama, Liệu đố. 1. Nguyễn Diêu và vở tuồng Liệu đố 1.1. Nguyễn Diêu – xử sĩ chốn Nho trường Bình Định Nguyễn Diêu sinh năm 1822, không rõ tên tự, hiệu là Quỳnh Phủ, người thôn Nhơn Ân, xã Phước Thuận, huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Định. Ông được sinh trưởng trong một gia đình nghèo nhưng bản tính hiếu học và quyết chí theo khoa cử. Ông đỗ tú tài năm Tự Đức thứ 13 (1860) nên dân gian thường gọi là cụ Tú Nhơn Ân. Ông tiếp tục con đường khoa cử nhưng không thành đạt nên về nhà mượn thơ rượu, lấy trăng thanh, cỏ biếc làm vui; làm thơ, viết tuồng và mở trường dạy học. Theo tư _____________________________ * Email: minhhaiquynhon@gmail.com liệu điền dã cá nhân, sau khi đỗ Tú Tài, vì những lý do cá nhân, ông lui về ở ẩn, dạy học và viết tuồng tại quê nhà cho đến khi mất (1880). Ông là vị ân sư khai tâm dạy chữ và cũng chính là người gieo niềm đam mê hát bội (hay còn gọi là Tuồng) cho nhà thơ Đào Tấn – soạn giả tuồng lỗi lạc của Bình Định, môn sinh đắc ý nhất của cụ Tú. Trong tiến trình lịch sử phát triển của văn chương Hán Nôm Bình Định, ngoài những nhân vật tiêu biểu như Đào Duy Từ, Đặng Đức Siêu, Hồ Sĩ Tạo... và Đào Tấn, chúng ta cần nghiên cứu về trứ tác, nhân cách và những ảnh hưởng của Nguyễn Diêu trong văn giới Bình Định. Đây là một trong những tác giả lớn trong tiến trình văn học Bình Định. Ông không chỉ là những nhà TẠP CHÍ KHOA HỌC SỐ 22 * 2019 33 hoạt động văn chương nghệ thuật mà phong thái đức độ của ông còn ảnh hưởng đến những tầng lớp sĩ phu Bình Định cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỉ XX. Từ ý thức lịch sử đó, tiếp cận các văn bản Tuồng và thơ của cụ Tú Diêu, chúng ta có thể nhận ra một nhà thơ lớn Nguyễn Diêu. Ông là nhà thơ ưu thời mẫn thế, luôn trăn trở với đời. Nhiều người biết tiếng cụ Tú Nhơn Ân. Nhiều tài liệu viết về cụ, nhưng rất sơ sài, cả về tiểu sử lẫn văn nghiệp. Tác phẩm của ông cũng bị thất lạc hầu hết. Hiện nay chỉ còn một số vở tuồng: Ngũ Hổ Bình Tây (có người gọi là Ngũ hổ bình Liêu), Liệu đố (chữa bệnh ghen), Chém cáo (Nguyệt cô hoá cáo) một số bài thơ nôm: Chán đời, An phận, Con muỗi, bài phú Hàn sĩ vịnh do cư sĩ Bùi Văn Lăng dịch và in lại trong tập Danh nhân Bình Định do tác giả tự xuất bản năm 1943. Về quan điểm nhân sinh và xã hội, có lẽ trong cuộc đời của mình, cụ Tú đã gặp nhiều trắc trở, nhiều nhân vật trong các vở tuồng của ông dường như đã phần nào thể hiện rõ những điều ấy: Anh hùng nước bước còn săn Đừng dun mày liễu, mà quằn ruột lan. Chính cụ Nguyễn Diêu thường nói về mình: “Trăm đều không bằng người nhưng chưa từng có lòng xảo trá, do đó dáng dấp và tinh thần không mệt mỏi, cơm áo thì hơi no đủ cũng là được rồi, nhưng chẳng cần phải nghĩ ngợi nhiều về chuyện có và không” [2;tr.12]. Trong gia tài sáng tác của ông, Hàn sĩ vịnh là bài Phú có tính chất tự vịnh, vừa nhằm khuyến khích học trò đừng vì nghèo mà thối chí, vừa phải kiên tâm mà dùi mài kinh sử, nhưng cũng cần phải sáng suốt thấy được tình đời, tình người và những điều