Liên kí hiệu trong tiểu thuyết Hồ Anh Thái

Liên kí hiệu là một trong những thuật ngữ liên quan đến kí hiệu học văn học. Hiện nay, lí thuyết về kí hiệu học/kí hiệu

học văn hóa đã trở thành phổ biến và được vận dụng như một khung tri thức để tham chiếu, giải mã văn bản nghệ thuật. Hồ Anh

Thái được xem là “một nhà văn đang viết” với hàng chục cuốn tiểu thuyết. Mỗi tác phẩm của Hồ Anh Thái đều có sự va đập, sự

lặp lại chuỗi kí hiệu thẩm mỹ. Tầm khái quát trong tiểu thuyết Hồ Anh Thái cao, nhờ hệ thống liên kí hiệu. Tiếng nói bên trong văn

bản nằm ở sự tương hỗ, tương tác giữa huyền thoại, cổ mẫu, biểu tượng. Sự liên kết chuỗi kí hiệu thẩm mỹ nằm trong chiến lược

trần thuật của nhà văn

Liên kí hiệu trong tiểu thuyết Hồ Anh Thái trang 1

Trang 1

Liên kí hiệu trong tiểu thuyết Hồ Anh Thái trang 2

Trang 2

Liên kí hiệu trong tiểu thuyết Hồ Anh Thái trang 3

Trang 3

Liên kí hiệu trong tiểu thuyết Hồ Anh Thái trang 4

Trang 4

Liên kí hiệu trong tiểu thuyết Hồ Anh Thái trang 5

Trang 5

Liên kí hiệu trong tiểu thuyết Hồ Anh Thái trang 6

Trang 6

Liên kí hiệu trong tiểu thuyết Hồ Anh Thái trang 7

Trang 7

pdf 7 trang viethung 6800
Bạn đang xem tài liệu "Liên kí hiệu trong tiểu thuyết Hồ Anh Thái", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên

Tóm tắt nội dung tài liệu: Liên kí hiệu trong tiểu thuyết Hồ Anh Thái

Liên kí hiệu trong tiểu thuyết Hồ Anh Thái
UED Journal of Social Sciences, Humanities & Education, ISSN: 1859 - 4603 
https://doi.org/10.47393/jshe.v11i1.956 
TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI, NHÂN VĂN VÀ GIÁO DỤC 
172 | Tạp chí Khoa học Xã hội, Nhân văn và Giáo dục, Tập 11, Số 1 (2021), 172-178 
Cite this article as: Le, T. H. (2021). Inter-symbol in Ho Anh 
Thai's novels. UED Journal of Social Sciences, Humanities 
and Education, 11(1), 172-178. 
https://doi.org/10.47393/jshe.v11i1.956 
LIÊN KÍ HIỆU TRONG TIỂU THUYẾT HỒ ANH THÁI 
Lê Thị Hường 
Trường Đại học Sư phạm - Đại học Huế, Việt Nam 
Tác giả liên hệ: Lê Thị Hường - Email: lethihuongsph@gmail.com 
Ngày nhận bài: 21-5-2021; ngày nhận bài sửa: 15-6-2021; ngày duyệt đăng: 17-6-2021 
Tóm tắt: Liên kí hiệu là một trong những thuật ngữ liên quan đến kí hiệu học văn học. Hiện nay, lí thuyết về kí hiệu học/kí hiệu 
học văn hóa đã trở thành phổ biến và được vận dụng như một khung tri thức để tham chiếu, giải mã văn bản nghệ thuật. Hồ Anh 
Thái được xem là “một nhà văn đang viết” với hàng chục cuốn tiểu thuyết. Mỗi tác phẩm của Hồ Anh Thái đều có sự va đập, sự 
lặp lại chuỗi kí hiệu thẩm mỹ. Tầm khái quát trong tiểu thuyết Hồ Anh Thái cao, nhờ hệ thống liên kí hiệu. Tiếng nói bên trong văn 
bản nằm ở sự tương hỗ, tương tác giữa huyền thoại, cổ mẫu, biểu tượng. Sự liên kết chuỗi kí hiệu thẩm mỹ nằm trong chiến lược 
trần thuật của nhà văn. 
Từ khóa: kí hiệu; kí hiệu học văn hóa; liên kí hiệu; Hồ Anh Thái; tiểu thuyết; huyền thoại; tôn giáo; biểu tượng; chiêm bao; thiện 
và ác. 
1. Mở đầu 
Dẫu kí hiệu học hiện đại “đang trải qua giai đoạn buộc 
phải xét lại một số khái niệm cơ bản” (Lotman, 2015, 
88), nhưng hiện nay, lí thuyết về kí hiệu học đã trở thành 
phổ biến và được vận dụng như một khung tri thức để 
tham chiếu, giải mã văn bản nghệ thuật. Các khái niệm 
liên quan đến kí hiệu học đã được đối thoại, giới thuyết, 
xác lập trong hầu hết các công trình về kí hiệu học văn 
học/văn hóa (lí thuyết lẫn ứng dụng). Riêng về khái niệm 
liên kí hiệu, cho đến nay vẫn còn là một thuật ngữ chưa 
thông dụng và chưa có một định nghĩa thật xác thực. Iu. 
M. Lotman, một trong những nhà kí hiệu học hàng đầu 
của thế kỉ XX, đồng thời cũng là người đặt nền tảng cho 
lí thuyết kí hiệu học văn hóa, khẳng định: “Không một cơ 
chế kí hiệu học nào có thể hoạt động như một hệ thống 
biệt lập, trong môi trường chân không. Điều kiện hoạt 
động chủ yếu của nó là đầm mình vào kí hiệu quyển- vào 
không gian kí hiệu học” (Lotman, 2015, 89). Sự gắn kết, 
tương hỗ giữa các kí hiệu (có tính lặp lại), làm nên “khí 
hậu quyển” của văn bản nghệ thuật. Tính lặp lại các kí 
hiệu này có khả năng tạo nghĩa và các lớp nghĩa phái 
sinh. Theo Lê Huy Bắc: “Nói liên kí hiệu thực chất là nói 
đến khả năng tạo nghĩa của kí hiệu trên cơ sở các quan hệ 
tương tác” (Le, 2018, 137). 
Từ góc nhìn kí hiệu học văn hóa, nếu xem tác phẩm 
văn học là một “kí hiệu đa văn hóa” thì trong tiểu thuyết 
Hồ Anh Thái, đa văn hóa, liên văn hóa gắn liền với liên 
kí hiệu. Mỗi tác phẩm của Hồ Anh Thái đều có sự va 
đập các kí hiệu thẩm mỹ. Sự liên kết chuỗi kí hiệu nằm 
trong chiến lược trần thuật của nhà văn. 
2. Nội dung 
2.1. Liên kí hiệu – một mô thức kiến tạo văn bản 