sâu thẳm hơn trong đó. Ông không xuất chính và trở thành một dật sĩ bởi một lẽ quan trọng khác. Vào những năm cuối thế kỉ XIX, thực dân Pháp dần củng cố ách đô hộ trên đất nước ta. Trước sự đầu hàng của vua quan nhà Nguyễn, bản thân Nguyễn Diêu tự suy xét thời cuộc, ông cho rằng: Liếc mắt thấy thế tình đà điên đảo Lắng tai nghe thời sự quá dở dang (Hàn sĩ vịnh) Và chán ngán thế sự: Văn hay chẳng khỏi nề xanh cỏ Võ giỏi rồi ra cũng bạc đầu (Chán đời) Do đó, trong những cách lựa chọn, ông chỉ muốn an phận, an bần mà vui với đạo, theo lời dạy của các bậc tiên Nho: Áo cơm xong phận theo ngày tháng Ruột đặng như vầy rứa cũng tiên (An phận) Với tư cách một nhà nho, ông đã rất tự hào về cuộc sống thanh bần, lạc đạo của mình. Hai câu thơ có tính chất triết luận sau biểu hiện rất rõ nhân sinh quan của Nguyễn Diêu: Vui là vui với bá tòng là bầu bạn, đói no kinh sử cũng thỏa lòng. Đường lợi danh trối kẻ ước mong, trường đạo lý thời ta nông nã. (Hàn sĩ vịnh) Có thể nói, hơn ai khác, Đào Mộng Mai là người hiểu rõ thầy mình nhất. Ông biết, cụ Tú không phải vì chán đời, vì an phận mà ông tách rời hẳn cuộc đời. Không chỉ trăn trở với thời cuộc, đôi khi Nguyễn Diêu cũng phóng bút, trào lộng. Trong bài Con muỗi, ông ví bọn tham quan như những con muỗi chuyên hút máu và nguyện trở thành chiếc quạt băng tiêu để đập chết bọn chúng: Băng tiêu quạt nọ trời cho mỗ Ra sức đập mày cũng chết queo (Con muỗi) Từ những câu chuy ... ệu đố in đậm dấu ấn văn hóa. Văn hóa là một đặc trưng trong phong cách ngôn ngữ nghệ thuật tác phẩm Liệu đố của Nguyễn Diêu. Về hình thức ngôn ngữ của ngữ liệu văn hóa, ngữ liệu văn hóa được sử dụng trong tuồng Nôm Liệu đố có đầy đủ ba thành phần như đặc trưng chung của ngữ liệu văn hóa trong thơ Nôm. Đó là các thành phần ngữ liệu thuần Việt, ngữ liệu Hán Việt và ngữ liệu bán Hán Việt. Trong ngôn ngữ tuồng Liệu đố, ngữ liệu bán Hán Việt chiếm tỉ lệ cao nhất với 42,7% trong số 248 ngữ liệu văn hóa. Hiện tượng này phần nào nói lên rằng ở ngôn ngữ tác phẩm này có sự dung hòa, tích hợp đậm nét hai luồng văn hóa bác học và văn hóa bình dân. 38 TRƯỜNG ĐẠI HỌC PHÚ YÊN Bên cạnh đó, nhiều ngữ liệu Hán Việt có nguồn gốc văn hóa Hán học được nhà thơ chuyển dịch sang bán Hán Việt (như ngữ liệu Hán học “nho lâm” được chuyển dịch thành ngữ liệu bán Hán Việt “rừng nho”, “tam quân” chuyển dịch thành “ba quân”, “chiết Chương Đài liễu” chuyển dịch từ “bẻ liễu Chương Đài”), thậm chí thuần Việt (như ngữ liệu thuần Việt “bể dâu” được rút gọn và chuyển dịch từ ngữ liệu Hán học “thương hải tang điền”, “trăm năm” được rút gọn và chuyển dịch từ “nhân sinh bách niên vi kỳ”). Điều này phản ánh phần nào khuynh hướng khước từ dần ảnh hướng của văn hóa Hán học, đồng thời tìm về với truyền thống văn hóa dân tộc của vở tuồng đặc sắc này. Trong các thành phần còn lại, ngữ liệu thuần Việt chiếm tỉ lệ thấp hơn cả với 49 ngữ liệu, chiếm 19,8% trong tổng số 248 ngữ liệu. Ngữ liệu Hán Việt chiếm tỉ lệ lớn thứ hai sau ngữ liệu bán Hán Việt, với 93 đơn