Với chủ trương lấy văn bản làm trung tâm, trong 
công trình Kí hiệu học văn hóa, Iu. M. Lotman khẳng 
định: “Văn bản mới bao giờ cũng gắn với các văn bản 
cũ bằng những quan hệ đối thoại, nó bảo tồn các văn 
bản ấy trong kí ức của mình”; “Các kí hiệu tạo thành 
văn bản, các văn bản tạo thành văn hóa, các văn bản tạo 
thành kí hiệu quyển” (Lotman, 2015, 59). Theo nghĩa 
đó, kí hiệu tồn tại trong tác phẩm văn học như một công 
cụ kiến tạo văn bản nghệ thuật. Mô thức kiến tạo này rõ 
nét trong một kiểu tác giả mà tiêu biểu là Hồ Anh Thái. 
Tạo mã với các chuỗi kí hiệu đặc thù (lặp lại trong một 
 ISSN: 1859 - 4603, UED Journal of Social Sciences, Humanities and Education, Vol. 11, No. 1 (2021), 172-178 
 173 
và nhiều tiểu thuyết) chính là một chiến lược trần thuật 
của Hồ Anh Thái, với lối tự sự đa thanh, nhiều gợi mở. 
Trong tiểu thuyết Hồ Anh Thái tính liên kí hiệu biểu 
hiện ở hai mối quan hệ. Một là, sự tương tác giữa các kí 
hiệu trong một văn bản tiểu thuyết. Hai là, chuỗi kí hiệu 
xuyên suốt nhiều tiểu thuyết với các nghĩa phái sinh. 
Trường hợp thứ nhất, trong mỗi tác phẩm của Hồ 
Anh Thái luôn có một hệ thống kí hiệu chằng chịt, mỗi 
kí hiệu thẩm mĩ đều có sự tương tác với các kí hiệu 
khác để tạo nghĩa mới. Trong tiểu thuyết Tranh Van 
Gogh mua để đốt sự tương hỗ giữa các kí hiệu đã làm 
nên một “tổ hợp kí hiệu” mở rộng nội dung tác phẩm. 
Hồ Anh Thái luôn tạo lực hút từ nhan đề. Xâu chuỗi 
toàn bộ tiểu thuyết của nhà văn, nhan đề chính là 
những mã văn hóa, hình thành từ sự liên kết các kí 
hiệu. Tên cuốn tiểu thuyết như một kí hiệu phản đề, 
Tranh Van Gogh/mua/để đốt. Tranh nào giữa những 
bức tranh tuyệt mĩ đa phần được vẽ trong những cơn 
điên vật vã của danh họa Hà Lan? Tranh nào trong 
những bức tranh vô giá đã từng chịu số phận hẩm hiu, 
thậm chí có bức tranh còn được dùng để che chắn 
chuồng gà. Ai mua? Tại sao đốt? Ai đã phạm tội hủy 
diệt văn hóa nhân loại? Mã nhan đề gợi dẫn nhiều chủ 
điểm trong tác phẩm; đó là bi kịch người trí thức nghệ 
sĩ tài năng, là bi hài kịch hội họa (thời đại Van Gogh 
và rộng hơn là trong đời sống đương đại)... Ngoài tính 
chất gợi dẫn của nhan đề, chuỗi kí hiệu liên kết, phái 
sinh là Lửa (đốt/hủy) và Trắng (sương mù/vô minh). 
Phái sinh từ bức Chân dung bác sĩ Gachet của Van 
Gogh là vô vàn những bức tranh trắng (“Trắng tinh. 
Trắng xóa. Trắng bạch. Trắng muốt. Trắng hếu. Trắng 
nhởn. Trắng mù như sương. Trắng nhờ nhờ như 
khoảng sáng trước bình minh. ”; “Nhiều trắng quá. 
Giả sử mở một cuộc triển lãm, tên triển lãm sẽ là 
Trắng. Một chữ thôi. Trắng”). Những bức trắng lại 
phái sinh vô số những cái tên (“tuôn ra những 
là Tảng băng trôi với Hôn lễ trắng, Góa phụ trắng, 
Hai bàn tay trắng, Cuộc tình màu trắng. Thêm Giao 
hưởng trắng, Khó ... dục phong phú. Ở những hoàn 
cảnh đặc biệt, họ thường rơi vào trạng huống kìm nén 
bản năng và để lộ ra phần bí mật nhất và trơ trẽn nhất 
trong những cơn mơ phóng đãng với một chuỗi ảo ảnh 
ma quái. Sống ở nông trại gần như thiếu vắng bóng đàn 
bà, “cách dăm ngày, Hòa lại cảm thấy một cái đầu quay 
cuồng, vật vã trên ngực mình” (Người đàn bà trên 
đảo). Những giấc mơ tính dục của công chúa Savitri 
(tiền kiếp) là tiếng nói của dục vọng giữa bể khổ trần 
gian. Trong giấc mơ của Savitri, người đàn bà tuổi hồi 
xuân, người tình Yasa hiện về, “vẻ quằn quại vật vã. 
Mười mấy năm theo Phật, ám ảnh dục lạc tưởng như đã 
dẹp bỏ, nay lại thức dậy quay cuồng (Đức Phật, nàng 
Savitri và tôi). Những giấc mơ dục lạc, những thao tác, 
hành vi tính dục thừa mứa, đôi khi quá ngưỡng lại mang 
chứa quan niệm bể khổ đời người. Giấc mơ của những 
người đàn bà ở Xóm Chửa Hoang thấy mình ngủ với cá 
voi (biểu tượng đàn ông mạnh mẽ; tiếng nói của những 
cơn khát và hưng phấn tính dục) - “Một thứ hương đê 
mê. Gió dồi sóng dập. Trời đất quay cuồng đảo ngược. 
Núi đá vặn mình tung tóe nước non” (Dấu về gió xóa). 
Giấc mơ về tội ác và trừng phạt cũng lặp lại nhiều lần, 
là một mã văn hóa xuyên văn bản. Thiện ác là qui luật 
tự nhiên. G. Bataille, nhà triết học người Pháp, người 
ủng hộ cho văn học viết về cái ác, cho rằng: “Văn học là 
cơ sở của tồn tại hoặc không là gì cả. Nó là hình thức 
thể hiện rõ nét của cái Ác, một cái Ác theo tôi nghĩ, có 
một giá trị tối thượng. Quan điểm này không đòi hỏi sự 
Lê Thị Hường 
176 
thiếu vắng đạo đức, nó yêu cầu một “siêu đạo đức” 
(Bataille, 2016). Trong văn học Việt Nam đương đại, 
Hồ Anh Thái là một trong những nhà văn sớm viết về 
cái ác với quan niệm “Cuộc sống chỉ chia ra hai màu 
Thiện – Ác, không hơn” (Dấu về gió xóa). Trong nhiều 
tiểu thuyết Hồ Anh Thái, cái ác chiếm lĩnh, bầy đàn, 
đông đúc, dai dẳng. Cái ác muôn hình vạn trạng dưới 
mọi hình thức tàn độc. Cái ác hủy hoại nhân tính. Trong 
kí hiệu quyển đó, có những giấc mơ thoáng qua, như 
những “kí hiệu vô bổ” (chữ dùng của A. Compagnon)1 
chìm khuất giữa các sự kiện xảy ra dồn dập nhưng chính 
là tiếng nói chất vấn của lương tri con người. Những 
giấc mơ thiêng hóa giải lời nguyền, hướng thiện trong 
cõi ác; những giấc mơ nhân quả (Mười lẻ một đêm, Cõi 
người rung chuông tận thế, Năm lá quốc thư). Khi Hồ 
Anh Thái viết về nhân quả, cái chết, nghiệp báo, cứu 
chuộc, motif tội lỗi – trừng phạt trở thành chủ đề đạo 
đức xuyên văn bản, cảnh báo về cái ác ngự trị dẫn đến 
sự suy thoái đạo đức nhân văn, đạo đức sinh thái. Quan 
niệm nhân quả của nhà văn dung hợp giáo lí Phật giáo, 
Thiên chúa giáo lẫn tín ngưỡng dân gian. Ở hiền gặp 
lành, ở ác đền tội (dân gian); “do cái này sanh, cái kia 
sanh”; “do cái này diệt, cái kia diệt”; gieo nhân nào thì 
gặt quả ấy (Phật giáo); “Vì chúng nó đã gieo gió và sẽ 
gặt bão lốc”, “Tất cả những ai cầm gươm sẽ chết vì 
gươm” (Sách Khải huyền). Gắn liền với tín ngưỡng dân 
gian, làm ác và hành thiện đều gắn với những thế lực 
siêu nhiên. Tuy vậy, những yếu tố siêu nhiên trong sáng 
tạo của Hồ Anh Thái “không quá xúc phạm tới lí trí” 
(Todorov). Nó là phương tiện, là kí hiệu để nhà văn biểu 
đạt hiện thực thậm phồn, với các chiều kích tâm linh. 
Mẫu đề cõi người-cõi tạm-bể khổ lặp lại nhiều lần qua 
biểu tượng cái chết, hoặc những sátna vô thường. Cõi 
người rung chuông tận thế là tác phẩm thể hiện rõ quan 
niệm đời là cõi tạm, đời là bể khổ của Phật giáo. Làm 
ác, hận thù, truy đuổi, báo oán là một chuỗi khổ ải trầm 
luân. Nạn nhân của cái ác tồn tại dai dẳng là em bé với 
môi hôn của thiên thần, chết đúng vào lễ sinh nhật lần 
thứ hai, “đôi mắt mở to nhìn đi xa hút. Trên môi đọng 
một cái cười nhếch mép. Ở khóe mép là một nếp nhăn 
hằn sâu 
1Trong Bản mệnh của lí thuyết (Compagnon, 2006), 
Compagnon nêu khái niệm “kí hiệu vô bổ” và giải thích đó là 
những chi tiết “thừa”, quấy rầy bởi nó hoàn toàn vô thưởng vô 