vị, chiếm 37,5%. So với một số tác phẩm của Nguyễn Hiển Dĩnh và Đào Tấn - hai soạn giả tiêu biểu của bộ môn nghệ thuật tuồng khu vực Nam Trung bộ, khuynh hướng tìm về, kế thừa và phát huy, đề cao giá trị văn hóa nội sinh, ngữ liệu văn hóa bình dân trong Liệu Đố có phần nhỏ hơn. Tuy nhiên, trong hình chung là áp lực còn rất lớn của ngữ liệu Hán Việt đối với văn học tuồng Nôm thời trung đại, tuồng Liệu đố của Nguyễn Diêu là một trong những sáng tác có tỉ lệ ngữ liệu văn hóa thuần Việt và ngữ liệu bán Hán Việt chuyển dịch cao (155/248 ngữ liệu, chiếm 62,5%). Phải là sáng tác của những tác giả có khuynh hướng một mặt hạn chế sự tác động của văn hóa Hán bằng cách sử dụng có chọn lọc, mặt khác tìm về, học tập và phát huy mạnh mẽ các giá trị văn hóa nội sinh của dân tộc mới đạt được tỉ lệ này. Xét về phong cách văn hóa, ngữ liệu văn hóa trong ngôn ngữ vở Liệu đố mang cả hai phong cách bác học và bình dân. Hiện tượng này một mặt bắt nguồn từ truyền thống của thơ Nôm trung đại, đồng thời, chịu ảnh hưởng đậm nét từ cuộc đời và phong cách soạn giả. Nguyễn Diêu vừa là một hàn sĩ, bậc túc nho, thông làu kinh sử, am tường văn hóa Hán học lại vừa là người sống gần gũi với người dân lao động, gắn bó với nông thôn, sành sõi tiếng Việt, hiểu biết về truyền thống văn hóa của dân tộc. Hai phong cách văn hóa trong con người Quỳnh Phủ để lại dấu ấn rõ nét trong thơ văn của ông, đặc biệt là trong ngôn ngữ tuồng thời trung đại Việt Nam. Trong hai phong cách, ngữ liệu văn hóa mang phong cách bác học chiếm tỉ lệ lớn trong tuồng Liệu đố. Có 193/248 ngữ liệu là ngữ liệu bác học, chiếm tỉ lệ 77,8%. Dẫn đến hiện tượng này, theo chúng tôi, là bởi dấu ấn văn hóa bác học trong ngôn ngữ tuồng Quỳnh Phủ chịu ảnh hưởng sâu sắc từ con người và phong cách thi nhân của Nguyễn Diêu. Ngữ liệu văn hóa bình dân trong vở Liệu đố có tỉ lệ thấp hơn với 55 ngữ liệu, chiếm 22,2% trong tổng số 248 ngữ liệu văn hóa thống kê được. Tuy nhiên, sự gia tăng về thành ngữ, tục ngữ, phương ngữ, khẩu ngữ, tiếng lóng, từ ngữ xã hội với số lượng tương đối lớn vào ngôn ngữ tuồng Liệu đố là một hiện tượng thú vị, có ý nghĩa nhất định đối với khuynh hướng tìm về cội nguồn văn hóa dân tộc của tuồng Nôm Bình Định. Ngoại trừ điển cố, thi liệu và từ ngữ xã hội Hán học, các bộ phận còn lại trong hệ thống ngữ liệu văn hóa trong Liệu đố có tỉ lệ khá tương đồng. Việc hạn chế sử dụng điển cố, thi liệu Hán học, đồng thời tăng cường sử dụng thành ngữ, ca dao, thành ngữ, khẩu ngữ đã góp phần làm cho ngôn ngữ Nôm trong Liệu đố của Nguyễn Quỳnh Phủ ngày càng trở nên mềm mại, uyển TẠP CHÍ KHOA HỌC SỐ 22 * 2019 39 chuyển, gần gũi với lời ăn tiếng nói hằng ngày của nhân dân lao động, đóng góp nhất định đối với sự phát triển của tiếng Việt văn chương ở thời trung đại. Từ góc nhìn văn hóa, ngữ liệu văn hóa trong bản tuồng Liệu đố của Nguyễn Diệu đã gián tiếp thể hiện ít nhiều quan niệm văn hóa - thẩm mĩ của thi nhân trong các sáng tác của mình. Khuynh hướng lựa chọn, sử dụng từng hệ thống