phạt, không đáng kể, chẳng có chức năng gì từ điểm nhìn của 
phân tích cấu trúc truyện kể. 
của người già. Cái cười và nếp nhăn của người đã ngộ, 
đã thành chính quả, đã hiểu hết và thấu suốt tất cả”; 
“Đến thăm cõi đời này, nó nhìn xoáy như muốn lột vỏ 
con người. Giã biệt cõi đời này, nó nhìn xuyên thấu và 
nhếch mép cười mọi trò trẻ con nhăng nhố”. Và trong 
giấc mơ, nhân vật Đông thấy con gái hiện về trong 
“dáng vẻ của một thiếu phụ, tay cầm một bó hoa hồng 
tua tủa gai”. Trong Tranh Van Gogh mua để đốt, cô 
thiếu nữ H’Mông trinh nguyên, mang dáng dấp của Nữ 
Thần Sống, trong một khoảnh khoắc mà như sống qua 
hai kiếp. Khi cô gái đọc những cuốn sách trắng cô bỗng 
như trải qua nhiều kiếp khổ. Những tri thức cổ kim 
đông tây mà cô “khai quật lên từ những trang giấy trắng 
mù thì không một đứa con gái hồn nhiên vô tư nào có 
thể mang nặng trên vai”. Trong khoảnh khắc ấy “trên 
gương mặt cô vẻ già sọm của một bà cụ. Cô gái đã hóa 
thành bà lão”; “Đấy là vẻ của một người tóc bạc trắng 
chỉ sau một đêm vì đau thương”. Tiểu thuyết Hồ Anh 
Thái giàu chất triết lí. Có lúc nhà văn diễn giải dài dòng 
qua lời trần thuật, nhưng phần lớn những suy tư chiêm 
nghiệm toát lên từ các chuỗi kí hiệu xuyên văn bản, 
thành nét chủ đạo trong phong cách nhà văn. 
Liên kí hiệu biểu đạt hiệu quả tính liên văn 
hóa/liên tôn giáo 
Nhà triết học người Áo, Ludwig Josef Johann 
Wittgenstein – người được xem là có đóng góp lớn đối 
với sự ra đời của triết học liên văn hóa, chủ trương 
“dung hoà chủ nghĩa tương đối văn hóa với chủ nghĩa 
phổ quát văn hóa và cố gắng tìm ra tính thống nhất 
trong sự đa dạng của các nền văn hóa, các thế giới quan 
và các phương thức sống khác nhau” (Nguyen, 2019). 
Từ góc nhìn liên văn hóa, dẫu tác phẩm Hồ Anh Thái đa 
dạng về đề tài, các kiểu nhân vật cũng như nghệ thuật tự 
sự nhưng điểm thống nhất trong tiểu thuyết của ông là 
luôn có sự đối thoại và thống hợp các nền văn hóa của 
các dân tộc có căn tính, bản sắc khác nhau. Ngay cả 
những tiểu thuyết về chuyện đời xô bồ nhốn nháo dục 
lạc và cái ác cũng đan xen những mảnh ghép giàu trữ 
lượng liên văn hóa. Trong các văn bản, chuỗi kí hiệu 
với chất kết dính của nó đã kiến tạo một thế giới nghệ 
thuật mang tầm khái quát cao. Đặc biệt, trong số các 
nhà văn chuyên viết về tôn giáo, Hồ Anh Thái là người 
thể hiện nhất quán quan niệm liên tôn. Nhà văn nhìn 
thấy sự hòa hợp giữa các tôn giáo trên nền tảng riêng 
 ISSN: 1859 - 4603, UED Journal of Social Sciences, Humanities and Education, Vol. 11, No. 1 (2021), 172-178 
 177 
của từng giáo phái. Điểm gặp gỡ giữa các tôn giáo Đông 
Tây là tinh thần vì con người, hướng về cuộc sống hài 
hòa, ổn định của con người. Dẫu Đức tin có khác nhau, 
nhưng các tôn giáo lớn đều hướng đến khổ nạn kiếp 
người; mong mỏi cuộc sống an yên cho muôn loài. 
Erich Fromm đã chỉ ra điểm chung giữa các tôn 
giáo với quan niệm: “Vấn đề tôn giáo không phải là vấn 
đề thượng đế mà là vấn đề con người; sự hình thành các 
tôn giáo và những biểu tượng tôn giáo là những nỗ lực 
nhằm diễn đạt một số dạng trải nghiệm của con người” 
(Fromm, 2012, 166). Xoay quanh vấn đề Con Người - 
Thiện Ác, Hồ Anh Thái cho rằng, tôn giáo “như một cái 
phanh hãm, nó có thể phanh thắng con người dừng lại 
bên bờ vực tội lỗi, trước vùng ranh giới thiện-ác, bóng 