ngữ liệu văn hóa cho thấy các phương diện cơ bản trong quan niệm văn hóa - thẩm mĩ của nhà thơ. Việc sử dụng có chủ đích hệ thống ngữ liệu văn hóa bác học cho thấy ở tác giả quan niệm về mẫu người nhà nho lí tưởng; quan niệm về cái đẹp văn hóa mang tính trang trọng, mực thước, tao nhã, uyên bác vốn chịu sự chi phối của văn hóa Nho giáo. Ngược lại, việc ưu tiên sử dụng tăng cường hệ thống ngữ liệu văn hóa bình dân thể hiện ở nhà thơ quan niệm về cái đẹp văn hóa mang tính cụ thể, sinh động, chân thực, gần gũi, tươi trẻ, thậm chí tinh nghịch, phá cách; quan niệm về cái hài gắn với sự kệch cỡm, lố lăng vốn chịu ảnh hưởng từ truyền thống văn hóa dân tộc, văn hóa bình dân, tiếng cười trào lộng của nhân dân lao động. Nhìn chung, hai bộ phận ngữ liệu mang phong cách văn hóa bác học và bình dân trong ngôn ngữ tuồng Nôm Liệu đố đã phản ánh ít nhiều về đặc điểm phong cách con người và phong thái văn chương của cụ Tú. Ngôn ngữ tuồng Nôm Liệu đố vừa học tập, kế thừa tinh hoa các giá trị văn hóa bác học (chủ yếu là văn hóa gốc Hán có nguồn gốc ngoại lai) vừa quay về với mạch nguồn văn hóa dân tộc, tiếp thu và phát huy các giá trị văn hóa nội sinh. Đây là điểm độc đáo, đồng thời là nét giá trị của Liệu đố trong tiến trình vận động của văn học tuồng Nôm cổ điển Việt Nam. 3. Giá trị thẩm mỹ của ngôn ngữ văn hoá trong tuồng Liệu đố 3.1. Ngôn ngữ văn hóa bác học với sự thể hiện quan niệm văn hóa - thẩm mĩ của Nguyễn Diêu trong vở tuồng Liệu đố Dấu ấn của văn hóa bác học đối với việc hình thành và thể hiện quan niệm văn hóa - thẩm mĩ của Nguyễn Diêu trong ngôn ngữ vở Liệu đố được thể hiện qua phương diện hình thức nghệ thuật của tác phẩm, chủ yếu là ngôn từ. Nhà thơ ưu tiên lựa chọn lớp từ mực thước, trừu tượng, cổ kính, trang nhã. Điều này lí giải vì sao lớp ngữ liệu văn hóa bác học được nhà thơ huy động sử dụng với số lượng rất lớn trong các tác phẩm Nôm thời trung đại. Kết quả thống kê cho thấy, ngữ liệu văn hóa bác học trong Liệu đố của Nguyễn Diêu chiếm tỉ lệ cao nhất với 77,8% trong tổng số 248 ngữ liệu, được sử dụng với nhiều hình thức đa dạng (kinh sử, điển cố thi liệu, nhân danh địa danh, từ ngữ xã hội Hán học; nguyên dạng và chuyển dịch; Hán Việt, bán Hán Việt và cả thuần Việt). Rõ ràng, nhà thơ sử dụng ngữ liệu văn hóa bác học một cách có chủ đích. Là bậc túc nho, Nguyễn Diêu hiểu rõ bản chất và giá trị của bộ phận ngữ liệu văn hóa này (tính hàm súc, trang trọng, thanh nhã). Cộng với đó là tài năng sử dụng ngôn ngữ của thi nhân. Các ngữ liệu văn hóa bác học vào tay ông đều trở nên đắc địa, nhiều trường hợp trở thành “thần cú nhãn tự” của tác phẩm, phát huy tối đa giá trị biểu cảm, thẩm mĩ và văn hóa của chúng. Có thể thấy rõ điều này qua những đoạn trích hay trong vở tuồng tài danh mà Nguyễn Diêu chủ động huy động sử dụng một lượng lớn ngữ liệu văn hóa bác học như: - Sử dụng nhiều điển cố, thi liệu (65 đơn vị): “Đê mê Nam phố Lục ba Áo não Dương xuân biệt điệu Đồng xướng: Đắc ý xuân phong trục mã đề Tương tương nam bắc các đê mê 40 TRƯỜNG ĐẠI HỌC PHÚ YÊN Giá phiên tống biệt vô tha thoại Duy vọng ngao đầu tánh tự đề” - Sử dụng nhiều từ ngữ xã hội Hán học (76 đơn vị): (Hát vãn) Uyên ương ngọc quý trao tay Xin phu quân nhớ lấy nghe: “Dặn lòng xin chớ lãng xao tấc lòng, Châu Anh: (Vãn) Đường đời trải nẻo tây đông. Ơi em ơi Phòng loan mỏi mắt đợi trông ngày ngày, Phu nhơn đà trở lại cố hương Âu là Sư đệ kíp bước qua kinh địa (Hát loạn) Sách mã phiên phiên khí thế hào Kiều chiêm đế khuyết nhựt luân cao Với việc được sử dụng với tần số cao trong các đoạn ca vãn, xướng, các lớp ngữ liệu văn hóa bác học đã phát huy tối đa tác dụng của chúng trong việc kiến tạo nên lớp ngôn từ giàu tính bác học, hàn lâm đồng thời trang nghiêm, thanh nhã. Có thể nói, trên phương diện hình thức, hệ thống ngữ liệu văn hóa bác học đã góp phần thể hiện ở Nguyễn Diêu quan niệm văn hóa - thẩm mĩ. Đó là quan niệm về cái đẹp gắn với sự trang trọng, cao nhã, hài hòa, đăng đối, mực thước, uyên bác. Cố nhiên, đó không phải là cái đẹp của sự hóc hiểm, cầu kì, gia công đẽo gọt. Đa số ngữ liệu văn hóa bác học trong tuồng Liệu đố đều dễ hiểu, được chuyển dịch và Việt hóa tối đa nói lên điều này. 3.2. Ngữ liệu văn hóa bình dân với sự thể hiện quan niệm văn hóa - thẩm mĩ của Nguyễn Diêu trong vở tuồng Liệu đố Xét từ nguồn gốc nội sinh từ truyền thống văn hóa của dân tộc, ngữ liệu văn hóa bình dân mang trong mình nhiều đặc điểm như tính cụ thể, sinh động, gần gũi với hiện thực cuộc sống và tâm thức người Việt, khả năng cực tả, khả năng tạo hình, biểu cảm cao. Khi được sử dụng tăng cường một cách chủ động, linh hoạt và đúng chỗ, hệ thống ngữ liệu văn hóa này sẽ phát huy được các giá trị tự thân, mang đến cho tác phẩm những hiệu ứng thẩm mĩ độc đáo, bất ngờ, thú vị. Bằng tài năng và nhãn quan ngôn ngữ tuyệt vời của mình, Nguyễn Diêu biết cách lợi dụng các đặc tính quan trọng trên của hệ thống ngữ liệu văn hóa bình dân để thể hiện các ý đồ nghệ thuật, thông qua đó ít nhiều nói lên quan niệm văn hóa - thẩm mĩ của mình. Cho nên, không phải ngẫu nhiên mà trong tuồng Nôm Liệu đố của ông, các bộ phận của ngữ liệu văn hóa bình dân có số lượng khá lớn, xuất hiện với tần suất khá cao. Ví dụ: - Sử dụng nhiều thành ngữ, tục ngữ, ca dao (ở nguyên dạng hoặc biến dạng): Kim Liên: Thạch Nghị vốn cha già, Kim Liên là tên thiếp Tuy nhôn nhạo tin ong sứ điệp Chưa vấn vương mối chỉ đường tơ Chẳng biết khi dòng nước rơi thơ Có gặp đấng trông bắn sẻ hay chăng? - Sử dụng nhiều tiếng lóng, khẩu ngữ : Thạch Nghị: Bớ con Con đừng biện bạch Nó thật côn đồ Con chớ “thủ nhơn dĩ mạo” mà lầm, xưa nay thường là Mặt giống học trò Nhưng mà Bộ giò ăn cắp đó con Để cha cho một đạp Đặng nó mất ba hồn đi cho rồi Rõ ràng, sự xuất hiện với tần số khá cao của hệ thống ngữ liệu văn hóa bình dân đã mang đến cho ngôn ngữ Nôm trong Liệu đố nét sinh động, khỏe khoắn, chân thực, cụ thể, giàu hình ảnh và biểu cảm. Với hệ thống ngữ liệu văn hóa này, hình tượng trong các nhân vật trong tuồng của ông trở nên sống động, gần