tối-ánh sáng” (Dấu về gió xóa). Tư duy liên tôn giáo thể 
hiện một cách nhìn, một lối suy nghiệm đa chiều về thế 
giới và con người. Vốn tri thức phong phú từ việc tiếp 
nhận các luồng tư tưởng Đông Tây cộng với những thực 
chứng từ nhiều vùng đất thánh nhà văn đã sống, qua hệ 
thống liên kí hiệu đã chuyển hóa thành những khái quát 
mang tầm triết lí nhân sinh. Cõi người rung chuông tận 
thế đan xen những quan niệm, nghi thức của tín ngưỡng 
dân gian, Phật giáo và Thiên chúa giáo. Đức Phật, nàng 
Savitri và tôi không đơn thuần là Phật sử. Năm lá quốc 
thư chủ yếu viết về căn tính của người Việt nhưng bên 
cạnh đó là những mảnh ghép về Hồi giáo. Quan niệm 
liên tôn giáo có khi được biểu đạt qua hình thức liên văn 
bản (Kinh Phật, Thánh kinh, lời của Hindu giáo, Hồi 
giáo) hoặc qua diễn ngôn người kể chuyện; có lúc 
qua chuỗi kí hiệu/biểu tượng về tính thiêng. Từ quan 
niệm liên tôn, tiếng chuông trong tiểu thuyết Hồ Anh 
Thái là “tiếng nói” của nhiều tôn giáo. Dấu về gió xóa là 
tác phẩm luận bàn nhiều về các tôn giáo. Nhà văn nhìn 
ra điểm chung của các tôn giáo là đều hướng con người 
đến thiện lành. Vì vậy, ở Đảo Xanh có một ngôi đền Đa 
giáo, Hợp chủng giáo; có tiếng chuông dành cho mọi tín 
đồ: “Chuông nhà thờ đánh suốt ngày, ban đầu là đánh 
chuông cho người Tin Lành người Thiên Chúa giáo. 
Sau rung chuông cho người Hindu, người Hồi giáo 
người Hỏa giáo, sau thỉnh chuông cho Phật giáo”. Trong 
Cõi người rung chuông tận thế, từ tiếng chuông chùa, 
một biểu tượng thiêng của Phật giáo, kết thúc câu 
chuyện về cái ác là thông điệp mang tinh thần Thuyết 
mạt thế của Thiên chúa giáo. “Bất đồ chuông chùa rung 
thảng thốt... Sư cụ đã bị cướp mất bình yên. Chuông 
giận dữ đổ ập vào không gian Cả cõi người bị nhấn 
chìm trong một trận hồng thủy ngập tràn kim loại”. 
Trong âm thanh tiếng chuông chùa hoảng loạn là “sấm 
ngôn” về “thời giờ đã gần đến”, về “một điều gì đó sắp 
phải xảy ra”, trong đó có mặc khải tận thế (Kinh 
Thánh). Hồng thủy kim loại, biển lửa là những kí 
hiệu thẩm mĩ mang tính cảnh báo về tình trạng phi nhân 
dẫn đến tận diệt. Nếu Lửa trong Cõi người rung chuông 
tận thế là lời cảnh báo về hủy diệt sinh thái trước cái Ác 
thì thông điệp này cũng xuất hiện ở những tiểu thuyết 
sau- “Cả thành phố như đang chìm trong lửaCơn giận 
dữ của Đức Chúa đang ở trên thành phố”; “Cả một biển 
lửa đang trùm lên khắp thành phố, khói làm dân chúng 
ngạt thở, người ta ngất đi hoặc lao vào lửa vì đã hóa 
điên” (Dấu về gió xóa). 
3. Kết luận 
Hồ Anh Thái là một trong số những nhà tiểu 
thuyết có ý thức trong việc tạo ra những chùm tác 
phẩm cùng một đề tài hay nhưng không cùng một thủ 
pháp. Trong tiểu thuyết Hồ Anh Thái, lượng thông tin 
về các miền văn hóa, các cộng đồng văn hóa “phì đại” 
qua một hệ thống kí hiệu liên kết chặt chẽ. Tính chất 
liên kí hiệu khiến tác phẩm trở thành những mã thẩm 
mĩ, dung chứa nhiều vấn đề trong mạch ngầm văn bản. 
Điều này khiến các tác phẩm của Hồ Anh Thái không 
chỉ là những văn bản độc lập, có đời sống riêng mà 
còn là những văn bản luôn được phái sinh cùng với các 
văn bản khác. Kiến tạo văn bản từ các chuỗi kí hiệu, 
hàm lượng thông tin, hàm lượng văn hóa trong tiểu 
thuyết Hồ Anh Thái được bung nở đa chiều kích. Vừa 
thống nhất, vừa lạ hóa trong lối viết, qua hệ thống liên 
kí hiệu, có thể xem tiểu thuyết Hồ Anh Thái là “những 
cuốn tiểu thuyết biết suy nghĩ” (Kundera). 
Tài liệu tham khảo 
Barthes, R. (2008). Mythologies (Những huyền thoại) 
(V. T. Phung, Trans.). Knowledge. 
Bataille, G. (2016). Literature and evil (Văn học và cái 
ác) (N. Xuyen, Trans.). The gioi. 
Chevalier, J., & Gheerbrant, A. (2002). A dictionary of 
world cultural symbols: Myths, dreams, customs, 
gestures, forms, shapes, colors, and numbers (Từ 
điển biểu tượng văn hóa thế giới: Huyền thoại, 
chiêm mộng, phong tục, cử chỉ, dạng thể, các hình, 
màu sắc, con số). Da Nang. 
Lê Thị Hường 
178 
Compagnon, A. (2006). Literature, theory, and common 
sense (Bản mệnh của lí thuyết - Văn chương và 
cảm nghĩ thông thường) (H. S. Le, & A. D. Dang, 
Trans.). Education University. 
Eliade, M. (2018). The origin of religions (Bàn về 
nguồn gốc các tôn giáo) (V. C. Doan, & L. T. Do, 
Trans.). Social Sciences. 
Freud, S. (2018). Dreams & The interpretation of 
dreams (Về giấc mơ & diễn giải giấc mơ) (H. T. 
Nguy, Trans.). Thanh nien. 
Fromm, E. (2012). Psychoanalysis and Religion (Phân 
tâm học và Tôn giáo) (V. H. Luu, Trans.). T 
Encyclopaedic Dictionary of Vietnam. 
La, N. (2018). Semiotic criticism (Phê bình kí hiệu học). 
Vietnam Women's Publishing House. 
Le, H. B. (2018). Sign and intersign (Ký hiệu và liên ký 
hiệu). Ho Chi Minh City General Publishing 
House. 
Lotman, I. M. (2015). Cultural semiotics (Kí hiệu học văn 
hóa) (N. La, H. P. Do, & D. S. Tran, Trans.). Hanoi 
National University. 
Nguyen, V. H. (2019). Intercultural communication in 
the context of globalization: A few philosophical 
issues (Giao tiếp liên văn hóa trong bối cảnh toàn 
cầu hóa: Một số vấn đề triết học). Chung ta. 
https://www.chungta.com/nd/tu-lieu-tra-cuu/ 
giao_tiep_lien_van_hoa_trong_boi_canh_toan_ca
u_hoa-2.html 
Todorov, T., Le, H. S., & Dang, A. D. (2008). An 
introduction to fantastic literature (Dẫn luận về 
văn chương kì ảo). University of Education. 
Trinh, B. D. (2017). From signs to symbols (Từ kí hiệu 
đến biểu tượng). Social Sciences. 
Zohar, I. E. (2014). Polysystem Theory in culture and 
literature research (Lý thuyết đa hệ thống trong 
nghiên cứu văn hóa, văn chương) (H. Y. Tran, & 
D. N. Nguyen, Trans.). The gioi. 
INTER-SYMBOL IN HO ANH THAI'S NOVELS 
Le Thi Huong 
Hue University of Education - Hue University, Vietnam 
Author corresponding: Le Thi Huong - Email: lethihuongsph@gmail.com 
Article History: Received on 21st April 2021; Revised on 15th June 2021; Published on 17th June 2021 
Abstract: Intersymbol is one of the terms related to literary semiotics. At present, the theory of semiotics/cultural semiotics has 
become popular and is used as a knowledge framework for reference, decoding artistic text. Ho Anh Thai is considered a great writer 
with dozens of novels. Each of Ho Anh Thai's works has impact and repetition of aesthetic symbols. Ho Anh Thai's novels are rich in 
generalization, thanks to the system of intersymbols. The voice inside the texts are expressed in the interactions and collisions 
between legends, archetypes, and symbols. The association of aesthetic symbol series is in the narrative strategy of the writer. 
Key words: sign; cultural semiotics; intersignality; Ho Anh Thai; novel; legend; religion; symbol; dream; good and evil. 

File đính kèm:

  • pdflien_ki_hieu_trong_tieu_thuyet_ho_anh_thai.pdf