gũi hơn. Vẻ đẹp văn hóa trong tuồng Nôm Nguyễn Diêu cũng TẠP CHÍ KHOA HỌC SỐ 22 * 2019 41 hiện lên cụ thể, rõ nét hơn. Ngôn ngữ của các nhân vật tiêu biểu trong tuồng Liệu đố của ông như Kim Liên, Thạch Nghị, Ngọc Mai, Châu Anh, Hề đồng,rất tiêu biểu cho điều này. Bên cạnh quan niệm về cái đẹp gắn với sự trong sáng, gần gũi, sống động, quan niệm văn hóa - thẩm mĩ của Nguyễn Diêu còn thể hiện ở cái nhìn trào lộng. Bên cạnh cái đẹp, ông còn nêu ra quan niệm về cái hài. Đó là sự kệch cỡm, trơ tráo, sự khập khiễng giữa hình thức và nội dung gây phản cảm. Trong lời thoại của một số nhân vật, yếu tố được ông sử dụng nhiều ngữ liệu văn hóa bình dân, đặc biệt là lớp khẩu ngữ, tiếng lóng như “trò trẹt chi bay”, “nực cười”, “đếch”, “mẹ mày”, “khá khen thay”, “cũng thế a”nhằm tăng cường khả năng tạo tiếng cười. Và nhà thơ thật sự thành công với lối đi này. Bởi như đã biết, với các đặc tính giàu khả năng miêu tả và biểu cảm, sinh động, linh hoạt, gần gũi, thậm chí suồng sã, thông tục, lớp ngữ liệu văn hóa bình dân tỏ ra phù hợp với chức năng trào phúng, có tác dụng lớn trong việc gây cười. Có thể nói, từ góc nhìn văn hóa, có thể thấy rằng, quan niệm văn hóa - thẩm mĩ về cái hài của Nguyễn Diêu chịu ảnh hưởng từ tiếng cười trào tiếu dân gian của các pho tuồng đồ nổi tiếng đất Bình Đinh. Sự phóng chiếu của sự ảnh hưởng này được thể hiện rõ nét qua hệ thống ngữ liệu văn hóa bình dân mà cụ Quỳnh Phủ đã sử dụng. Nghiên cứu hệ thống ngữ liệu trong Liệu đố dưới góc nhìn văn hóa mang đến cho chúng ta những kết quả mới mẻ, thú vị. Từ góc nhìn văn hóa, ta có thể tìm hiểu quan niệm văn hóa - thẩm mĩ của soạn giả Nguyễn Diêu thông qua hệ thống ngữ liệu văn hóa mà ông đã sử dụng trong các tác phẩm. Cũng từ góc nhìn này, có thể thấy được tính triết luận văn hóa trong ngôn ngữ tuồng Nguyễn Diêu trên hai bình diện: văn hóa dân tộc và văn hóa ngoại lai. Với vấn đề tiếp nhận, lan toả và ảnh hưởng của tuồng Nôm Nguyễn Diêu nói chung và Liệu đố nói riêng trên hai phương diện sáng tác và nghiên cứu, phê bình, hướng nghiên cứu văn hóa sẽ giúp chúng ta hiểu rõ hơn giá trị làm nên sức hấp dẫn, lan tỏa của ngôn ngữ đặc sắc của vở Liệu đố. Có thể nói, giá trị văn hóa hàm chứa bên trong các hệ thống ngữ liệu văn hóa được sử dụng một cách linh hoạt, nhuần nhị và sáng tạo là một trong những tiền đề quan trọng giúp cho ngôn ngữ tuồng Nôm Liệu đố có sức sống lâu bền trong lòng khán thính giả và trong tiến trình vận động, phát triển của tuồng Nôm Việt Nam TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] Huỳnh Chương Hưng, Võ Minh Hải (Phiên âm, chú giải, 2015), Nguyễn Diêu di cảo – Liệu đố (Tư liệu cá nhân) [2] Vũ Ngọc Liễn (2011), Quỳnh Phủ Nguyễn Diêu – Ông đồ nghệ sĩ, Nxb Sân khấu, H. [3] Nhiều tác giả (2012), Kỷ yếu Hội thảo Nguyễn Diêu, Sở Văn hoá – Du lịch Bình Định, Tp. Quy Nhơn. (Ngày nhận bài: 25/09/2019; ngày phản biện: 29/09/2019; ngày nhận đăng: 04/10/2019)
File đính kèm:
- ngon_ngu_van_hoa_trong_vo_tuong_lieu_do_cua_nguyen_dieu.pdf